SỐ 103 - THÁNG 7 NĂM 2024

 

Đời Thủy Thủ 2

Vũ Thất

1

(tiếp theo)

Chương 12

Hải phận Bình Thuận
Chủ nhật 6/8/1967 02:00G

Chương trình văn nghệ lai rai chấm dứt vào 11 giờ khuya. Đã lâu mới được ca hát thoải mái nên lòng còn tiếc nuối. Tôi theo Võ Bằng xuống khu sĩ quan. Khi đứng trước cửa buồng ngủ ‘của tôi’, anh chàng nói nếu tôi thích lên đài chỉ huy ngắm cảnh về khuya thì ra phòng ăn khi nghe còi báo đổi phiên hải hành. Lời mời hấp dẫn xem chừng lấn lướt cơn mệt mỏi. Tuy vậy tôi trả lời lửng lơ “để xem”.

Tôi nhanh chóng tắm gội, mặc lại bộ đồ cũ và ngả lên giường. Chưa kịp nghĩ gì thì đã chìm vào giấc ngủ mê man.

Rồi tiếng còi báo đổi phiên dội vào tai đủ để gợi tôi nhớ Võ Bằng đang đợi ở phòng ăn. Tôi tự hỏi ngủ tiếp hay theo Võ Bằng lên đài chỉ huy? Ngủ tiếp thì dễ dàng và mặc sức ngủ khi về nhà trong khi đêm nay là đêm chót của chuyến đi nghìn năm một thuở trên tàu này. Ngày mai, vào lúc nào đó tôi sẽ xa rời vĩnh viễn. Vào lúc đó, theo dự trù, nhiều người tôi bắt đầu cảm mến sẽ tan xác cùng con tàu. Tôi muốn dành hết thì giờ còn lại để nhìn thật kỹ sự việc, để đánh giá thật đúng công tác tôi đang thực hiện…

Khi bước ra phòng ăn thì Võ Bằng và Thiếu úy Hoàng Văn đã ngồi đó tự bao giờ. Thấy tôi, Võ Bằng nở nụ cười tôi tin chẳng bao giờ quên được. Nụ cười hài lòng và hạnh phúc khác hẳn nụ cười xã giao của Thiếu úy Văn.

Ly trà đá trước anh chàng chỉ còn một nửa. Ly trà đá trước chỗ ngồi của tôi thì đầy ắp. Hộp bánh LU đang mở nắp. Tôi ngồi xuống đúng lúc Thiếu úy Văn đứng lên. Anh mang tách cà phê bỏ vào bồn rửa rồi xin phép rời phòng.

Tôi nâng ly cụng vào ly của Võ Bằng rồi đưa lên môi. Mùi hương của trà Lipton không bằng trà Bảo Lộc nhưng vị thì nghe thật ngọt ngào. Tôi uống một hơi, nhắm chừng còn bằng ly của Võ Bằng thì ngưng lại. Tôi tin rằng anh chàng hiểu đó là cách tôi thay lời cám ơn đã pha cho ly trà.

Bằng đưa tôi chiếc bánh LU:

- “Nên ăn, vì thức khuya sẽ thấy đói.”

Tôi cám ơn và cắn đôi. Nếu Bằng là Hưng thì tôi đút cho anh nửa còn lại. Tôi ăn hết và lấy thêm…

Võ Bằng lặng lẽ nhấp từng ngụm. Khi chiếc ly đã cạn, anh chàng không đặt xuống bàn mà lại đưa lên mắt. Rồi anh chàng nghiêng mặt sang tôi, đưa chiếc ly từ mắt phải sang mắt trái rồi ngược lại. Tôi ngượng nghịu nói:

- “Tôi xấu quá phải hôn?”
- “Phải! Cô thật xấu. Tôi mừng thấy cô thật xấu cho ... dễ quên!”

Tôi uống vội vàng để đè nén nỗi xúc cảm. Khi đặt ly xuống, nỗi xúc cảm tiêu tan… Võ Bằng lặng lẽ mang hai ly bỏ vào chậu rửa, rồi ra dấu tôi theo lên đài chỉ huy.

Thấy tôi, Thiếu úy Hoàng Văn ngạc nhiên:

- “Cô Phượng cũng đi ca tiên?”
- “Ca tiên?” Nghe từ ngữ lạ, tôi hỏi.
- “Là tên gọi cho phiên trực hải hành từ nửa đêm tới 4 giờ sáng.” Võ Bằng nhanh nhẩu.
- “Vì sao gọi là ca tiên?”
- “Có thể nó mang nghĩa ca trực đầu tiên trong ngày. Cũng có thể do giờ giấc của nó dễ gặp tiên nữ chăng?”
- “Đại úy chắc đã nhiều lần gặp tiên nữ?” Tôi trêu chọc.
- “Chưa lần nào, nhưng đêm nay thì đã gặp. Và sau đêm nay thì xem chừng chẳng bao giờ còn gặp nữa.”
- “Tôi thì sợ gặp… tiên ông!” Tôi nói.

Chúng tôi cười vang. Võ Bằng, Thiếu úy Văn và Trung úy Bạch, Thiếu úy Ấn bàn giao phiên hải hành. Tôi nhìn quanh. Một người đang giữ tay lái, hai người đứng hai bên đều có vóc dáng trung bình. Không thấy bóng dáng tên Mỹ. Trung úy Bạch và Thiếu úy Ấn rời đài chỉ huy. Võ Bằng và Thiếu úy Văn chính thức nắm vận mạng con tàu. Tôi nghe niềm hãnh diện dâng lên. Trăm năm đô hộ không cản được tài ba của dân Việt. Tôi đứng khoanh tay lên thành đài, thưởng thức không gian êm ả thanh bình, sảng khoái dõi mắt trên mặt đại dương. Không bóng tối nào ngăn được vẻ long lanh của các ngọn sóng. Và bầu trời cũng chia vui với vô vàn vì sao lấp lánh. Càng ngắm tôi càng ngạc nhiên. Ở biển, bầu trời về đêm sâu thẳm và lộng lẫy, không như bầu trời thành phố vàng vọt, sao thưa thớt. Tôi nhớ đến bầu trời màu xanh ban ngày.

Khi Võ Bằng bước đến đứng bên tôi, tôi hỏi ngay:

- “Đại úy đã giải thích vì sao bầu trời màu xanh, bây giờ tôi thấy bầu trời màu đen…”
- “Thì ban đêm nó phải đen, chứ sao! Chúng ta đều biết ban ngày thì sáng, ban đêm thì tối!”
- “Đại úy đã căn dặn tôi phải hỏi ‘vì sao’?”
- “Có câu nói tôi không nhớ của ai: ‘Nếu chưa đứng vững trên đất thì đừng nói chuyện trên trời.’ Hôm nay tôi nhớ lại câu đó nên xin… ngậm miệng!”
- “Chớ không phải Đại úy bị… bí? Người ta nói ‘nếu không đứng vững trên đất’ chớ có nói ‘trên biển’ đâu mà không được bàn chuyện trên trời!”
- “Với cô, thật khó mà qua mặt! Quả là tôi bí lù với câu hỏi này. Xin trả lời sau nếu còn có dịp gặp lại!”

Thiếu úy Văn báo Võ Bằng có nhiều đèn phía trước mũi. Võ Bằng ngắm nghía rồi ban lệnh tăng giảm máy và lệnh đổi hướng tránh né các ghe câu. Có khi con tàu cách chiếc ghe chừng năm mười thước, đếm được số người trên ghe. Mãi nửa giờ sau, không gian trở lại mịt mùng và con tàu lại tăng tốc độ.
Khi Võ Bằng trở lại đứng bên tôi. Tôi nói:

- “Bầu trời lộng lẫy quá, như có vô vàn hạt kim cương. Mỗi hạt có độ lấp lánh khác nhau, sắc màu khác nhau.”
- “Tôi coi như cô muốn đặt ra hai câu hỏi. Thứ nhất, vì sao các ngôi sao lấp lánh? Vì ánh sáng từ ngôi sao bị khúc xạ khi qua lớp khí quyển. Thứ nhì, vì sao sắc màu khác nhau? Vì tùy thuộc độ xa, độ lớn, độ nóng, chất liệu và tuổi tác của ngôi sao. Như với ngôi sao màu xanh, ngôi sao đó xa trái đất hơn ngôi sao màu đỏ. Hoặc có màu xanh vì nhiệt độ của nó nóng hơn ngôi sao màu đỏ. Về tuổi tác cũng tương tự. Màu đỏ cho biết ngôi sao ở cuối đời. Câu hỏi kế tiếp…”

Hỏi gì đây? Gió? Biết rồi. Mưa? Biết rồi. Bão? Biết rồi. Võ Bằng lên tiếng:

- “Cô cứ suy nghĩ và tự do đặt câu hỏi. Tôi rất vui được trả lời mọi câu hỏi. Tuy nhiên sẽ vui hơn nếu cô hứa trả lời một câu hỏi của tôi. Một câu hỏi duy nhất.”

Tôi ngại ngần. Câu hỏi duy nhất hẳn phải là câu hỏi khó! Khó nhất thì cũng chỉ là câu ‘Cô có yêu tôi không?’ Sợ gì mà không trả lời có. Dù gì Võ Bằng cũng đã dành cho tôi sự tiếp đãi đặc biệt ân cần. Trả lời có như là một cách cám ơn. Rồi vĩnh viễn không thấy mặt nhau. Tôi hăng hái hứa:

- “Tôi hứa sẽ trả lời.”

Võ Bằng gật đầu cười khoái chí. Vẫn nụ cười tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi lại ngắm khung trời thăm thẳm lung linh để trấn áp nỗi buồn mênh mang ập đến.

Tiếng nhắc nhở của Võ Bằng:

- “Hỏi tiếp đi chớ!”

Tôi lại nhìn lên khung trời ngàn sao và chợt nhớ đến truyện ngắn tôi học lớp đêm ở Hội Việt Mỹ năm rồi. Tôi đã nghĩ đó chỉ là những lời hoa mỹ của một nhà văn. Nhưng đêm nay, ngoài biển xa khơi, tôi thấy lời văn hoa mỹ đó chừng như chưa diễn đạt đầy đủ. Bởi vì chính mắt tôi đang chiêm ngưỡng bầu trời đêm tuyệt vời. Tôi đặt ngay câu hỏi:

- “Đại úy có đọc truyện The Stars của Alphonse Daudet?”
- “‘The Stars’ thì chưa, nhưng ‘Les Étoiles’ thì có. Thời trung học của tôi còn ngoại ngữ Pháp văn nên Alphonse Daudet nằm trong chương trình.”
- “Bầu trời tôi đang chiêm ngưỡng còn đẹp hơn bầu trời của cô chủ Stéphanette nói với chàng chăn cừu: ‘Never had the heavens appeared to me so profound, never the stars so brilliant.’” (1)
- “Tôi thì thích câu tiếng Pháp, nghe… Tây hơn: ‘Jamais le ciel ne m’avait paru si profond, les étoiles si brillantes…’”

Tôi cười thầm. Anh chàng có vẻ muốn khoe mình biết tiếng Pháp chăng? Vậy thì nói thêm một câu tiếng Anh nữa cho bõ ghét:

- “If one has ever passed a night under the stars, one knows that during the hours when most people sleep a mysterious world awakens in the solitude and the silence.” (2)
- “Cô Phượng thuộc cả bài tiếng Anh?”
- “Tôi từng thuộc cả bài nhưng giờ thì quên nhiều!”
- “Đây là câu tiếp theo: ‘Lúc bấy giờ những dòng suối có tiếng ngân trong trẻo hơn, những hồ nước lấp lánh những đốm lửa nhỏ. Các thần linh của núi rừng đi lại tự do; và trong không gian có những xao xuyến, những âm thanh không thể nghe được, tuồng như người ta nghe cây cối tăng trưởng, cỏ hoa mọc thêm’. Trong trường hợp đứng giữa biển mịt mùng như đêm nay, lời diễn đạt trên cần bổ sung thêm một đoạn nữa: và tuồng như người ta nghe được cả nhịp tim của công chúa Thủy tề và nỗi hân hoan của người thủy thủ…”

Lời thêm thắt của Võ Bằng mang cho tôi niềm hưng phấn và bạo dạn. Tôi cao hứng đọc tiếp, đổi tiếng ‘shepherd’ thành ‘lieutenant’:

- "How beautiful the stars are! I have never seen so many. Do you know their names, lieutenant?" (3)
- “Mais oui, Mademoiselle Phượng. Tenez! Juste au-dessus de nous, voilà le Chemin de Saint Jacques (la Voie lactée).” (4)

Chúng tôi cùng cười phá lên. Mọi người hiện diện quay lui nhìn chúng tôi như hai quái vật. Không ngờ Võ Bằng lại nhạy bén đến thế. Tôi vui thích ngợi khen:

- “Xem chừng đại úy thuộc cả bài tiếng Pháp?”
- “Cũng không hơn gì cô!”
- “Tôi không tài nào nhớ cái đoạn anh chàng chăn cừu kể chuyện tình các vì sao! Vừa khó hiểu vừa có những danh từ riêng lạ lẫm…”

Anh chàng nghiêng mặt nhìn tôi:

- “Vậy thì để tôi thử đóng vai chàng chăn cừu tán hươu tán vượn may ra giúp cô hiểu rõ hơn chăng! Nhưng trước hết tôi phải giao quyền chỉ huy cho Thiếu úy Văn. Cô chờ tôi một chút!”

Võ Bằng bước sang bàn hải đồ, loay hoay đo đạc. Tôi tiếp tục ngước nhìn các vì sao, hít sâu làn gió nhẹ, cố đè nén xúc động. Sao bỗng dưng tôi lại gài Võ Bằng và tôi vào hai nhân vật của một truyện tình tuyệt đẹp? Trong sâu thẳm của tâm hồn, tôi đang có ước muốn đó sao? Chưa bao giờ tôi và Hưng có những giây phút êm đềm thơ mộng như thế này. Hưng quá thực tế. Trong đầu Hưng lúc nào cũng đấu tranh cướp chính quyền, lúc nào cũng tìm phương cách đuổi Mỹ về nước, lúc nào cũng mộng mơ xây dựng một xã hội không có người bóc lột người. Ngay cả khi ngồi bên nhau ở những quán cà phê ngoài trời, tôi cũng không nhận được một lời tình tứ ngọt ngào nào. Thậm chí có lần tôi phải mượn một câu trong một truyện của Bùi Quang Đoài để tỏ lòng mình: ‘Anh hãy đếm những vì sao trên trời, được bao nhiêu thì em yêu anh còn hơn thế nữa’. Hưng nghe mà chỉ cười trừ…

Võ Bằng trở lui đứng bên tôi, hỏi:

- “Cô Phượng thấy ‘The Stars’ ra sao?”

Tôi lại nhìn lên bầu trời rồi thú nhận:

- “Sao nhiều hơn và sáng tỏ hơn ở thành phố… vạn lần.”
- “Tôi muốn hỏi cảm nghĩ về truyện Les Étoiles”.
- “Rất tuyệt! Tôi mê lắm, mê đến thuộc lòng!” 
- “Chỉ câu kết thôi cũng đủ ăn tiền, phải không?” Võ Bằng cười khẽ. “Có lúc tôi ngỡ rằng một trong những ngôi sao đó, ngôi sao đẹp nhất, sáng nhất, lạc đường đã đến tựa trên vai tôi mà ngủ….”
- "Đẹp như mơ! Mọi người mê là vì vậy”.
- “Thời đó tôi cũng mê lắm, nhưng sau vào Hải Quân, được học Hàng hải Thiên văn, có dịp nghiên cứu các vì sao mới thấy anh chàng chăn cừu này có phần… ma giáo.”
- “Ma giáo, ma giáo là sao?” Tôi ngạc nhiên hỏi.
- “Cô chê anh chàng chăn cừu kể chuyện tình các vì sao khó hiểu. Tôi tạm tóm lược đoạn khó hiểu đó: ‘Cô hãy nhìn kia! Ngay trên đầu chúng ta là con đường Thánh Jacques (dải Ngân Hà)… Chính Thánh Jacques đã vạch con đường này cho hoàng đế Charlemagne tiến đánh bọn Sarrasins. Xa hơn, là cỗ xe chở linh hồn (Ðại Hùng Tinh) với bốn trục bánh xe sáng rực. Ba ngôi sao đi đầu là ba con vật kéo xe, và ngôi sao bé tí gần ngôi sao thứ ba là người xà ích điều khiển xe… Thấp một chút là sao Ba Ông Vua...Thấp hơn một chút, vẫn về phía nam, là ngôi sao Jean de Milan, ngọn đuốc của các vì sao. Về ngôi sao này, các mục đồng có truyền tụng một câu chuyện như sau. Vào một đêm nào đó, Jean de Milan cùng với sao Ba Vua và sao Poussinière (sao Rua) được mời dự tiệc cưới của một sao bạn gái. Sao Poussinière vội vã hơn nên đi trước và chọn lộ trình cao… Sao Ba Vua đi đường thấp hơn và đuổi kịp; nhưng anh chàng Jean de Milan lười biếng này, vì ngủ dậy trễ, đi lẹt đẹt sau chót, giận dữ đưa cây gậy ra để chận các sao kia lại. Vì thế, sao Ba Vua còn được gọi là cây gậy của Jean de Milan. Nhưng ngôi sao đẹp nhất trong tất cả các vì sao, là ngôi sao của chúng tôi, Ngôi Sao của Kẻ Chăn Cừu (sao Hôm, sao Mai)… Chúng tôi còn gọi sao đó là Maguelonne. Nàng Maguelonne kiều diễm chạy theo chàng Pierre của xứ Provence (Thổ Tinh) và kết hôn với chàng ta cứ bảy năm một lần.’ Câu chuyện mờ mờ ảo ảo, tính danh các vì sao không giống ai, kết cuộc chẳng đâu vào đâu! Vậy có khác gì những lời ru ngủ cho cô chủ vốn đang mỏi mệt vì lạc đường, vì mưa lạnh! Ngồi cạnh kề nhau mà ngủ gục thì đương nhiên nàng phải ngả vào vai chàng! Ma giáo là chỗ đó!”
- “Đại úy có ý tưởng… quỷ quái thật!”
- “Tôi chỉ bông lơn cho vui thôi. Huyền thoại của Pháp về các vì sao đến anh chàng chăn cừu cũng biết thì coi như người Pháp nào mà không biết! Chỉ chúng ta mù mờ vì bận mê… truyện cổ nước Nam!”

Tôi vẫn cảm thấy bực dọc. Dù là ý nghĩ bông lơn nhưng vẫn là một xúc phạm đến nét đẹp của nội dung. Phải chọc quê cho bõ ghét, tôi nói khích:

- “Đại úy trách anh chàng chăn cừu ma giáo. Vậy, với cái tâm trong sáng, đại úy sẽ kể câu chuyện thế nào?”
- “À à! Cô Phượng làm khó tôi chi vậy; có là khùng mới sửa đổi một tuyệt phẩm văn chương. Tôi chỉ dám liều mạng lan man cái đoạn khó hiểu cho nó… dễ hiểu hơn thôi!”
- “Tôi xin lắng nghe.”
- “Trường hợp việc tôi lan man càng khiến cô Phượng thêm khó hiểu, thì hãy như cô chủ của chàng chăn cừu, cô quá giang của chiến hạm cứ tự nhiên… tựa lên vai tôi mà ngủ!”
- “Đại úy! Xin làm ơn…” Tôi ngượng nghịu kêu lên.
- “Trước khi lan man,” Võ Bằng thản nhiên tiếp, “tôi xin có vài lời phi lộ về thiên văn. Như cô đang nhìn thấy và như trong truyện kể, bầu trời quả là sâu thẳm với vô vàn các vì sao. Sâu thẳm là vì nó vô cùng tận. Rồi cô sẽ thấy vì đâu nó vô cùng tận. Còn với vô vàn các vì sao, thì ngay với kính thiên văn, cũng không ai đếm được hết. Tuy vậy, từ năm ngàn năm trước, các nhà thiên văn đã quan sát, nghiên cứu và chọn đặt tên cho chừng vài chục ngôi sao sáng nhất, có lợi ích nhất cho mùa màng và hàng hải. Nhưng việc nhận dạng từng vì sao lại là chuyện khó nên tùy vị trí của chúng, họ đặt chúng thành từng chòm, và hình dung mỗi chòm thành một con người hay một con vật. Và qua hình dạng của nó, họ bịa ra một câu chuyện thần thoại để dựa vào đó mà đặt tên cho chòm sao. Có tất cả 88 chòm sao thấy được bằng mắt thường trên bầu trời, gồm 12 chòm sao Hoàng Đạo, 29 chòm sao ở Bắc bán cầu và 47 chòm ở Nam bán cầu. Cô Phượng theo kịp chứ?”
- “Xin tiếp tục…”
- “Vào thời điểm anh chăn cừu ngồi bên cô chủ ở một trang trại nào đó trên nước Pháp nằm khoảng giữa Bắc bán cầu, bầu trời hiện ra những chòm sao như được kể trong truyện: Con đường của Thánh Jacques tức Dải Ngân Hà, Chòm Đại Hùng Tinh với Cỗ Xe chở Linh Hồn, chòm Lạp Hộ với sao Ba Vua, chòm Đại Khuyển với sao Sirius, chòm Kim Ngưu với cụm sao Rua cùng hai hành tinh Sao Kim và Sao Thổ. Vậy, tôi bắt đầu bằng huyền thoại Dải Ngân Hà…” 

Ảnh miễn phí của Thiên nhiên
Dải Ngân Hà

Tôi chận lời Võ Bằng:

- “Huyền thoại dải Ngân Hà - con đường Thánh Jacques, theo ông thầy tôi giảng thì đó là con đường hành hương từ Pháp sang Tây Ban Nha mà vì tín đồ đi hành hương quá đông, bụi bay mờ mịt thành một dải sáng trông như sữa, nên được đặt tên là La Voie lactée. Mình gọi là Dải Ngân Hà.”
- “Đó chính là huyền thoại được kể trong truyện. Nhưng còn một huyền thoại khác cũng ‘trông như sữa’, mà hấp dẫn hơn. Thần thoại Hy Lạp kể rằng trên trời có một vị thần chúa tể tên Zeus, rất uy quyền mà cũng rất…. loạng quạng! Một hôm, một đứa con ngoại hôn của ông bị khát sữa vì mẹ đi vắng, ông liều mạng cho nó bú trộm vú hoàng hậu Hera đang ngủ say. Hoàng hậu giật mình đẩy đứa bé ra, khiến dòng sữa văng tung tóe lên bầu trời thành Milky Way.”

Võ Bằng nâng ống dòm lên tìm kiếm rồi đưa cho tôi:

- “Cô Phượng nhìn kỹ hướng này sẽ thấy một dải sáng chạy dài từ hướng lái đến hướng mũi tàu. Đó là Milky Way.

Tôi nhìn qua ống dòm. Đúng là có một dải sáng, nơi thì rực trắng, chỗ thì ửng hồng quyện lẫn những làn mây đen nằm vắt ngang bầu trời. Một hình ảnh lạ lùng, tuyệt đẹp nhưng không có gì giống một đường sữa hay long lanh thủy ngân. Tôi hỏi:

- “Milky Way sao lại dịch là Dải Ngân Hà?”
- “Thì đông là đông, tây là tây mà! Người châu Âu thấy nó như dòng sữa nhưng người châu Á trông nó tựa như dòng sông! Phải chăng vì dân châu Á nghèo nàn ít thấy sữa nên chỉ có hình ảnh nước trong đầu? Nhưng chính nhờ nghĩ tới dòng sông Ngân Hà mà ngày nay văn học Việt Nam có được câu chuyện tình đẫm nước mắt mà đẹp hơn cả Les Étoiles. Đẹp hơn là cái chắc: Cô con gái út của Ngọc Hoàng yêu chàng chăn trâu. Và vì quá yêu nhau mà phải bị phạt xa nhau! Cô hãy nhìn lại dải Ngân Hà, và tôi sẽ chỉ cô đâu là Chức Nữ, đâu là Ngưu Lang…”

Tôi phản đối:

- “Đại úy ơi, đây chỉ là huyền thoại!”
- “Đúng là huyền thoại nhưng là huyền thoại về các thực thể. Thực tế trên bầu trời có một ngôi sao mang tên Chức Nữ và một ngôi sao mang tên Ngưu Lang, mỗi ngôi sao nằm một bên dải Ngân Hà. Hãy nhìn theo ngón tay của tôi. Ngôi sao sáng nhất, lấp lánh ánh xanh bên trên bờ sông chính là nàng Chức Nữ. Còn ngôi sao dĩ nhiên sáng thua Chức Nữ đôi chút ở bờ bên dưới, về phía tay phải chính là chàng Ngưu Lang. Và ngôi sao nằm ngang sao Ngưu Lang bên tay trái chính là tiên nữ Thiên Tân, người được Ngọc Hoàng biệt phái đưa đò cho ‘đôi trẻ’ hằng năm gặp lại nhau. Cô nhận ra ba ngôi sao rồi chứ?”
- “Thấy rồi.” Tôi hăng hái gật đầu.
- “Cô có biết đôi uyên ương bị chia cách bao xa không?”

Tôi cười:

- “Chắc không quá xa. Xa quá thì tiên nữ Thiên Tân chèo gì nổi!”

Võ Bằng hướng nhìn về vùng trời mông lung như đang đo lường khoảng cách giữa hai vì sao. Tôi nghe ấm ức với cách hỏi của Võ Bằng, câu hỏi vô bổ, vô lý như muốn chọc tức người nghe. Có ai đi đo làm gì khoảng cách giữa hai vì sao. Tôi xoay người nhìn các thủy thủ đương phiên. Ba bóng đen vẫn đứng dàn hàng như ba pho tượng. Ở vành cung đối diện tôi với Võ Bằng là bóng dáng của Thiếu úy Văn, ống dòm dán vào mắt. Chiếc ghế hạm trưởng trống vắng im lìm. Tiếng của Võ Bằng kéo tôi xoay lại:

- “Muốn thấy được là bao xa, tôi cần nói thêm đôi chút về dải Ngân Hà. Nó có chừng vài trăm tỷ ngôi sao trong đó có ngôi sao Mặt Trời. Chúng ta đã học Thái dương hệ gồm Mặt Trời và 9 hành tinh quay quanh nó. Trái Đất chúng ta là một. Dải Ngân Hà thực ra là một khối hình trụ tròn, tựa như vòng thổi của khói thuốc, có đường kính khoảng 100.000 năm-ánh-sáng, có độ dày khoảng 1.000 năm! So với vũ trụ, cô đã thấy dải Ngân Hà chỉ chiếm một khoảng trời bé nhỏ. Để hình dung vũ trụ lớn cỡ nào, chỉ cần biết dải Ngân Hà bé cỡ nào. Cô hẳn còn nhớ tốc độ của ánh sáng là ba-trăm-ngàn-cây-số-trong-một-giây. Một năm-ánh-sáng là gần 10 ngàn tỷ cây số. Theo công thức tính thể tích hình trụ tròn, ta lấy bình phương của 10 ngàn tỷ cây số nhân cho bán kính 50.000 năm-ánh-sáng, rồi nhân chiều cao 10 ngàn tỷ cây số, rồi nhân cho 1.000 năm rồi nhân cho Pi. Cô thử hình dung số thành của bài toán!”
- “Quả là càng không thể hình dung vũ trụ lớn đến cỡ nào!”
- “Với một dải Ngân Hà mênh mông như vậy thì khoảng cách xa nhau giữa Chức Nữ và Ngưu Lang là 16 triệu năm-ánh-sáng xem ra có là bao!”
- “Xa như vậy thì làm thế nào một năm gặp một lần được?”
- “Thì như vậy mới gọi là huyền thoại! Ngọc Hoàng chỉ cần cho gặp là… gặp thôi!”

Võ Bằng cười sảng khoái. Tôi cũng thấy vui lây. Không ngờ trên trời lại có những con số quá sức khổng lồ. Tôi thích thú hỏi tiếp:

- “Ngưu Lang, Chức Nữ mỗi năm được tái ngộ vào tháng bảy mưa ngâu, còn trong truyện của Alphonse Daudet, Kim Tinh và Thổ Tinh phải cần đến 7 năm mới kết hôn một lần là sao?”
- “Thực tình mà nói, tôi cũng… mù luôn! Tuy nhiên, theo tôi suy đoán thì chắc tác giả muốn nói về thời điểm gặp gỡ giữa Kim Tinh và Thổ Tinh được nhìn từ Quả Đất.”

Võ Bằng lặng thinh một lúc như tìm giải đáp:

- “Cái rắc rối là người đẹp Kim Tinh – Vệ Nữ  – không chịu quay quanh Mặt Trời cùng chiều với 8 hành tinh kia mà lại quay theo chiều ngược lại. Người đẹp này lại nhiều e ấp. Trong một thời gian nào đó, nàng vừa là sao Mai vừa là sao Hôm; một thời gian khác chỉ là sao Mai hoặc sao Hôm; lại có khi lâu vài ba tháng nàng biến mất trên bầu trời. Với người đẹp Kim Tinh thì vậy, còn người đẹp Kim Phượng cũng nào kém: lúc thì vừa quen vừa lạ, khi thì chỉ lạ hoặc chỉ quen và ngày mai đây cũng sẽ biến mất!”

Tôi cười:

- “Tôi được Ngọc Hoàng gửi tạm xuống chiến hạm này để đồng hành cùng đại úy một lần… rồi thôi. Rồi biến mất vĩnh viễn.”
- “Cũng đành!” Võ Bằng lắc đầu.

Tiếng Thiếu úy Văn vang lên:

- “Trình Hạm Phó, chiến hạm nằm lệch ngoài đường nửa hải lý.”
- “Anh cho lệnh lái vào hải lộ.”
- “Đáp nhận.”

Võ Bằng lặng thinh nhìn hướng mũi tàu như đang quan sát tác động của các lệnh Thiếu úy Văn ban hành. Một lúc, anh quay sang tôi:

- “Còn câu chuyện của chúng ta, tôi có… lệch xa lắm không?”
- “Đại úy vẫn còn đi trên thiên cầu nhưng chưa nói về chòm sao Đại Hùng Tinh với cỗ xe chở linh hồn!”

Giọng Bằng đều đều ấm áp như được phát ra từ nụ cười:

- “Về chòm Đại Hùng Tinh, tên thiên văn là Ursa Major, gọi nôm na là Gấu Lớn, có 7 ngôi sao sáng rất “danh trấn giang hồ” cả trong thiên văn lẫn văn học, mang tên Thất Tinh Bắc Đẩu. Gạch nối 7 ngôi sao này, nó thành hình một cái gầu. Người xưa tưởng tượng cái gầu là thân con gấu. Tuy nhiên, các nhà thiên văn thời Ả Rập cổ xưa lại tưởng tượng thành một chiếc xe với 4 ngôi sao là cỗ quan tài và ba ngôi sao còn lại là ba con vật kéo xe. Đó là hình ảnh Cỗ Xe chở Linh Hồn theo như truyện kể.”

Bằng chỉ tay về vùng trời sau lái tàu, gần chân trời:

- “Hãy cố tập trung vào bảy vì sao sáng tạo hình cái gầu. Kéo dài cạnh cuối của chiếc gầu gấp năm lần sẽ gặp ngôi sao không sáng lắm nhưng lại là ngôi sao quan trọng nhất. Đó là sao Polaris tức sao Bắc Đẩu. Nó quan trọng vì luôn luôn chỉ gần đúng hướng Bắc của địa cầu. Sao Bắc Đẩu cũng là ngôi sao nằm cuối đuôi của Gấu Nhỏ, tức chòm Tiểu Hùng Tinh, Ursa Minor.”

Bằng nghiêng người chỉ ngôi sao sáng tỏ gần chân trời, trọn vẹn cánh tay còn lại dính chặt vào cánh tay của tôi. Trời đang gió lặng biển êm mà tôi như người trong cơn bão. Tôi bấu các ngón tay vào thành sắt, tưởng như có lực kéo bay khỏi đài chỉ huy. Tôi vội lên tiếng và nhích rời cánh tay:

– “Tôi chịu thua, thấy sao nào cũng giống sao nào!”
- “Giống thế nào được. Hãy nhìn ngôi sao tỏ nhất.”

Tôi nghiêng đầu, nhắm một mắt theo ngón tay của Bằng. Cuối cùng tôi cũng nhận ra ngôi sao giây phút trước đó mang lại nhiều xao xuyến. Tôi không kềm được tiếng kêu thích thú:

– “Tôi đã hiểu vì sao các anh đi biển lâu ngày mà không chán rồi!”
– “Đối với các nhà hàng hải, từ chòm Đại Hùng Tinh còn giúp tìm được thêm nhiều chòm sao lân cận bằng cách cứ kẻ đường kéo dài đi qua hai ngôi sao nào đó trong chòm. Còn đối với nhà nông, cứ nhìn Thất tinh Bắc Đẩu là biết mùa: Vào lúc hoàng hôn, nếu thấy cái cán chỉ về hướng Đông thì nhân thế vào mùa Xuân, chỉ hướng Nam – mùa Hè, hướng Tây – mùa Thu và hướng Bắc – mùa Đông.”

Tôi lại thích thú khẽ reo:

– “A, hay quá!”

Qua một cử động đổi thế đứng, cánh tay tôi vô tình chạm vào cánh tay Bằng. Lần này, sự va chạm rất nhẹ nhưng đủ làm thân tôi như hòa nhịp con tàu đang rung. Tôi cố xóa cảm giác lạ lùng đó. Thời may, vừa lúc đó một lằn sáng xẹt nghiêng bầu trời. Tôi mừng rỡ kêu lên:

– “Ô, sao băng. Một ngôi sao băng thiệt đẹp!”

Bằng nói khẽ:

– “Cô Phượng ước điều gì đi. Thấy sao băng, ước gì được nấy.”

Tôi nghĩ đến Hưng. Ước làm vợ Hưng chăng? Tôi từng thầm ao ước làm vợ Hưng nhưng sao lúc này lại ngần ngừ? Tôi nhìn Bằng rồi hướng về ngôi sao băng đã tắt, thầm nói. “Ước gì tôi đã không…” Tiếng Bằng cắt ngang:

– “Cô ước gì, tôi biết được chăng?”
– “Không! Không thể được!” Tôi ấp úng.
– “Sao lại không? Thông thường người ta ước điều tốt đẹp.”
– “Điều tôi muốn ước, xem ra không còn thích hợp!”
– “Cô có muốn nghe điều ước của tôi không?”

Có thể Bằng đã ước được tôi yêu; cũng có thể đã ước được tôi… làm vợ. Nếu thật vậy và nếu Bằng ngỏ ý, tôi sẽ trả lời sao? Tôi tự cười nhạo mình sao bỗng dưng lại có ý tưởng quá ngạo mạn. Hay chính tôi đang khao khát được như vậy?  Không kềm được óc tò mò, tôi ngại ngùng hỏi:

– “Đại úy nói nghe thử!”
– “Nghe thử thì không nói!”
– “Thì nghe thiệt!”
– “Ước gì cô Phượng đã không xuống tàu…”

Tôi lại ngước nhìn muôn vạn vì sao. Dường như chúng đang chao đảo, nhòe nhoẹt. Thật lạ lùng, đó cũng chính điều tôi muốn ước! Tôi đã ước giống Bằng nhưng không phải như mục đích của Bằng. Bằng chỉ muốn bày tỏ tình yêu dành cho tôi, còn tôi, chỉ vì yêu Hưng mà bước xuống tàu để rồi tình yêu đó chừng như không còn nguyên vẹn. Giọng êm ái của Bằng như sóng gió ập phủ lên tôi:

– “Thôi thì cứ xem cô như ngôi sao băng. Thấy đó rồi mất đó.”

Tôi lại vội lên tiếng để tránh khỏi mềm lòng:

- “Vì sao có sao băng, Đại úy?”
- “Sao băng, còn gọi là sao đổi ngôi khi thiên thạch bay vào bầu khí quyển bị bốc cháy do cọ xát. Thường thì chúng biến thành tro bụi. Thiên thạch nào lớn quá, không cháy hết, sẽ rơi xuống mặt đất và được gọi là vẩn thạch. Mưa sao băng là các sao băng cùng phát ra từ một hướng. Mưa sao băng thường là do sao chổi bị vỡ ra. Sao chổi được hình thành từ các đám mây ngoài thái dương hệ. Đuôi sao chổi có thể dài hàng triệu cây số. Câu hỏi kế tiếp?”
- “Đại úy đã nói về dải Ngân Hà, chòm Đại Hùng Tinh, mà chưa kể chuyện sao Ba Vua.”
- “Đó là ba ngôi sao thẳng hàng nổi bật trên cái đai lưng của người thợ săn Lạp Hộ Orion. Chòm sao này không chỉ giúp chàng chăn cừu biết giờ giấc mà còn tối cần cho các nhà hàng hải định vị và định hướng con tàu. Chòm sao này có lắm điều thú vị…”

Tiếng còi vang lên, lồng lộng. Bằng nói:

- Mười lăm phút nữa tôi sẽ mãn phiên. Nếu cô Phượng còn muốn tiếp tục…”

Tôi nhanh nhẩu:

- “Nếu đại úy không buồn ngủ…”
– “Tôi sẽ ngủ bù sau khi cô rời tàu. Chừng đó còn dịp gặp lại cô… trong mơ!”

Tôi dở cười dở khóc. Biết Võ Bằng hay nói xa nói gần mà cứ thích dây dưa. Trăng sao có dính dáng gì đến tương lai, sao phải nghe cho hao tâm tổn tướng. Tôi định rút lại lời nói, bỏ xuống phòng nhưng giọng êm đềm của Bằng như mệnh lệnh bắt tôi đứng yên:

– “Cô Phượng chờ một tí.   Bàn giao xong, chúng ta mặc sức theo chân chàng thợ săn Lạp Hộ…”

Truyền thuyết về chòm sao Orion và Bọ Cạp | All about the stars and sky
Chòm Hổ Cáp và Lạp Hộ

Khi chúng tôi ngồi mỗi người một ghế ở khẩu đại bác 76 ly 2 trước mũi, Bằng nhìn bao quát bầu trời một lúc mới lên tiếng:

– “Quả là không thấy chòm Lạp Hộ Orion. Theo sách vở, chòm sao này chỉ thấy từ mùa Thu qua đến mùa Xuân. Vào mùa Hạ, chàng thợ săn cũng đi nghỉ hè như cô Phượng. Vậy cô chịu khó tưởng tượng trên nền trời có ba ngôi sao sáng gần nhau và thẳng hàng, đó là đai kiếm của chàng thợ săn Lạp Hộ. Đó cũng chính là sao Ba Vua. Rồi tưởng tượng tiếp có bốn ngôi sao sáng khác bao quanh: hai ngôi sao phía trên màu đỏ là Bellatrix và Betelgeuse, mỗi sao trên mỗi vai của một chàng thợ săn này và hai ngôi sao phía dưới, một không tên, một sắc rực xanh Rigel nằm ở hai đầu gối.”

Tôi cố tưởng tượng chàng thợ săn nhưng chỉ loáng thoáng hình bóng của Bằng! Tôi kêu lên:

– “Nào thấy gì đâu!”
– “Nếu có cơ hội, tôi sẽ cho cô xem hình, còn bây giờ thì phải ráng tưởng tượng thôi. Từ cái đai lưng Sao Ba Vua, kéo dài ở hai đầu, sẽ gặp hai ngôi sao cũng được truyện nhắc đến là sao Jean de Milan tức sao Sirius, tức sao Thiên Lang sáng nhất bầu trời thuộc chòm Đại Khuyển và cụm Poussinière, tức cụm Thất Nữ tuyệt đẹp thuộc chòm Kim Ngưu. Cụm Thất Nữ chính là cụm sao mà người mình gọi là Sao Rua, hay Tua Rua. Quan sát bằng kính thiên văn, cụm sao này có đến 250 vì sao nhưng nhìn bằng mắt thường, có cái lạ là người ngoại quốc thì thấy 7 ngôi sao mà người mình lại thấy tới 9. Bởi vậy mới có các câu ca dao:

Sao Rua chín cái nằm kề
Thương em từ thuở mẹ về với cha.

Sao Rua chín cái nằm ngang,
Thương em từ thuở mẹ mang trong lòng.
Sao Rua chín cái nằm chồng,
Thương em từ thuở mẹ bồng mát tay.
Sao Rua chín cái nằm xoay,
Thương em từ thuở em hay khóc nhè.

Sao Rua chín cái nằm gần,
Thương em từ thuở bước chân xuống tàu.”

Tôi không nhịn được tiếng cười:

– “Hai câu chót chắc là ca dao mới, do đại úy Bằng sáng tác.”

Bằng cười giòn. Sợ Bằng thêm sáng tác, tôi vội tiếp:

– “Theo lời Đại úy, các nhà thiên văn đặt tên các chòm sao theo hình tượng con người và con vật. Xin cho vài ví dụ…”
– “Ví dụ như Xà Phu, Hổ Cáp, Song Nam, như Thiên Nga, Song Ngư, Bắc Giải… Trong việc đặt tên, các nhà thiên văn còn thận trọng đặt cho đủ giống đực giống cái để giúp các chòm sao khỏi cô đơn. Ví dụ như về vợ chồng thì có chòm Thiên Vương, Thiên Hậu; về bạn bè thì có Anh Tiên, Xử Nữ; về bồ bịch thì có Tiên Nữ, Mục Phu…”
– “Đại úy quả là có lòng quảng đại, cho Tiên Nữ có bồ…. cowboy!”
– “Thì truyện Les Étoiles đã chẳng gợi ý chàng chăn cừu mê cô chủ? Rồi thêm truyện con gái Ngọc Hoàng mê chàng chăn trâu. Còn truyện tôi đang tưởng tượng thì vai chính cũng đang mê một giai nhân…”

Tôi hốt hoảng tránh né:

– “Đại úy nói, vị trí con tàu được xác định bằng nhiều cách, như bằng La bàn đo góc độ đối vật, bằng Radar đo khoảng cách, bằng Loran nhận tín hiệu. Vậy thì còn học thêm môn Thiên văn rắc rối mà làm gì!”
– “Cô Phượng ngưng gọi tôi ‘đại úy’ tôi sẽ nói lý do. Đây là lần yêu cầu cuối cùng.”

Tôi đắn đo. Nhưng chắc phải đành thôi. Đường về thì còn xa mà bị Võ Bằng xem như người lạ thì càng thấy xa hơn. Tuy nhiên tôi liều thử hoãn binh như lần trước:

– “Chỉ mới quen Đại úy hơn một ngày. Vẫn còn quá sớm!”
- “Cô hứa sẽ gọi ‘Anh’ trước khi rời tàu?” Võ Bằng lặp lại câu hôm qua.
- “Tôi hứa!”

Gọi anh một lần trước khi rời tàu thì chỉ một lần ngượng miệng. Mà lời hứa lúc này thì ít nhất cũng giúp cho câu chuyện tiếp tục thú vị. Giọng Võ Bằng vui vẻ:

– “Một cách tổng quát, các vì sao, các chòm sao giúp cho các nhà hàng hải ở mọi thời đại định được vị trí và hướng đi của con tàu. Vì vậy, đã vào Hải Quân thì phải học Hàng hải Thiên văn, như lên trung học là phải đọc The Stars! Đành rằng có nhiều phương pháp định vị nhưng thói thường cái gì gọi là máy móc thì đều có thể bị hư hỏng hoặc bị phá hoại. Vì vậy, phương pháp hải hành bằng thiên văn là phương pháp tuy cổ điển mà ăn chắc.”
- “Nhưng sao thì nhiều mà toàn tên tiếng La Mã, Hy Lạp…”
- “Mới bắt đầu môn học, chúng tôi cũng rất sợ. Nhưng sau khi tiếp nhận căn bản, càng học càng mê. Sao có hai loại: hành tinh và định tinh. Hành tinh là 9 ngôi sao thuộc thái dương hệ. Định tinh là các sao có vị trí cố định trên thiên cầu. Chòm sao là tập hợp một số định tinh gần nhau thành một hình tượng cho dễ phân biệt, dễ nhận dạng các định tinh. Lại có các vì sao, chẳng phải hành tinh mà cũng chẳng định tinh, đôi khi đi lạc làm say đắm lòng người như vì sao lạc vào chòi chàng chăn cừu và vì sao lạc xuống tàu…”
– “Đại úy! Xin đại úy…” Tôi nài nỉ và bắt đầu thực sự thấy sợ lời bóng gió chừng như bất tận của Bằng.
– “Cô Phượng có xem phim Anastasia, kể chuyện cô con gái út của Nga hoàng?”

Bằng chuyển đề tài đột ngột làm tôi mừng quýnh. Vội nói:

– “Có chứ, tôi cũng… mê phim này lắm.”
– “Cô mê gì nhất?”
– “Nữ tài tử Ingrid Bergman, đẹp mà diễn xuất tuyệt vời, đã nhận được giải Oscar.”
– “Còn ‘mê’ gì nữa?”

Bằng có ý gì? Sẽ dẫn tôi tới đâu? Tôi duyệt lại nội dung bộ phim. Đó là chuyện một người con gái đã từng là công chúa nước Nga thoát chết trong cuộc tàn sát của Nga Cộng năm 1917. Công chúa thoát chết, bị thất lạc, và bị mất trí. Hàng chục năm sau có người nhận ra nàng. Thế mà, ngay trong buổi lễ trang trọng của Hoàng gia xác nhận ngôi vị công chúa, nàng lại từ chối cuộc sống sang giàu để đuổi theo người khám phá ra mình. Tôi nói:

– “Tôi mê phim nhưng chê đoạn kết! Tôi không thuộc loại quá tôn thờ tình yêu.”
– “Tôi thì thích bản nhạc nền. Lời thật nên thơ, ví nàng công chúa từ ngôi sao nào đó đi lạc xuống trần”
– “A!” Tôi chợt nhớ, kêu lên. “Tôi cũng rất thích bản đó. Pat Boone hát thật tuyệt vời!” Tôi cao hứng cất tiếng. “Anastasia. Tell me who you are? Are you someone? From another star? Anastasia. Beautiful stranger. Step down from your star. I only know I love you so. Whoever you are.’”

Tia nhìn đắm say của Bằng chiếu vào mắt tôi cùng với lời ngọt ngào đi thẳng vào tim:

– “Tôi cũng đã định hát tặng Phượng…”
– “Đại úy.” Tôi hốt hoảng. “Xin trở lại chuyện các vì sao. Hải Quân học Hàng hải Thiên văn là học những gì?”
– “Chúng tôi không học chuyên về thiên văn là môn học nghiên cứu và giải thích các chuyển động, các hiện tượng vật lý của các thiên thể trong không gian. Chúng tôi chỉ học về những gì có liên quan đến hàng hải, tức là phải biết nhận dạng ngôi sao để định hướng đi, phải biết đo cao độ sao để định vị trí con tàu. Học định hướng không khó, nhưng học đo cao độ mới là nhiêu khê. Thứ nhất, nếu không ‘nhận diện’ được thiên thể thì phải rành sử dụng bảng-tìm-sao hoặc bản-đồ thiên-cầu. Thứ hai, tìm được tên ngôi sao rồi, phải biết cách dùng kính lục phân Sextant đo cao độ, biết dùng lịch The Nautical Almanac cho kinh tuyến Greenwich cùng độ phương vị, và dùng các dụng cụ lỉnh kỉnh khác… Cô hẳn có đọc quyển Ngư Ông và Biển Cả của Ernest Hemingway?”
– “Có! Tôi mê quyển đó còn hơn nữa!”
– “Vậy thì cô nhớ đoạn lão ngư ông nhìn sao để tìm đường về bến sau khi bị con cá khổng lồ lôi đi vô định, xà quần?”
– “Tôi nhớ quá đi chứ, cũng như nhớ đại úy nói bầu trời có 88 chòm sao, trong đó có 12 chòm sao Hoàng Đạo. Sao gọi là 12 chòm sao Hoàng Đạo?”
– “Ngày xưa cổ nhân cho rằng Trái Đất là trung tâm vũ trụ và mọi thiên thể quay quanh nó. Ai nói ngược lại thì bị tử hình. Tương truyền rằng nhà thiên văn học Galileo chịu tử hình chớ không nói khác sự thật: Mặt Trời mới là trung tâm và Trái Đất quay quanh Mặt Trời. Ông bị bắt giam. Đến khi bị mang lên giàn thiêu, người ta cho ông cơ hội nói lại để được sống, ông bảo, dù ông có chết Trái Đất vẫn cứ quay quanh Mặt Trời. Đúng là vậy nhưng, để cô Phượng dễ hiểu, tôi tạm để Trái Đất đứng yên và Mặt Trời quay quanh thiên cầu. Và trong khi du hành giáp vòng là một năm, Mặt Trời đi qua đúng 12 chòm sao trong số 88 chòm sao trên thiên cầu. Người ta gọi đó là 12 chòm sao Hoàng Đạo. Về phương diện chiêm tinh, 12 chòm sao Hoàng Đạo chính là 12 cung Hoàng Đạo của tử vi tây phương. Mỗi cung tương ứng một tháng…”
– “À ra thế!”
– “Cô có tin tử vi không?”
– “Không tin nhưng tuần nào cũng mua báo để đọc tử vi. Đó là mục giải trí ưa thích!”
– “Nếu ưa thích tử vi thì hẳn cũng ưa thích… Hải Quân vì Hải Quân lấy 12 chòm sao hoàng đạo đặt tên cho các khóa sĩ quan. Như khóa tôi thuộc cung thứ 11: Bảo Bình.
– “Ô, thật vậy sao?”
– “Tháng sinh của cô thuộc cung nào?”
– “Cung Hải Sư.”
– “Người thuộc cung Hải Sư rất vui vẻ, dễ thương, thích văn chương thi phú và hợp với tuổi Kim Ngưu, tuổi của tôi…”

Tôi mạnh dạn cắt ngang, cười nhạo:

– “Xin tiếp tục chuyện các vì sao. Đại úy chưa nói gì về sao Jean de Milan, sao Rua. Các sao này nằm ở đâu, có huyền thoại gì không. Hay đại úy bí rồi nên chuyển qua coi tử vi chăng?”
– “’Em chớ hỏi: sóng đi trên biển lớn. Cớ làm sao thành nhã nhạc dâng lên. Cớ làm sao muôn tinh tú trong đêm. Bỗng rung động khi em cười rất nhẹ’. Thơ Nguyên Sa đó, nghe tình quá phải không?”
- “Chưa biết là của Nguyên Sa mà lòng đã xiểng liểng!” Tôi thú nhận. “Đại úy tính đem hết sao trời bủa vây không chừa lối thoát cho tôi sao? Thì cũng được nhưng với điều kiện: ‘Anh về đếm hết sao trời. Em đây kết tóc ở đời với anh’.”

Tôi nghe tiếng Bằng thở dài:

– “Cô Phượng ơi! Chỉ nội dải Ngân Hà không thôi đã có vài trăm tỉ ngôi sao mà cô lại đòi tôi phải đếm hết trọn cả bầu trời. Chắc phải hẹn gặp cô hàng muôn tỉ tỉ kiếp sau…”

Tôi tự mắng thầm. Đã sợ mà còn ‘anh anh, em em’ có khác gì khuyến khích Bằng tiến tới, tôi vội chuyển hướng:

– “Đại úy nói người xưa bịa ra những câu chuyện thần thoại để đặt tên cho 88 chòm sao. Phượng rất muốn nghe. Mỗi một truyện đại úy kể, Phượng hứa sẽ… tăng thêm số sao đại úy phải đếm! Bắt đầu bằng chuyện vì sao có hai chòm sao đặt tên Gấu Lớn Gấu Nhỏ.”

Bằng cười:

– “Khó mà ngờ cô Phượng độc ác đến thế! Đã không giảm mà còn tăng. Nhưng lỡ ăn thua thì cho… thua luôn! Về nguyên do có hai chòm sao mang tên Gấu Lớn Gấu Nhỏ, cũng theo thần thoại Hy Lạp, ông vua Zeus lại léng phéng có con với một người đẹp khác, nên hoàng hậu Hera lại nổi cơn ghen và biến người đẹp này thành con gấu, Vua Zeus quá bi thương nên đưa nàng lên trời. Đó là hình tượng chòm Gấu Lớn. Về sau đứa con, hình tượng chòm Gấu Nhỏ, được vua cha cho về sống bên mẹ. Thế nhưng cả hai vẫn không được yên thân. Hoàng hậu còn ấm ức nên nhờ anh mình là thần biển không cho phép họ uống nước. Vì vậy mà hai mẹ con Gấu cứ chạy lòng vòng trên bầu trời Bắc cực, không bao giờ được xuống dưới đường chân trời.”

Tiada huraian foto disediakan.
Gấu Lớn – Gấu Nhỏ

- “Đại úy có hứa lúc mãn phiên hải hành, rằng chúng ta sẽ mặc sức theo chân chàng thợ săn Lạp Hộ…”

Bằng đăm đăm nhìn tôi:

- “Tôi có nói vậy sao? Đúng ra, thì anh chàng này có số xui, gặp phải bà chằng lửa!
Thần thoại Hy Lạp kể rằng, bởi anh thợ săn này quá kiêu căng, tự xưng mình là tay săn bắn giỏi nhất trần đời nên Hoàng hậu Hera nổi sùng, bèn sai con Bồ Cạp (Hổ Cáp) chòm Scorpio dùng nọc độc giết chết. Vua Zeus nghe tin lấy làm thương xót và quyết định cho cả Hổ Cáp lẫn Lạp Hộ lên thiên cầu nằm ở hai vị trí đối nghịch. Hễ chòm sao này mọc thì chòm sao kia lặn để cho hai kẻ thù chẳng bao giờ thấy mặt nhau…”

Vẫn giọng êm ấm thân tình, Bằng kể tiếp qua thần thoại chòm Đại Khuyển với ngôi sao sáng nhất trong mọi vì sao là Sirius Thiên Lang. Giọng kể chuyện ngọt ngào của Bằng tạo cho tôi cái cảm tưởng như chính mình đang sống trong thần thoại. Tôi không biết Bằng có định kể trọn bộ huyền thoại của 88 chòm sao hay không nhưng tôi mong Bằng đừng chấm dứt trước khi tôi rời tàu. Bởi vì chừng như Bằng không đang kể về chuyện tình những chòm sao mà lại là đang thổ lộ tâm tư thầm kín Bằng dành cho tôi. Đến một lúc, tôi chợt nhận ra một điều khác thường. Không như cô chủ nghe chàng chăn cừu kể chuyện các vì sao mà ngủ gục, tôi đã vô cùng tỉnh táo và vui thích lắng nghe từng lời Bằng kể. Có điều trong lúc lắng nghe, tôi vẫn muốn được như cô chủ là tựa đầu vào vai Bằng!

 

Chương 13

Hải phận Bình Thuận
Chủ nhật 6/8/1967 08:00G

Tiếng còi ‘tích te” xoáy vào giấc ngủ mê mệt làm tôi giật bắn người, thùm thụp tim đập. Tôi vẫn chưa quen tiếng còi rền rĩ này. Ngày và đêm, cứ 4 tiếng ré lên một lần, mỗi lần chín cặp ‘tích te”. Đầu tôi nhức như búa bổ. Tôi đưa hai tay xoa hai bên thái dương và chầm chậm mở mắt.  Những thanh sắt ngang dọc trên trần tàu quay cuồng. Tôi vội nhắm kín. Cảm giác lo sợ len lỏi theo từng sợi thần kinh. Cùng lúc, cũng chợt nhận ra cả người ê ẩm đến rã rời. Ý nghĩ thật xấu xa đến từ tên Mỹ. Dám bị hắn chụp thuốc mê và làm hỗn lắm. Tôi lắng nghe biến chuyển trong cơ thể. Không. Chỉ là mỏi mệt do dậy sớm thức khuya và nhịp đong đưa của con tàu. Đêm trước, đêm đầu tiên xuống tàu, tôi ngủ quá ít lại còn bị ác mộng. Đêm qua thì mải mê chuyện các vì sao đến 5 giờ sáng. Tính ra tôi mới ngủ chưa đầy ba tiếng. Tôi không tha thiết ăn sáng, nhưng cần chứng tỏ ước mong của chuyến đi.

Tôi xoay nghiêng, bỏ chân ngoài giường, chống tay nâng tấm thân rã rời ngồi thẳng dậy. Ngồi hít thở một lúc, thấy khỏe hơn, tôi xỏ chân vào đôi bata rồi vào phòng tắm.

Khi bước vào phòng ăn, tôi tưởng sẽ gặp nhiều người nhưng chỉ thấy Trung úy Thạch Trung Cang và Thiếu úy Vương Văn Tiến. Họ lên tiếng trước:

- “Chào cô Phượng.”
- “Chào cô Phượng.”
- “Chào hai anh.” Tôi nói. “Hai anh sắp đi phiên?”
- “Trái lại, vừa dứt phiên.” Trung úy Cang cười.
- “Mình tới đâu rồi Trung úy?”
- “Sắp ngang qua thành phố Phan Thiết.”
- “Chừng nào mới về đến Sài Gòn?”

Trung úy Cang nhíu mày như đang tính toán. Anh chiêu đãi hỏi tôi:

- “Chị ăn cháo với thịt kho hay bánh mì omelette?
- “Anh cho bánh mì trứng chiên. Tôi thích ăn chín.”

Anh chiêu đãi rời phòng. Trung úy Cang nói:

- “Nếu không có gì trở ngại, tàu sẽ cập cầu lúc 8 giờ tối.”
- “Tám giờ tối!” Tôi kêu lên. “Tôi quá sợ cái câu ‘nếu không có gì trở ngại!’”
- “Chúng tôi thì quen rồi!” Thiếu úy Tiến cười. “Nhà binh mà!”

Theo kinh nghiệm của Anh Đào, thời gian đi từ Quy Nhơn về Sài Gòn đúng 36 tiếng. Đêm kia tàu rời Quy Nhơn lúc 7 giờ rưỡi, tính đến sáng nay là đúng 36 tiếng, lẽ ra giờ này đã cập cầu Sài Gòn. Tối mới đến là trễ trên 10 tiếng. Đó là không gặp trở ngại, còn ‘nếu có trở ngại’ thì nào biết đến bao lâu! Mà thật ra Hưng có phải chờ thì cũng đáng kiếp. Anh đã đưa tôi vào hoàn cảnh tiến thối lưỡng nan! Tôi vừa muốn gặp anh lại vừa không muốn. Mà cũng có thể là chẳng bao giờ. Niềm tin dành cho anh đang lung lay…

Anh chiêu đãi đặt trước tôi dĩa bánh mì và dĩa trứng chiên. Trứng chiên hai mặt vừa đúng ý tôi. Anh hỏi:

- “Chị uống cà phê hay trà đá?”
- “Xin anh cà phê sữa. Cám ơn anh.”

Trung úy Cang đưa tôi chai Maggi, cười nói:

- “Đêm qua thấy cô và Hạm Phó ôm ổ súng đến năm giờ sáng mà giờ này cô đã thức! Coi như cô thắng Hạm Phó là tay nổi tiếng ít ngủ!”

Tôi không biết nói sao, lặng lẽ gắp trứng bỏ vào bánh mì. Tên Mỹ kéo ghế trước mặt. Hắn mỉm cười:

- “Chào cô Phượng buổi sáng. Cô ngủ ngon chứ?”

Chợt nhớ đã nghĩ oan cho hắn tội làm hỗn, tôi vui vẻ đáp:

- “Cám ơn. Mi thế nào?”
- “Ngủ ngon lắm. Cám ơn.”

Tôi thích lối chào hỏi kiểu Mỹ. Tôi không rõ lời chào của miền Bắc và miền Trung, riêng miền Nam thì vắn tắt quá. Gặp nhau chỉ nói ‘chào ông, chào bác, chào thầy, chào cô’, tuy đủ lễ độ mà thiếu lịch sự. Thậm chí người cùng nhà gặp nhau chỉ chào nhau bằng nụ cười, không một lời hỏi han sức khỏe. Lần này về nhà, buổi sáng tôi sẽ nói ‘chào ba mẹ, ba mẹ khỏe không?’ và ban đêm, ‘chúc ba mẹ ngon giấc’.

Anh chiêu đãi mang tách cà phê và hộp sữa cho tôi rồi rời phòng, không buồn hỏi tên Mỹ ăn gì. Tôi nghĩ chắc hắn có mang theo ration C, đã ăn sáng trong buồng. Nhưng tôi nghĩ sai, anh chiêu đãi trở lại đặt trước hắn dĩa bánh mì và dĩa omelette. Thì ra đó là phần ăn sáng cố định mỗi ngày của hắn.

Khi tôi lên trên boong thì trước mắt tôi hàng trăm ghe đánh cá phủ kín mặt biển từ tàu đến gần bờ. Tôi cũng nhận thấy con tàu đang chạy thật chậm thật sát các chiếc ghe. Nếu đêm qua tàu chạy gần đến nỗi tôi có thể đếm số người trên ghe thì sáng nay tôi thấy họ vẫy tay với nụ cười. Tôi cũng vẫy tay, hô to ‘chào các bác, chúc các bác bắt được nhiều cá’. Một hình ảnh thích thú khác mà đêm qua tôi không thấy là ghe nào cũng treo cờ vàng ba sọc đỏ. Phải nói đó là một rừng cờ vàng làm tăng vẻ đẹp của biển xanh lóng lánh.

Tôi bước qua mạn trái. Số ghe câu càng đông hơn, đến mút chân trời. Mặt trời rực trắng bao bọc bằng hai nền màu khác biệt. Phần nền từ nửa mặt trời đến đường chân trời có màu hồng tươi. Phần nửa trên nhuộm vàng các dải mây trắng. Tôi không nhận ra đó là loại mây gì và nếu có Bằng bên cạnh tôi cũng không hỏi. Không phải tôi sợ anh chàng chê tôi kém trí nhớ mà vì tôi không chủ tâm nhớ. Nghe thì thích nhưng nhớ cũng chẳng ích gì!

- “Cô Phượng!”

Tôi nhìn quanh tìm Võ Bằng.

- “Cô Phượng!”

Tiếng gọi từ trên cao. Tôi ngước nhìn đài chỉ huy. Một người đang vẫy tay, dường như là Trung úy Bạch. Rồi anh ngoắt ra dấu tôi lên với anh. Tôi mừng húm vì cảnh đẹp thế này mà được ngắm từ trên cao thì còn gì bằng.

Đã qua vài lần leo trèo, lần này tôi bước lên từng bậc thang nhanh hơn. Khi còn vài bậc cuối đến đài chỉ huy, hình dáng đầu tiên tôi trông thấy là tên Mỹ. Hắn đang nói gì đó với người ngồi trên chiếc ghế dành riêng cho Hạm Trưởng. Khi bước hẳn vào trong, tôi nói:

- “Xin chào Thiếu tá! Thiếu tá thức sớm quá!”

Hạm Trưởng nghiêng mặt nhìn tôi:

- “Không thức sớm thì không xong với vùng này. Sơ sẩy là đụng chìm ghe. Nói theo chuyên môn thì cả một hạm đội ghe! Nói theo miền Nam thì ‘quỷ thần thiên địa ơi, minh mông ghe là ghe’! Đó cũng là lý do tôi cho gọi cô lên đây thưởng thức một cảnh tượng khó có dịp thấy lần thứ hai.”

Tôi đảo mắt nguyên một vòng. Quả là nhìn từ trên cao, hình ảnh ghe chen chúc trông đậm nét hơn, cờ vàng rực rỡ hơn.

Hạm Trưởng hỏi:

- “Đêm qua, sau mục ca hát, còn mục gì khác không? Như đi ca tiên với Hạm Phó?”

Tôi giật mình. Ông hỏi thật hay đã được báo cáo mà vờ hỏi. Tôi thấy nên nói thật:

- “Thưa có. Được Hạm Phó kể huyền thoại các chòm sao nghe mê luôn, tới 5 giờ sáng mới đi ngủ!”
- “Thế mà 8 giờ sáng đã lên boong ngắm biển!”
- “Nhờ vậy mới được thấy… ghe ôi là ghe!” Tôi cười nói.
- “Lại thêm trời trong, gió nhẹ, biển êm. Cô may mắn lắm đó. Tháng tám là tháng bão mà!”
- “Gặp bão chắc Phượng ói mửa chết thôi!”
- “Thật ra dân đi biển chết vì bị bão đánh chìm chớ không chết vì ói mửa. Cùng lắm thì gần chết!”
- “Với Phượng, thà chết còn hơn!”

Tôi định nêu lên câu hỏi ‘gặp bão làm sao tránh’ thì có tiếng la của anh Trung sĩ:

- “Thưa Trung úy, có ghe vượt mũi tàu.”

Trung úy Bạch quan sát nhanh bằng ống dòm rồi ban lệnh cho nhân viên điều khiển tay lái. Hạm trưởng vụt đứng lên nhìn mũi tàu đang quay qua phải. Một chiếc ghe hiện ra ngay trước mũi và lùi dần dọc theo mạn trái. Mấy người trên ghe hớn hở vẫy tay. Hạm Trưởng càu nhàu:

- “Sợ luôn! Cá đâu không thấy, chỉ thấy chết trước mắt!”
- “Nghĩa là sao, thưa Thiếu tá?”
- “Họ có niềm tin hễ vượt qua mũi tàu là ngày đó đánh được nhiều cá!”

Tôi chỉ biết cảm thông cho cả hai phía bằng cách lắc đầu! Thiếu úy Ấn từ cánh trái bước đến chiếc la bàn điện. Tên Mỹ đứng sát ghế Hạm Trưởng nhường chỗ cho Ấn đo góc độ ba đối vật. Đo xong, Ấn bước đến bàn hải đồ xác định vị trí chiến hạm. Anh nói:

- “Trình Hạm Trưởng vị trí chiến hạm trên đường đi.”
- “Tốt.”

Thiếu úy Ấn và tên Mỹ trở lại chỗ đứng cũ. Tôi giơ tay mỉm cười chào Thiếu úy Ấn. Tôi cũng muốn chào anh Trung sĩ và hai thủy thủ đương phiên nhưng cả ba mải hướng về mũi tàu. Tôi nhìn Hạm Trưởng nêu câu đã định hỏi:

- “Tàu của Thiếu tá phải qua hơn một tháng trên Thái Bình Dương, có khi nào gặp bão không? Gặp bão thì tránh cách nào?”
- “Nhờ trời, chỉ gặp mười ba cơn dông, sức gió đều dưới 63 cây số giờ, tiếng chuyên môn gọi là áp suất nhiệt đới! Cô sắp làm giáo sư Sử Địa, chắc đã rành về nguyên nhân hình thành một cơn bão.”
- “Thưa có. Đại khái, bão chỉ xuất phát giữa vĩ độ từ 5° tới 30°, từ nơi biển có độ sâu 50 mét và có độ ấm 27 độ C. Nước Việt nằm gọn trong giới hạn này nên bị bão lia chia.”
- “Người Việt ta gọi bão là gì, bằng tiếng Anh?”
- “Typhoon.”
- “Cô có biết từ ngữ typhoon do đâu mà có?”

Tôi lắc đầu. Hạm Trưởng hỏi tiếp:

- “Cô biết từ ngữ hurricane, cyclone?”
- “Phượng chỉ biết cả ba chữ đều có nghĩa là bão.”
- “Đồng ý, nhưng khi nào thì dùng hurricane, khi nào dùng cyclone, typhoon?”

Tôi lắc đầu. Hạm Trưởng mỉm cười:

- “Tôi cũng mới biết trong chuyến đi từ Tây sang Đông. Bão trên Đại Tây Dương, Mỹ gọi là hurricane, trên Thái Bình Dương, người Việt, người Hoa gọi là typhoon, còn các nước vùng Ấn Độ Dương thì gọi cyclone.”

Từ sáng tới giờ, tên Mỹ vẫn lặng thinh ôm trụ la bàn, bỗng gật đầu lia lịa. Thấy anh chàng tỏ vẻ hiểu biết, tôi hào hứng hỏi:

- “Thưa Thiếu tá, sao lại có sự khác biệt về từ ngữ?”
- “Có lẽ do lịch sử địa phương. Tiếng hurricane thì lấy từ tiếng hurakan, tên vị thần hủy diệt người Maya cổ đại ở Trung Mỹ giáp Đại Tây Dương. Nước Tàu giáp Thái Bình Dương gọi bão là taifeng - 颱風 đại phong, dịch âm Typhoon. Còn từ cyclone mang nghĩa cơn lốc xoáy mượn từ tiếng Anh, có lẽ do thời Ấn Độ còn là thuộc địa Anh.”
- “Khi gặp bão thì tàu tránh thế nào, thưa Thiếu tá?” Tôi nhắc lại câu hỏi.
- “Tránh thì cũng dễ trừ phi quá xui! Tàu nào cũng có máy nhận tin bão. Trong công điện tin tức khí tượng, họ cho biết tâm bão đang ở đâu, sức mạnh của cơn bão, hướng và tốc độ di chuyển. Từ các yếu tố đó so với vị trí con tàu, chiến hạm phải tính toán thế nào để sớm tránh xa cơn bão.”
- “Sao gọi là quá xui!”
- “Hoặc là vì máy truyền tin hư, hoặc là do cơn bão hình thành bất thường.”
- “Thiếu tá có lần nào gặp xui?”
- “Chưa, đều gặp may mắn. Như cô đi chuyến này không gặp bão.”

Lệnh ngưng máy của Trung úy Bạch vang lên đột ngột. Hạm Trưởng lại đứng thẳng người, đưa ống dòm lên mắt. Tôi nghiêng người ra phía ngoài quan sát chuyện gì xảy ra. Con tàu êm ái lướt qua dãy phao giăng chắn ngang hướng đi. Mãi khi dãy phao nổi lên xa phía sau Trung úy Bạch mới cho lệnh tăng máy.

- “Sao phải ngưng máy, Trung úy?” Tôi hỏi Bạch.
- “À, họ đang chăng lưới bắt cá. Ngưng máy để lưới không bị cuốn vào chân vịt. Cả hai bên cùng có lợi. Với chiến hạm thì khỏi phải cho người lặn xuống gỡ lưới. Với ngư dân thì họ không phải mua lưới mới. Có tới 5, 7 chục ngàn chớ ít sao!”

Nói xong, anh cho lệnh tăng thêm tốc độ. Tôi ngạc nhiên về thái độ bình thản của Hạm Trưởng. Ông chỉ quan sát, theo dõi, không lần nào nói như lần trước ‘Hạm Trưởng nhận quyền chỉ huy’. Ông để Trung úy Bạch toàn quyền điều khiển hải hành. Rõ ràng ông đặt hết tin tưởng vào khả năng của Trung úy Bạch. Điều đó cũng hợp lý. Sau gần hai tháng lênh đênh, các sĩ quan hẳn đều đã thu thập nhiều kinh nghiệm.

Hạm Trưởng thả người, tựa lưng vào ghế, giọng hài lòng:

- “Giỏi lắm, Trung úy Bạch. Nay mai Đại úy Bằng đổi đi, Trung úy sẽ thay làm Hạm Phó.”

Võ Bằng đổi đi. Đi đâu? Tự dưng tôi nghe buồn buồn. Tự dưng tôi nhớ tới mấy câu ca dao về bão của anh chàng. Có một người bạn như Võ Bằng thỉnh thoảng gặp nhau đấu hót cũng vui. Không nén được tò mò, tôi hỏi Hạm Trưởng:

- “Thưa Thiếu tá, Đại úy Bằng đổi đi đâu?”
- “Đi đâu thì chưa biết. Theo thông lệ, một sĩ quan ở một đơn vị không quá hai năm. Tôi vừa bình điểm thường niên, xếp hạng xuất sắc cho Võ Bằng. Rất có thể nay mai Hạm Phó sẽ ôm chức Hạm Trưởng một Tuần Duyên Hạm.”
- “Có giống tàu Hộ Tống Hạm này không, thưa Hạm Trưởng?”
- “Gần giống nhưng nhỏ hơn. Nhân viên chừng nửa tàu này.”
- “Thưa Thiếu tá, nghe tên gọi các chiến hạm hùng hồn quá. Hộ Tống Hạm, Tuần Duyên Hạm rồi gì nữa?”
- “Rất vui thấy cô quan tâm đến Hải Quân. Càng vui nếu cô sớm là thành viên gia đình Hải Quân. Chiến hạm có nhiều loại. Loại hoạt động trong sông thì có Giang Pháo Hạm, Trợ Chiến Hạm. Hoạt động ngoài biển thì có Dương Vận Hạm, Hộ Tống Hạm, Tuần Duyên Hạm, Hải Vận Hạm, Trục Lôi Hạm, Hỏa Vận Hạm, và nhiều nữa … Tổng cộng khoảng bốn mươi mấy chiếc. Trong tương lai gần, Hải Quân sẽ tiếp nhận các loại chiến hạm cỡ lớn, mỗi tàu cần đến 3, 4 trăm người điều hành.  Tên gọi là Tuần Dương Hạm, Khu Trục Hạm. Cô theo kịp không?”

Tôi vui vẻ nói:

- “Có quá nhiều danh từ mới lạ, nhớ thì nhớ không nổi mà nghe thì rất thích. Xin Thiếu tá tiếp tục.”
- “Tôi tưởng cô không ưa Hải Quân!” Ông nhìn tôi dò xét.
- “Ưa chứ, thưa Thiếu tá.” Tôi trả lời không suy nghĩ.

Tôi nghe nhiều tiếng cười, trong đó có cả tên Mỹ. Ngẫm nghĩ, tôi trả lời không sai với tình cảm hiện tại. Ít nhất cũng không còn thấy ghét. Hạm Trưởng tiếp tục:

- “Đó là mới kể về ‘hạm’. Còn với tàu nhỏ hơn, thì gọi là ‘đỉnh’, chỉ hoạt động ven biển và trong sông. Có đến hàng chục loại, xếp theo chức năng. Tổng cộng vài trăm chiếc. Như Tuần Duyên Đỉnh, Quân Vận Đỉnh, Khinh Tốc Đỉnh, Soái Đỉnh, Tiền Phong Đỉnh, Xung Kích Đỉnh … Cô nghe đã ớn chưa?”
- “Phượng thấy thích lắm!”
- “Thế thì tôi tiếp tục. Ngoài loại chiến đỉnh, chiến hạm, còn có loại chiến thuyền. Đây là loại ghe đánh cá cải biên, do Hải Quân Công Xưởng chế tạo. Có ba loại ghe là Chủ Lực, Di Cư và Yabuta. Tùy chức năng, ghe được trang bị hoặc đại bác, hoặc đại liên, tiểu liên. Một số ghe tập hợp thành Duyên Đoàn. Có tất cả 27 Duyên Đoàn hoạt động suốt từ Bến Hải đến Hà Tiên. Nhiệm vụ Duyên Đoàn là tuần tiễu, ngăn chận Việt Cộng xâm nhập vào các làng ven biển. Thành tích mới nhất của họ vào đầu năm nay là bắn chìm hai tàu tiếp tế súng đạn từ miền Bắc ở bờ biển Bình Đại, Bến Tre. Trước đó, tháng 11 năm ngoái, hai ghe chủ lực tấn công và bắt sống một tàu tiếp tế ở cửa Hàm Luông, thu nhiều súng đạn.”
- “Thiếu tá sao nhớ hay vậy?”
- “Một là tôi từng chỉ huy các đơn vị này. Hai là công điện phổ biến Tin Hải Quân hàng ngày.”

Thiếu úy Ấn lại xin lỗi tên Mỹ để dùng la bàn. Tôi để ý thấy anh lặp lại việc làm mỗi 15 phút. Tôi nhìn theo anh đang nhắm vào mũi nhọn nhô ra biển khá xa trước mũi tàu.  Rồi nhắm vào thành phố con tàu đang ngang qua. Rồi nhắm mũi nhọn xa phía lái. Một khối vuông vàng ố từ đó vượt qua bãi cát đỏ, vươn lên nền trời xanh. Tôi hỏi Hạm Trưởng:

- “Thưa Thiếu tá, cái khối vuông kia là gì vậy”?
- “À, đó là một di tích lịch sử có liên quan đến tác giả hai câu thơ Thiếu úy Ấn ngâm nga trong bữa cơm trưa qua: ‘Ngày mai trong đám xuân xanh ấy. Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.’”
- “Xin Thiếu tá nói rõ hơn!”
- “Ông thi sĩ đó cũng là tác giả bốn câu thơ này:
Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăиg
Lầu Ông-Hoàng, người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương tha thiết”
- “A! Lầu Ông Hoàng,” Tôi kêu lên. “Cái tên được nhắc trong bản nhạc Hàn Mặc Tử của Trần Thiện Thanh.”
- “Đúng!” Hạm Trưởng tươi cười. “Nhưng cái khối trụ vuông ố vàng đó không
phải là Lầu Ông Hoàng như nhiều người lầm tưởng. Đó là cái pháo đài do Pháp xây để chống lại quân kháng chiến chống Pháp. Lầu Ông Hoàng được xây gần đó, cách nay trên nửa thế kỷ, là một dinh thự có tới 13 phòng của một công tước người Pháp. Rồi sau khi Pháp rút, bị bỏ hoang phế. Cách đây 4, 5 năm, Duyên Đoàn 28 phối hợp hành quân với bộ binh tảo thanh Việt Cộng, tôi có đến tận nơi, thấy Lầu Ông Hoàng chỉ còn vài phế tích.”

Tôi lại nhìn pháo đài, tưởng tượng đôi tình nhân ngồi kề vai ngắm biển cả, trăng sao. Tôi hát thầm ‘Ai mua trăng tôi bán trăng cho…’  Trong nỗi ngậm ngùi, tôi tự hứa sẽ có một ngày đến viếng nơi hẹn hò này của nhà thơ bạc phước và nàng thơ Mộng Cầm. Tuần rồi Hưng đã đưa tôi vào trại cùi Làng Phong viếng ngôi mộ giả của Hàn Mặc Tử, và sau đó đến viếng ngôi mộ thật ở Gành Ráng. Lần viếng đồi Lầu Ông Hoàng sắp tới, chắc chắn tôi sẽ không đi với Hưng. Viếng một nơi tình tứ mà đi với một người quá khô khan thì thà đi một mình. Đi với Võ Bằng thì quá thích hợp nhưng liệu chừng đó tôi còn gặp lại anh chàng? Thôi thì đi một mình theo gợi ý của Hàn Mặc Tử ‘Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng’. Hướng nào thì Võ Bằng đã dẫn giải. Chòm Thất Tinh chỉ hướng Bắc. Từ Sài Gòn, cứ theo Gấu Mẹ là tới. Nhưng có đáng bõ công không? Cũng đáng lắm. Ngồi trên đỉnh đồi như trên đài chỉ huy, trước mặt là đại dương dạt dào, trên trời vô vàn vì sao. Còn nơi nào thích hợp hơn để nhớ… chuyến đi này! Tiếng của Hạm Trưởng nhẹ vang:

- “Cô Phượng có biết tác giả bản Hàn Mạc Tử là người Phan Thiết.”
- “Vậy sao?” Tôi ngạc nhiên. “Hèn gì lời nhạc nghe rất cảm động. Thiếu tá thích nhạc Trần Thiện Thanh?”
- “Thỉnh thoảng có nghe trên đài Quân Đội. Còn cô?”
- “Chỉ thích vài bản. Như Hàn Mặc Tử, Lâu Đài Tình Ái. Thích Hàn Mặc Tử nhưng chê Tâm Sự Mộng Cầm!”
- “Bút hiệu của nhà thơ trên bản nhạc Hàn Mặc Tử ghi sai. Phải là Hàn Mạc Tử, không dấu á.”
- “Thiếu tá dựa vào đâu mà cho là sai?”
- “Cô về tìm đọc quyển Hàn Mạc Tử của nhà phê bình văn học Trần Thanh Mại. Đó là quyển tiểu sử được đích thân nhà thơ Hàn Mạc Tử yêu cầu tác giả chấp bút.”

Hạm Trưởng lặng thinh nhìn phía trước. Tôi lại vội lên tiếng:

- “Thưa Thiếu tá, ngoài Lầu Ông Hoàng, Phan Thiết có gì đặc biệt khác?”
- “Tôi không biết nhiều về Phan Thiết. Nói rộng hơn là cả tỉnh Bình Thuận. Chỉ nghe nói nước mắm Phan Thiết ngon không thua gì Phú Quốc.”

Ông ra dáng suy nghĩ. Tôi cũng cố tìm một câu hỏi. Ông lên tiếng trước:

- “Nếu nói riêng về mối quan hệ với Hải Quân thì có địa danh Mũi Né.”
- “Liên hệ ra sao, thưa Thiếu tá?”
- “Cái tên Mũi Né đã nói lên sự liên hệ rồi!”
- “Phượng không thấy gì hết. Xin Thiếu tá nói rõ hơn.”
- “Theo đồn đại dân gian thì sở dĩ có tên Mũi Né vì đó là vịnh tốt nhất cho ghe tàu né sóng lớn.”
- “Thiếu tá cho tàu né lần nào chưa?” Tôi cười hỏi.
- “Chưa vì còn một chỗ vừa né được sóng mà cũng né được gió. Đó là đảo Hòn Bà thuộc hải phận Phước Tuy. Còn khá xa, phải qua hải đăng Kê Gà mới có thể thấy. Cũng khoảng 3 tiếng nữa.”
- “Hải đăng Kê Gà, cái tên nghe hay hay. Đã Kê mà còn Gà. Vì sao có tên đó?”
- “Sách vở nói sở dĩ có tên Kê Gà là vì hòn đảo có dạng đầu con gà, còn chữ Kê nguyên thủy là chữ Khe, dân gian đọc thành Kê. So với hải đăng Cù Lao Xanh ở Quy Nhơn, vừa xa đất liền vừa chỉ cao 19 thước, Hải đăng Kê Gà cao 60 thước trên một hòn đảo cách đất liền nửa cây số. Đặc biệt, khi thủy triều xuống, du khách có thể tản bộ trên bãi cát. Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là 67 năm, cả hai hải đăng hoạt động liên tục, hữu hiệu.”

Tôi hít một hơi dài. Có quá nhiều đặc ngữ, thuật ngữ, danh từ cùng lúc dồn dập vào đầu như cơn bão ập đến. Còn đang ngất ngư, Hạm Trưởng đột ngột hỏi:

- “Lên đại học, tiếng Anh của cô chắc khá lắm!”
- “Tôi có học thêm ở Hội Việt Mỹ.”

Trả lời xong tôi giật mình nhớ tới Hưng. Chính Hưng xúi tôi học thêm tiếng Anh để xin vào làm ở các cơ quan Mỹ nghe ngóng, săn tin. Hạm Trưởng định dẫn mình tới đâu đây?

- “Cô có đọc tiểu thuyết tiếng Anh?”
- “Thưa, đôi khi.”
- “Có hai quyển truyện liên quan đến ngọn hải đăng. Một quyển dễ đọc, một quyển khó nhằn. Cả hai truyện đều hay. Đó là quyển ‘The Lighthouse at the End of the World’ của Jules Verne và quyển ‘To the Lighthouse’ của Virginia Woof. Tôi biết cô thích Sử Địa, nhưng nếu có chút máu văn chương thì rất nên đọc.”
- “Xin ghi nhận. Cám ơn Thiếu tá.”

Tôi không ngạc nhiên thấy ông đọc nhiều. Dưới quyền là các sĩ quan giỏi nghề, lại ‘nếu không có gì trở ngại’, ông có quá nhiều thì giờ rỗi rảnh. Tên Mỹ cũng thế, lúc nào cũng ôm bộ bài hay quyển sách. Còn Võ Bằng… Tiếng Hạm Trưởng vang lên: 

- “Trở lại đường về, ở phía nam hải đăng Kê Gà có một bãi cạn chìm dưới mặt nước chưa đầy một mét, cách bờ độ 30 cây số, gọi là Banc de Britto. Nếu đi tắt giữa bờ và Banc de Britto, thời gian hải hành sẽ rút ngắn cả tiếng nhưng nguy hiểm vì có thể bị dòng nước ngầm và gió đẩy tàu giạt vào bãi cạn. Thông thường với Hạm Trưởng thích ăn chắc mặc bền, ông ta cho tàu bung xa ngoài dãy banc để được an toàn.”

Tôi cũng muốn được an toàn. Từ lúc xuống tàu, tôi lúc nào cũng nguyện cầu bản thân được an toàn. Giờ phút nào còn ở trên tàu là giờ phút đó tôi thiếu an toàn. Vì vậy, ngược với an toàn hải hành, tôi tràn đầy hy vọng ông chọn đi đường tắt. Đi tắt không an toàn cho tàu nhưng tôi sớm được rời tàu. Tôi hồi hộp hỏi:

- “Thưa Hạm Trưởng, vậy mình đang đi tắt hay bung ra ngoài?”
- “Hạm Phó thì thích đi bung ra ngoài! Còn cô Phượng thì sao?”

Tôi cố nén bực mình, giữ giọng lễ độ:

- “Dĩ nhiên Phượng muốn về Sài Gòn sớm!”
- “Coi như xổ số: Cô bước đến bàn hải đồ xem tàu đi trong hay đi ngoài!”

Bàn hải đồ đặt ngay giữa đài chỉ huy, Thiếu úy Ấn từ cánh trái bước qua đứng cạnh. Tấm hải đồ hai màu đen trắng chi chít con số và các đường cong queo nhưng so với bản đồ được thấy qua môn địa lý thì vẫn sáng sủa hơn. Nhìn qua, tôi đã nhận ra hải lộ của chiến hạm được kẻ bằng viết chì. Nhưng Banc de Britto ở đâu? Thiếu úy Ấn thấy tôi lò dò, nên chỉ một đốm xám có hàng chữ vắt ngang Banc de Britto. Rõ ràng hải lộ nằm giữa bãi cạn và bờ. Nụ cười khoái chí nở cùng lòng quý mến. Ông Hạm Trưởng này có lòng nhân ái, biết cảm thông ước muốn của nhân viên. Ai chẳng mong sớm đoàn tụ gia đình sau công tác dài hạn. Nếu chỉ nghĩ riêng tương lai cá nhân, với uy quyền tối thượng ‘trên có Trời dưới có Hạm Trưởng’, ông có toàn quyền chọn đường đi an toàn. Tôi trở lui tươi cười với Hạm Trưởng: - “Cảm ơn. Cảm ơn. Rất cảm ơn.”

Ông cười, nụ cười nửa hài lòng nửa kẻ cả. Nhìn nụ cười tươi rói của ông, tôi bất chợt nghĩ đến câu thành ngữ ông đề cập trong bữa ăn trưa hôm qua. Câu đó xem ra còn thiếu sót. Tôi thấy nên thêm vài chữ cho đầy đủ: ‘trên có Trời dưới có Hạm Trưởng và Phan Kim Phượng’. Bởi vì tôi cũng có toàn quyền cho bom nổ hay không!

Chương 14

Hải phận Bình Tuy
Chủ nhật 6/8/1967 12:00G

Đúng 11g30, chúng tôi rời đài chỉ huy chuẩn bị dự cơm trưa. Hạm Trưởng vào phòng riêng của ông, tôi và tên Mỹ xuống thêm một bậc thang để về phòng của mình. Bước vào phòng ăn thì gặp Võ Bằng và Thiếu úy Văn đang ăn sớm để nhận phiên. Tôi chưa kịp chào xã giao thì Võ Bằng đã lên tiếng:

- “Tìm khắp tàu, tưởng cô bị rớt xuống biển rồi!”

Giọng Võ Bằng điểm chút hờn giận. Tôi cười đùa:

- “Chắc Đại úy mong tôi rớt lắm?”

Võ Bằng trừng mắt rồi cúi xuống tiếp tục ăn. Tôi tiếp tục trêu chọc:

- “Im lặng đồng nghĩa với… cho chết luôn!”
- “Phải! Cho cô chết luôn!” Võ Bằng quắc mắt.

Nghe giọng nói lạnh lùng, tôi lặng người. Không lẽ chỉ vì giận mà Võ Bằng tàn nhẫn đến thế. Vẫn giọng lạnh lùng, anh chàng tiếp:

- “Bởi vì tôi sẽ nhảy xuống… chết theo cô!”

Thiếu úy Văn cười tán thưởng. Tôi cũng cười mà lòng xao xuyến. Dù biết anh chàng hay nói xa gần nhưng vẫn xúc động. Tôi đang còn nghĩ xem phải đáp trả thế nào thì tên Mỹ bước vào. Hắn chào Võ Bằng:

- “Chào buổi sáng X O. Anh mạnh khỏe?”

Võ Bằng quay nhìn, tươi cười.

- “Khỏe. Cám ơn Rick. Anh thì sao?”
- “Không có gì than phiền.”

Thủ tục nhàm chán nhưng không thể thiếu. Hỏi han nhau mang thân tình cho nhau. Tên Mỹ kéo ghế ngồi. Bằng kéo ghế cho tôi. Tôi vẫn đứng hỏi:

- “X O là gì vậy, Đại úy?”

Võ Bằng đang nhai nên tên Mỹ trả lời:

- “X O là executive officer, là Hạm Phó. Như tôi gọi Hạm Trưởng là Cap, tức Captain.”

Võ Bằng hỏi tôi:

- “Cô có xem phim Moby Dick?”
- “Có.”
- “Các thủy thủ gọi Thuyền trưởng là gì?”
- “Không để ý.”
- “Là Skip.”
- “Vì sao gọi Skip?”
- “Tôi thấy mình thật dại, khuyên cô luôn luôn hỏi ‘vì sao’ để chính mình bị hai lần bí!”

Tên Mỹ lại lên tiếng:

- “Skip là gọi tắt của skipper, nguồn gốc tiếng Hòa Lan schipper.”

Tôi thấy vui vui khi nghĩ nếu mình có dịp quá giang thêm vài chuyến chắc còn biết thêm nhiều tiếng lạ, thêm nhiều hiểu biết chuyện trên trời dưới biển. ‘Đi một ngày đàng học một sàng khôn’ là đây! Tôi nói ‘thank you’ với tên Mỹ rồi hỏi Võ Bằng:

- “Ăn cơm xong, tôi lên đài chỉ huy được hôn?”
- “Tôi chờ cô từng phút lại từng giây!”

Tôi ngượng nghịu nói:

- “Đại úy cứ nói giỡn hoài, Thiếu úy Văn cười chết!”
- “Kỳ tới, có cô nào quá giang, tôi sẽ bắt chước Hạm Phó! Master của tôi đó!”

Tôi trừng mắt với Văn. Thầy trò bênh nhau thì chịu thua thôi. Tôi cáo lỗi rút về buồng, đi thẳng vào phòng vệ sinh. Tôi nâng cổ tay xem đồng hồ: 11g45. Tôi có 10 phút chỉnh đốn cá nhân. Tôi tự hỏi khi tàu về bến sinh hoạt không biết ra sao chớ hai ngày qua thì giờ chặt chẽ quá. Đến ở phòng vệ sinh cũng phải canh giờ.

Khi còn 5 phút đúng ngọ, tôi trở ra ngồi vào chỗ chờ Hạm Trưởng. Đây là bữa ăn thứ ba của tôi do Hạm Trưởng chủ tọa. Hạm Phó, Thiếu úy Văn đã rời bàn và Trung úy Bạch, Thiếu úy Ấn xuống phiên ngồi ở ghế chỉ định. Tôi để ý thấy bàn ăn luôn luôn có 7 người. Hai người vắng mặt là hai sĩ quan đương phiên. Tôi cũng thấy có người luôn luôn có mặt là tên Đại úy Mỹ và Trung úy Lê Giáp Thân, người thỉnh thoảng Hạm Trưởng hỏi về tình trạng máy móc.

Vẫn thủ tục như hai bữa ăn trước, Thiếu úy Văn hô nghiêm khi Hạm Trưởng xuất hiện ở cửa vào. Ông tiến đến ghế đầu bàn, nhìn quanh một lượt rồi nói ‘mời ngồi’. Và cũng như lần trước, sau khi thả người lên ghế, ông dành câu nói đầu tiên cho tôi:

- “Rất vui thấy cô hiện diện sau hai ngày thiếu ngủ.” Ông nhìn Thiếu úy Văn ngồi đối diện, cuối bàn: 
- “Đây là bữa cơm chót của cô Phượng. Sĩ quan Ẩm thực đãi cô Phượng những món gì đây?”
- “Thưa Hạm Trưởng, thưa quý vị, thực đơn gồm cơm trắng, rau muống xào tỏi, thịt kho hột vịt, canh bí đao. Tráng miệng bánh LU. Xin thưa trước, các món ăn không được hòa hợp vì lý do kho cạn!”
- “Ái chà, toàn miếng ngon miền Tây. Rất tế nhị, Thiếu úy Văn. Nhớ chuyển lời tôi khen hỏa đầu quân. Món thịt kho hột vịt cũng là món ruột của nhà tôi. Nào, mời cầm đũa.”

Tên Mỹ nhấc đôi đũa và dùng tay kia sửa đổi vị trí thích ứng, rồi gắp miếng thịt kho, mỡ nhiều hơn nạc. Hắn cẩn thận đưa chén cơm đến tận mép dĩa thịt kho. Nét mặt bình thản của người chấp nhận hội nhập.

Tôi chan canh bí đao. Tôi thích ăn cơm với nước canh bí đao. Tôi múc từng muỗng đưa lên miệng thay vì và. Tên Mỹ nói với tôi ‘good idea’ rồi bắt chước. Hắn ăn với vẻ hài lòng và thỉnh thoảng nhìn qua tôi như muốn học cách ăn từ tôi.

- “Cô sẽ về thăm ba mẹ trước khi nhập học chứ?” Hạm Trưởng hỏi.
- “Dạ!”
- “Tôi sẽ kể chuyện với nhà tôi về gia thế của cô. Nếu bà ấy muốn nhìn bà con, chúng tôi sẽ nhờ cô đưa xuống Vĩnh Long thăm viếng ba mẹ cô.”

Tôi thầm kêu trời nhưng buộc phải nói xuôi theo:

- “Ba mẹ Phượng sẽ rất vui mừng tiếp đón.”

Tôi moi óc nhớ địa chỉ của tiệm tạp hóa nào đó lỡ ông hỏi tới. Nhưng ông không hỏi. Có thể ông nghĩ đã có địa chỉ nhà tôi trong giấy quá giang hoặc cho rằng Hạm Phó và tôi sẽ còn tiếp tục gặp gỡ. Nhưng nếu bom nổ, ông chết, mọi sự êm xuôi. Chỉ có điều đang đi ngoài dự tính: Tôi cảm thấy chùn tay.

- “Qua gần hai ngày hai đêm trên chiến hạm, cảm tưởng của cô ra sao?” Hạm Trưởng ân cần hỏi.
- “Chưa bao giờ trong đời Phượng được sống qua những giờ phút tuyệt vời như hai ngày qua.” Tôi vui vẻ đáp. “Từ góc nhìn di động xa khơi, Phượng được ngắm thỏa thuê núi tiếp núi trùng điệp, biển tiếp biển bao la. Và được chiêm ngưỡng những cảnh tượng độc đáo chưa từng được thấy ở thành phố.”

Tôi lướt mắt qua từng người quanh bàn, tiếp lời:

- “Thêm vào đó, những sinh hoạt tâm tình với thủy thủ đoàn, khiến Phượng đâm ra mê… đời thủy thủ. Rất mong một chuyến đi khác.”

Hạm Trưởng gật gù tỏ vẻ hài lòng. Rồi ông gắp thức ăn nhai ngon lành. Một lúc, ông buông đũa, hỏi:

- “Chỉ có thế thôi sao?”

Tôi không hiểu ý ông là gì, đành nêu chung chung:

- “Nếu không có chuyến quá giang này, có lẽ cả đời Phượng vẫn ngu ngơ về trời, sao, mây nước cũng như mù tịt về hoạt động gian nan của Hải Quân. Xin thú thật, sau khi rời chiến hạm, quan điểm sống của Phượng chắc sẽ hoàn toàn thay đổi.”
- “Một thí dụ?” Trung úy Bạch ngồi cạnh tôi hỏi.

Tôi nghiêng mặt nhìn anh. Đó là ý ám chỉ làm sao cho thí dụ được. Tôi trầm ngâm:

- “Thí dụ như thấy các anh mặc quân phục trắng dạo phố, tôi nghĩ binh chủng Hải Quân quá nhàn tản!”

Nhiều tiếng cười nổi lên. Tên Mỹ cũng tỏ vẻ thích thú. Hạm Trưởng lên tiếng:

- “Nhân sự việc trắng đen hai mặt, khó phân biệt đúng sai, tôi nhớ đến lối tuyên truyền bịp bợm của bọn Việt Cộng vào dịp tổng tuyển cử bầu Tổng Thống ngày 3 tháng 9 sắp tới. Họ tuyên truyền rằng chính quyền tổ chức bầu cử cho có hình thức chứ ai làm Tổng Thống thì đã chọn sẵn rồi! Hãy khách quan nhìn sự việc: Cuộc bầu cử diễn ra công khai trước thế giới và báo chí quốc tế, không cách gì bịp bợm được! Chúng ta có Hiến Pháp, chúng ta có Luật Bầu Cử. Chúng ta có đến 11 Liên danh Ứng cử gồm đủ mọi thành phần kể cả thành phần thiên Cộng. Tôi khuyên các sĩ quan nên đi bầu và các Trưởng ban nên khuyến khích nhân viên của mình đi bầu. Hãy cẩn thận chọn lựa người thật sự vì dân vì nước.”

Hạm Trưởng nhìn tôi:

- “Cô Phượng đã định bầu cho ai chưa?”
- “Thú thật, Phượng không rõ ai là ai!”

Ông gác đũa, tựa ngửa vào lưng ghế, ngạc nhiên:

- “Chỉ còn ba tuần nữa là đi bầu mà không rõ ai là ai!”
- “Thưa Thiếu tá, vì Phượng không thích chính trị.”

Ông chồm tới, đăm đăm nhìn tôi:

- “Đây là sự kiện quan trọng của đất nước, thích hay không cũng phải tham gia. Chẳng lẽ cô không định đi bầu?”
- “Phượng đi chứ.” Thấy ông giận, tôi nói dối.
- “Không biết ai ứng cử thì bầu cho ai. Đúng là cô bị tụi sinh viên nằm vùng tuyên truyền đừng đi bầu rồi?”

Dù ông đoán đúng nhưng tôi vẫn thấy tức bực. Ông có quyền gì mà hạch sách. Tôi nén giận, giọng mềm mỏng:

- “Không ai xúi. Phượng đã nói Phượng sẽ đi bầu. Vẫn còn nhiều thì giờ mà!”

Hạm Trưởng xuống giọng:

- “Cô Phượng nên đi bầu. Lá phiếu của cô hình thành tương lai của cô.” 
- “Theo Thiếu tá, Phượng nên chọn liên danh nào?”
- “Tôi không chọn giùm cô. Chính cô, cũng như các sĩ quan của tôi, mỗi người tự chọn lấy, tự trách nhiệm về sự chọn lựa của mình.”

Ông nhìn các sĩ quan rồi lại cầm đũa. Tôi vừa nhai vừa nghĩ tới Hưng. Anh vừa nhắc nhở đừng đi bầu và khuyên tôi tích cực xúi giục bạn bè nằm nhà. Tôi không tính đi bầu nhưng cũng chưa xúi giục ai. Hạm Trưởng có lý. Tại sao không đích thân đi bầu để chọn người lãnh đạo mình tin tưởng. Có cả liên danh thiên Cộng kia mà!

- “Thưa Thiếu tá, Phượng xin lặp lại là sẽ đi bầu.”

Hạm Trưởng gật đầu hài lòng. Ông sửa thế ngồi, hai bàn tay đặt tựa mép bàn, người thẳng đứng. Đó là thế ngồi chung của mọi người khi không cầm chén và đũa. Hạm Trưởng nhai từ tốn, không hở đôi môi. Có lúc đôi môi đó mím lại thành một nụ cười mỉa mai như nụ cười của Rhett dành cho cô vợ ngổ ngáo Scarlett trong Cuốn Theo Chiều Gió. Tôi đã ghét nụ cười đó trong phim và nay tôi ghét nụ cười của ông.

Có lẽ thấy bầu không khí trầm lắng, Trung úy Thân đùa cợt:

- “Chào cô Phượng. Nếu cô ngại đi bầu, tôi sẽ xin phép ‘người ấy’ đến nhà rủ cô đi.”
- “‘Người ấy’ là ai vậy?” Tôi bật cười.
- “‘Người ấy’ là người không có mặt ở đây.”
- “Không phải ‘người ấy’.”
- “Vậy ‘người ấy’ là ai?” Trung úy Thân dai dẳng.
- “Là ‘người ấy’!” Tôi cộc lốc.
- “Là ‘me’ chăng?” Tên Mỹ chen vô.
- “Mi có vợ rồi, nhất định không phải mi!” Tôi xua tay.

Cả bàn cười rộ. Thiếu úy Tiến góp lời:

- “Không bao lâu nữa cô Phượng sẽ rời tàu. Chắc chắn chúng tôi sẽ nhớ cô vì cô là người quá giang đầu tiên mà lại vô cùng đẹp. Còn với cô, tôi đồ rằng, sau khi cô về bên ‘người ấy’, cô quên hết chúng tôi!”
- “Không bao giờ!” Tôi phản đối. “Chiến hạm này đưa Phượng ra khơi lần đầu, lại cho Phượng bao nhiêu kỷ niệm tuyệt đẹp thì Phượng đương nhiên coi hơn cả… ‘người ấy’!”
- “Vậy có nghĩa là cô xác nhận đã có ‘người ấy’!” Trung úy Cang lên tiếng.
- “Có đó, rồi sao?” Tôi vui vẻ thách thức.
- “Rồi thôi! Thôi rồi!” Trung úy Cang ỡm ờ.

Thiếu úy Ấn lại ngâm nga, nhại Nguyễn Bính:

- “Gái lớn lên ai chẳng có bồ! Can gì mà khóc với kêu ca!”

Tôi thích chí cười to. Tôi đã thấy lý do họ đi biển lâu ngày mà không buồn chán. Ở đâu, bất cứ lúc nào họ cũng vui vẻ, cười đùa. Tại sao tôi không đi chuyến nữa và … không mang theo quả bom? Chắc chắn là vui đùa mặc sức! Hạm Trưởng lên tiếng:

- “Như tôi nói, đây là bữa cơm chót của cô trên tàu này. Sẵn gần đông đủ sĩ quan, cô có gì không hài lòng hay có gì thắc mắc, cứ nêu lên chúng ta cùng giải tỏa.”
- “Thưa Hạm Trưởng.’ Tôi cảm động nói: “Cho tới giờ phút này Phượng không có gì gọi là không hài lòng. Xin đa tạ sự đối đãi niềm nở của quý vị. Còn về thắc mắc, chắc phải cần ra khơi vài chuyến nữa may ra mới hết thắc mắc.”
- “Thử nêu một xem.” Hạm Trưởng nói.

Tôi nghĩ đến câu đã hỏi và Võ Bằng không trả lời được. Nếu đem ra hỏi Hạm Trưởng, liệu có chạm tự ái Võ Bằng? Rồi lỡ Hạm Trưởng cũng không biết, liệu có làm ông mất mặt? Hạm Phó thì đang ở đài chỉ huy, còn Hạm Trưởng thì chắc gì ông bí. Trường hợp ông trả lời suôn sẻ thì được hiểu biết thêm, lợi bất cập hại! Tôi mạnh dạn:

- “Điều Phượng thắc mắc là vì sao về đêm, bầu trời lại màu đen?”
- “Câu trả lời dễ nhất: Vì ban đêm trời tối đen!” Hạm Trưởng nói ngay.

Thầy trò trả lời giống nhau quá! Tôi bật cười:

- “Thưa Thiếu tá, Phượng nghĩ là câu trả lời đó thiếu tính khoa học. Là vì theo sách vở, ánh sáng mặt trời cực mạnh, nó đủ sức chiếu sáng cả bầu trời. Quả đất chỉ là một điểm nhỏ, không chận được hết ánh sáng. Thí dụ như mình chiếu đèn pha trong phòng tối, một trái cam không thể che tối cả căn phòng.”
- “Tôi nói đùa thôi, cô Phượng đúng. Ban đêm ta thấy bầu trời màu đen không phải vì đêm tối. Để làm sáng tỏ, tôi cần dông dài một chút. Trước hết phải hiểu một số danh từ chuyên môn như bầu trời là gì, không gian, vũ trụ là gì? Bầu trời là bầu khí quyển bao bọc quanh một thiên thể. Thiên thể là các ngôi sao như hành tinh, định tinh, sao chổi, vân vân. Không gian là khoảng trống giữa các thiên thể. Vô số thiên thể hợp thành thiên hà. Vũ trụ là không gian vô tận chứa các thiên hà. Có 200 tỷ thiên hà. Mỗi thiên hà cách nhau 2 triệu năm ánh sáng. Cô Phượng thử hình dung độ rộng của vũ trụ.”
- “Phượng hình dung thế này: lấy 2 triệu năm ánh sáng nhân cho 200 tỷ thiên hà.”
- “Vũ trụ thì quá sức lớn, không gian lại chỉ là chân không nên không có hiện tượng tản xạ. Nói cách khác, vũ trụ luôn luôn đen tối. Bây giờ, trở lại quả đất. Quả đất nằm trong Thái dương hệ là một nhóm gồm 9 hành tinh thuộc dải Ngân Hà. Mặt Trời là ngôi sao trung tâm bởi vì chỉ một mình Mặt Trời tự sinh bức xạ và phát ánh sáng. Ánh sáng có màu trắng, tổng hợp của 7 màu. Quả Đất nhận ánh sáng từ Mặt Trời. Chúng ta biết Quả Đất có bầu khí quyển. Ngoài 100 cây số là không gian chân không. Bầu khí quyển chính yếu gồm phân tử ni-tơ, oxy, hơi nước. Khi ta thấy Mặt Trời, có nghĩa là ánh sáng mặt trời xuyên qua bầu khí quyển chiếu sáng Trái Đất. Tuy nhiên 7 màu của nguồn sáng cũng bị tản xạ, lưu lại màu xanh trên bầu trời. Ngược lại, khi ta không thấy Mặt Trời, không có ánh sáng mặt trời xuyên qua khí quyển tới mắt chúng ta, chỉ thấy không gian là vũ trụ đen tối. Vì các ngôi sao quá xa, ánh sáng tới mắt ta quá yếu, chỉ đủ cho bầu khí quyển tản xạ lấp lánh. Đó là lý do vì sao bầu trời đen tối khi mặt trời lặn. Hy vọng cô hài lòng?”

Tôi nghiêng mặt nhìn các sĩ quan. Ai nấy đều tỏ ra hớn hở với lời dẫn giải của Hạm Trưởng. Dù hiểu đại khái, tôi cũng hăng hái nói:       

- “Thưa Thiếu tá, Phượng đã rõ, xin cám ơn nhiều.”

Cả bàn tiếp tục ăn. Tôi vừa nhai vừa nghĩ thêm câu hỏi. Năm phút sau, tôi nói:

- “Thưa Thiếu tá, xin thêm một thắc mắc. Chuyện trên trời coi như tạm đủ biết, giờ xin thắc mắc về chính Hạm Trưởng.”

Tôi nhìn ông xem phản ứng. Nét mặt ông bình thản như nét mặt của Clark Gable khi ra lệnh đánh đắm tàu ngầm Bismark. Ông hỏi:

- “Về chuyện gì?”
- “Những điều kiện nào cần có để được làm Hạm Trưởng?”

Ông không trả lời ngay mà cầm đũa tiếp tục bữa ăn. Tôi cũng cạn chén của mình. Mãi vài phút sau ông mới dẫn giải:

- “Cô biết rồi, cần thỏa mãn ba chữ trên huy hiệu Hạm Trưởng: Danh Dự, Tài Đức, Kỷ Luật.”
- “Xin nói cụ thể hơn.”
- “Danh dự và kỷ luật thì cô quá biết. Còn về Tài Đức, thì Đức phải thế nào, cô giáo như cô càng rành rẽ. Chỉ còn lại Tài. Tài thì phải rèn luyện. Học tập ở quân trường, chỉ là căn bản. Sau khi xuống tàu, phải gian nan rèn luyện, bắt đầu từ chức vụ ít quan trọng, lần lần lên chức Hạm Phó. Sau một thời gian, phải được vị Hạm Trưởng đương thời đề bạt. Rồi tùy thâm niên và tùy cấp bậc, phải qua các trường Huấn luyện Bổ túc, trường Chỉ huy Tham mưu, Cao Đẳng Hải Chiến, Đại học Quân sự. Mục đích là sĩ quan mang cấp bậc nào bắt buộc phải có kiến thức tương đương cấp bậc đó. Thí dụ như cấp tá như tôi, phải học Cao đẳng Hải chiến để biết về chiến thuật chiến lược Hải Quân và nghệ thuật hải chiến.”
- “Về hải chiến, có quyển nào được bày bán ở Khai Trí hôn, thưa Thiếu tá?”
- “Thấy có hai quyển viết về các trận hải chiến giữa Mỹ và Nhật, là trận Trân Châu Cảng và trận Midway.”
- “Phượng sẽ đọc.”
- “Sẵn nhắc tới thế chiến 2, tôi giới thiệu cô một quyển truyện về thế chiến 1 tôi vừa đọc xong. Rất là hay. Đó là quyển The Cruel Sea xuất bản năm 1951 của tác giả người Anh, cựu Hải Quân Thiếu tá Nicholas Monsarrat. Nội dung mô tả hai hộ tống hạm, mỗi chiếc 150 nhân viên, lớn hơn chiếc hộ tống hạm này, lần lượt trải qua các cơn bão táp dữ dội cũng như các trận hải chiến kinh hồn với các tàu ngầm U-boat của Đức. Truyện được quay thành phim năm 1953 và thành công lớn. Rất tiếc là chưa được chiếu ở Việt Nam.”
- “Ba năm trước, tình cờ bạn rủ nên Phượng có coi phim ‘Đánh đắm tàu Bismark’. Từ đó Phượng đâm mê coi các trận hải chiến. Năm sau, xem ngay từ ngày đầu chiếu ‘Run Silent, Run Deep’. Coi xong lại đâm mê hai tài tử Clark Gable và Burt Lancaster. Trời xui đất khiến, xuống tàu này gặp nhị vị Hạm Trưởng, Hạm Phó giống hai tài tử đó quá.”
- “Nhà tôi cũng thấy như cô. Bởi thế tôi thấy ông hải quân giống Burt Lancaster là người cô nên chọn.”

Hạm Trưởng lại nở nụ cười ngạo mạn như Clark Gable. Tôi chợt thấy ghét cả hai. Tôi hết muốn lên đài chỉ huy gặp Võ Bằng. Hạm Trưởng lại hỏi:

- “Thắc mắc tiếp theo là gì?”

Tôi hết muốn nêu thắc mắc. Mà rời bàn cũng không xong. Thôi thì hỏi thêm cho qua thì giờ:

- “Thưa Thiếu tá, tôi để ý thấy Hạ sĩ quan và thủy thủ đeo phù hiệu nghề trên cánh tay, đa số không giống nhau. Vậy Hải Quân có tới mấy nghề lận?”

Ông vừa nhai miếng thịt vừa ngẫm nghĩ. Một lúc, ông nói:

- “Trung úy Bạch, Hạm Phó tương lai, trả lời câu này.”

Trung úy Bạch giật mình, cúi mặt, miệng lẩm bẩm. Một phút sau, anh nói:

- “Theo tôi biết có 15 nghề. Từ chuyên môn gọi là chuyên nghiệp. Một chiến hạm, tùy lớn nhỏ, muốn hoạt động hữu hiệu, phải có đủ nhân viên theo cấp số, và phải gồm đủ 15 chuyên nghiệp. Như Cơ Khí, Điện Khí, Điện Tử, Vô Tuyến, Trọng Pháo, Vận Chuyển, Y tá, Tiếp Vụ, Bí Thư, vân vân. Bình thường, họ làm việc theo chuyên nghiệp, nhưng khi có nhiệm sở tác chiến, họ được chỉ định vào các ổ súng…”

Tôi cám ơn Trung úy Bạch rồi tiếp tục ăn. Một lúc thấy không ai nói gì tôi lại nhìn Hạm Trưởng. Đôi mắt ông tỏ dấu chờ câu hỏi. Tôi hy vọng câu này làm ông bí:

- “Thưa Thiếu tá, còn sĩ quan thì sao? Không thấy người nào có phù hiệu chuyên nghiệp!”
- “Các sĩ quan, ngoài chuyên môn hàng hải, tức là khả năng chỉ huy một chiến hạm, đều phải học khái quát các chuyên nghiệp. Nói cách khác, các sĩ quan không đeo phù hiệu chuyên nghiệp vì… không có chỗ để đeo!” Hạm Trưởng cười. “Tuy nhiên, để hoạt động hữu hiệu, mỗi sĩ quan được chỉ định phụ trách một ban, gồm các nhân viên có chuyên nghiệp liên hệ.  Như Thiếu úy Văn, trong chức vụ Trưởng ban Ẩm thực, sẽ giám sát các nhân viên các nghề liên hệ gồm Kế Toán, Tiếp Vụ, Quản Kho. Như Thiếu úy Nguyễn Ấn, Trưởng ban Truyền Tin, trông coi nhân viên Vô Tuyến, Điện Tử, Thám Xuất. Như Trung Úy Lê Giáp Thân, Trưởng ban Cơ Khí, trông coi nhân viên Cơ khí, Điện khí, vân vân.”

Ông dừng lại, nhìn Thiếu úy Vương Văn Tiến rồi nhìn tôi:

- “Còn một sĩ quan, cấp bậc nhỏ nhất mà lại trông coi toàn thể thủy thủ đoàn cả trăm người, là Thiếu úy Vương Văn Tiến, chức vụ Sĩ quan An ninh. Thiếu úy Tiến cho biết nhiệm vụ của Sĩ quan An ninh là gì?”
- “Thưa Hạm Trưởng, nhiệm vụ Sĩ quan An ninh là theo dõi, điều tra và bắt giữ Việt Cộng trà trộn trên tàu.”

Tôi nghe mà lạnh người...

Chương 15

Hải phận Phước Tuy
Chủ nhật 6/8/1967 14:00G

Sau cơm trưa, tôi leo lên đến đài chỉ huy thì Võ Bằng nhận phiên hải hành đã 2 tiếng.  Anh chàng đang đứng tựa thành đài hữu hạm. Thiếu úy Ấn đứng bên cánh tả. Võ Bằng chỉ quay ngang nhìn tôi khi Thiếu úy Ấn lên tiếng:

– “Chào cô Phượng.”
– “Chào Thiếu úy.”

Tôi chưa kịp vịn vào trụ la bàn, nơi tên Mỹ thường đứng thì Võ Bằng nói như ra lệnh:

– “Cô Phượng qua đây thoáng gió, đỡ nóng hơn.”

Tôi ghét giọng nói đó nhưng ở vào thế không ‘tuân lệnh’ không tiện, nên tà tà bước qua đứng cạnh anh chàng. Rừng ghe đánh cá đã biến mất, trả lại mặt biển thẫm xanh lấp lánh tiếp giáp bờ cát vàng trải dài có đến hàng cây số. Cát gợn sóng chạy sâu tận rừng cây dương in trên nền xanh da trời.

– “Bữa cơm ngon miệng chứ?” Võ Bằng hỏi qua vai.

Câu hỏi gợi tôi nhớ Sĩ quan An ninh Thiếu úy Tiến. Cảm giác lo ngại đeo đẳng tôi suốt phần còn lại của bữa cơm và tới lúc này. Tôi cố mỉm môi cười gượng:

– “Nhà bếp đãi tôi các món ăn miền Nam tôi rất thích.”
– “Không lạ. Các tay nhà bếp đều là dân miền Tây.”
– “Tôi còn được cho biết Hải Quân có đến 15 chuyên nghiệp.” Ước gì tôi có thể nói thêm ‘nghề nào nghe cũng hay trừ nghề an ninh’.

Võ Bằng như không nghe tôi nói, cất giọng buồn buồn:

– “Tôi tiếc là không thể dự bữa cơm chót với cô. Nhằm phiên trực thì đành vậy! Nhưng nếu cô đồng ý, tôi sẽ đền bù ở một nhà hàng nào đó do cô chọn.”
– “Tôi mới là người mang nợ chiến hạm chớ Đại úy có nợ nần gì. Người mời phải là tôi nhưng…” Tôi đánh trống lảng. “Mình đang ở đâu vậy, Đại úy?”
– “Chúng ta vừa vào hải phận Phước Tuy.” Võ Bằng ra chiều nghĩ ngợi rồi tiếp. “Về Sài Gòn cô ghé thăm ông anh họ chứ?”

Sau một thoáng ngẩn ngơ tôi mới nhận ra Võ Bằng ám chỉ ai. Tôi nói:

– “Dĩ nhiên. Đâu thể được việc rồi mà không có lời cảm ơn.”
- “Cô sẵn lòng giải đáp cho tôi một thắc mắc?”

Võ Bằng đổi giọng rào đón làm tôi e ngại nhưng đâu thể nói không. Tôi vờ sốt sắng:

- “Nếu đó là câu hỏi chót thì càng sẵn lòng!”
– “Cô nói cô là em Phan Kim Đính, rồi cô bảo hai người là con chú con bác, thực sự ai con chú ai con bác?”

Tôi có phần ngạc nhiên với câu hỏi. Võ Bằng có ngầm ý gì chăng? Tôi cao giọng:

- “Ai con chú, ai con bác thì nhằm nhò gì chuyện quá giang? Đại úy tò mò dữ vậy?”
- “Tôi hỏi cho rành rẽ vì nếu cô là con người bác thì dù tuổi nhỏ hơn, cô vẫn giữ vai chị. Phải hôn?
- “Dòng họ tôi theo lệ ai nhỏ tuổi là em, bất kể con chú con bác.”
- “Nhưng dòng họ tôi theo lệ ai con người bác thì dù nhỏ tuổi vẫn giữ vai vế lớn.”
- “Thì cũng đâu nhằm nhò gì…!” Tôi gắt.

Võ Bằng chận lời, chiếu tia mắt ranh mảnh vào tôi:

- “Có chứ. Vì nếu Phan Kim Đính là con người chú, tôi sẽ bảo nó từ nay ngưng ngay xưng hô ‘mày tao’ mà phải gọi tôi là anh!”

Câu đùa của Võ Bằng như theo làn gió trưa hè tạt vào mặt tôi nóng bừng. Tôi vừa ngượng nghịu vừa bực mình vì thua trí. Tôi cố tìm câu đáp trả nhưng đầu óc rỗng không. Đành hỏi bâng quơ:

– “Bỏ qua chuyện tào lao đi, Đại úy! Làm ơn cho biết tàu đã qua khỏi Banc de Britto chưa?”
– “Cô mà cũng biết Banc de Britto?” Võ Bằng trố mắt.
– “Hạm Trưởng nói, cái bãi cạn đó rất nguy hiểm cho tàu bè. Ông ấy cũng đề cập đến đảo Hòn Bà…”
– “Đề cập những gì về Hòn Bà?”
– “Ông bảo đó là nơi trốn sóng an toàn hơn Mũi Né.”
– “Còn gì nữa?”
– “Ông ấy còn kể chuyện Lầu Ông Hoàng và Hàn Mạc Tử.”
– “Tôi muốn hỏi Hạm Trưởng còn nói thêm gì về Hòn Bà?”

Tôi ngẫm nghĩ rồi trả lời:

– “Chỉ có thế!”
– “Hòn Bà mà Hạm Trưởng đề cập, thì tàu vừa qua khỏi. Chúng ta sắp đến Hòn Bà thứ hai.”
– “Hòn Bà thứ hai? Hai Hòn Bà gần nhau mà cùng tên, chuyện lạ!”
– “Có gì lạ! Mỗi đảo thờ một nữ thần mà! Đảo ngoài khơi Hàm Tân, có ngôi đền thờ nữ thần Thiên Y Ana, thánh Mẫu của người Chàm. Dân chài thường đến cúng vái để bắt được nhiều cá. Còn đảo cạnh mũi Nghinh Phong Vũng Tàu, có ngôi miếu thờ Thủy Long Thần Nữ, thường gọi là Bà Thủy. Bà là vị thần cai quản vùng sông nước, hộ trì ngư dân được biển lặn sóng êm. Ngoài đền và miếu vừa kể, còn có Dinh Bà ở Dương Đông Phú Quốc thờ Thủy Long Thánh Mẫu. Dân ở đảo rất tôn kính Bà, coi Bà là hóa thân của Bà Thủy, hộ trì dân được ấm no và ngư dân được nhiều cá tôm.

Tiếng Thiếu úy Ấn vang lên đột ngột:

– “Thưa Hạm Phó có thương thuyền ngay trước mũi chiến hạm.”

Võ Bằng ngước nhìn rồi nói:

– “Thiếu úy dự tính phản ứng thế nào?”
– “Thưa Hạm Phó, nó là tàu lớn nên có ưu tiên.”
– “Vậy thì làm sao?”
– “Thưa, mình phải nhường đường, lái chiến hạm qua bên phải.”
– “Đúng sách vở. Cho lệnh thi hành.”

Thiếu úy Ấn ban các lệnh vận chuyển. Mũi tàu tạt dần qua phải. Một lúc anh cho lái lại hướng cũ. Bây giờ chiếc thương thuyền ngược chiều về bên mạn tả. Võ Bằng quay qua tôi, vừa cười vừa nói:

– “Chuyện chúng mình đến đâu rồi?”

Anh chàng ăn nói láu cá làm tôi bực bội mà đành chịu. Tôi cau có:

– “Đến đâu tính sau. Ngay bây giờ cho tôi có nhận xét. Thì ra lái tàu cũng dễ như lái xe. Xe nhỏ nhường xe lớn. Luôn luôn giữ bên phải!”
– “Không dễ đâu. Nếu dễ thì chúng tôi đâu phải học đến hai năm. So với lái xe, cô chỉ cần học vài tuần là được bằng lái. Thử so sánh: Lái xe thì đường làm sẵn, đường ai nấy đi. Lái nối đuôi nhau hoặc cùng chiều hoặc ngược chiều. Lái tàu thì hải trình thênh thang, tự do ngang dọc. Lại bị sóng gió, dòng nước đưa đẩy. Vì vậy luật hải hành rắc rối hơn nhiều.  Phải nắm vững loại tàu nào ưu tiên hơn loại nào. Tàu đang trên gió hay dưới gió, đang xuôi dòng hay ngược dòng. Ai tránh trước, tránh sau. Muốn vượt qua mặt thì còi hiệu trao đổi thế nào… Đó là về ban ngày. Ban đêm càng rắc rối. Cỡ tàu lớn nhỏ, đi cùng chiều hay ngược chiều, đang neo hay đang chạy, tùy thuộc vào đèn treo và màu ánh đèn. May là bữa nay mình qua Vũng Tàu vào ban ngày chớ vào ban đêm, vốn đã về trễ sẽ còn trễ hơn. Luật buộc phải tập trung để nhận hay trả hoa tiêu cho các thương thuyền đi hoặc về Nam Vang và Sài Gòn. Khi đông quá, họ neo tùm lum nên chiến hạm phải giảm tốc độ.”

Sợ chiến hạm phải neo đợi không biết đến bao giờ, tôi hỏi:

– “Tàu chiến chắc không cần hoa tiêu?”
– “Không và Có. Không cho chiến hạm bản địa và có cho chiến hạm ngoại quốc. Tuy nhiên, hoa tiêu cho chiến hạm ngoại quốc không cần phải là hoa tiêu chuyên nghiệp mà chỉ cần là Hạm Trưởng bản địa đương nhiệm. Ông Hạm Trưởng của chiến hạm này đã bị ‘tạp dịch’ hoa tiêu hai lần trong kỳ nghỉ bến lần trước.”
– “Quá rối rắm!” Tôi thở dài, lắc đầu. “Xin trở lại với Bà Thủy. Bà là ai thì biết rồi: Thủy Long thần nữ. Nhưng sự tích ra sao?
– “Theo thuyết ngũ hành, vạn vật gồm các yếu tố Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Các yếu tố này tương sinh tương khắc để vạn vật tồn tại và phát triển. Cổ nhân thần tượng hóa các yếu tố này như những thần nữ cai quản từng lãnh vực:  Kim khí (Kim tinh thần nữ), Núi rừng: Bà Chúa Thượng Ngàn. Sông biển: Bà Thủy. Củi lửa: Bà Hỏa. Đất đai: Thổ thần. Dân gian gọi chung năm bà là Ngũ Hành Nương Nương. Rất nhiều miếu thờ Ngũ Hành Nương Nương ở các tỉnh miền Nam, đặc biệt ở các tỉnh duyên hải, sông ngòi và các nơi hay có hỏa hoạn.”
Các đền thờ, miếu thờ thì giống nhau nhưng nơi nào thuận tiện đi lại thì đông người, ngược lại thì vắng vẻ. Thí dụ như đảo Hòn Bà ở Hàm Tân vì cách xa bờ nên ít người đến cúng kiếng; còn Vũng Tàu thì dính vào đất liền bằng một bãi cạn, khi thủy triều xuống có thể đi bộ ra đảo, nên đông nườm nượp.”
- “Nhắc đến thủy triều, tôi là dân làng nên thấy rõ thủy triều rất ảnh hưởng đến đời sống dân quê. Đối với chiến hạm nó có ảnh hưởng gì không?”
– “Ảnh hưởng quá đi chứ! Rõ ràng ảnh hưởng lớn nhất là mối đe dọa tàu bè bị mắc cạn, bị đá ngầm. Tuy nhiên, thủy triều cũng ban cho lợi thế nếu biết khai thác. Cô giỏi sử địa, thử luận cổ suy kim. Hãy nhớ xem các trận đánh nào tổ tiên chúng ta đại thắng quân Tàu nhờ vào thủy triều?”

Câu hỏi trúng tủ, tôi đáp ngay:

– “Có hai trận. Một vào năm 938 do Ngô Quyền và một vào năm 1288 do Trần Hưng Đạo. Cả hai trận đại thắng đều nhờ vào thủy triều trên sông Bạch Đằng.”
– “Thủy triều đối với chiến thuyền hay chiến hạm đều quan trọng như nhau. Chúng tôi tuần tiễu hoặc tham chiến trong sông hay ven biển đều quan tâm đến thủy triều. Gặp khi nước ròng, không để ý, bị mắc cạn là chết đứng như Từ Hải!”
– “Vậy thì làm sao thoát ra? Chẳng lẽ nằm đó làm mồi ngon cho địch?”

Tôi ngạc nhiên khi nghe tiếng ‘địch’ thoát ra từ chính miệng mình. Tôi đang đứng ở chiến tuyến nào mà gọi phe ta là địch? Giọng của Bằng êm ái, thân tình:

– “Câu hỏi gợi tôi nhớ một kỷ niệm thời mới ra trường. Trong chuyến công tác tuần duyên bảo vệ lãnh hải Vũng Tàu chúng ta đang tới, tiêu lệnh của Hạm Trưởng là chạy lên hướng Bắc 4 tiếng rồi chạy xuôi Nam 3 tiếng. Nhằm mùa gió đông bắc, biển động mạnh mà tàu thì nhỏ, nên đi phiên là cả một cực hình. Tàu chạy ngược sóng 3 tiếng, ói mửa cũng cả mười lần, quá mệt mỏi, tôi cho tàu quay đầu chạy xuôi sóng. Sau một tiếng khỏe khoắn, tôi bàn giao cho phiên kế tiếp. Mưa xối xả nên không thể định vị, tôi cho vị trí phỏng định. Tôi về phòng, lên giường là thiếp ngay. Đang ngủ say sưa thì bị đánh thức, nói Hạm Trưởng cần gặp tôi trên đài chỉ huy. Ông hỏi tôi:
– “Anh có theo đúng tiêu lệnh của tôi?”

Biết có chuyện, tôi thành thật:

– “Thưa, vì sóng to quá, không chịu nổi, tôi chạy lên 3 tiếng thì quay đầu chạy xuôi sóng!”
– “Khi đi tuần trên một trục nào đó, phải tăng thêm thời gian nếu bị gió ngược và giảm khi chạy xuôi. Anh chạy ngược mới 3 tiếng mà cho chạy xuôi thì tàu mắc cạn là phải rồi! Với cái lỗi hải nghiệp quá hiển nhiên, tôi đinh ninh là sẽ bị phạt nặng. Nhưng Hạm Trưởng chỉ nghiêm khắc cảnh cáo.”

Võ Bằng lặng thinh nhìn những lượn sóng tạt vào hông tàu như còn thấm thía kỷ niệm đau thương. Tôi chợt nhớ anh chàng sắp lên làm Hạm Trưởng, liền hỏi:

– “Nếu là Hạm Trưởng, Đại úy xử sự thế nào?
– “Tôi sẽ trả lời khi làm Hạm Trưởng. Còn bây giờ ta đổi đề tài cho đỡ khô khan.”
– “Chưa được! Đại úy để tàu mắc cạn nhưng chưa nói làm sao ra khỏi chỗ cạn?”
– “Rất may là lúc đó nước đang lớn nên 10 phút sau là lùi ra được. Nếu không thì phải chờ trọn chu kỳ thủy triều, nghĩa là hết ròng tới lớn là 12 tiếng.”
– “Chu kỳ thủy triều là 12 tiếng? Đại úy dựa vào đâu mà có con số đó?”
– “Từ thời trung học cô đã biết rồi.” Võ Bằng ngạc nhiên.
– “Học mà không được hành như Đại úy nên nhớ sao nổi!” Tôi cười.
– “Nhưng ít nhất cô hẳn còn nhớ các con số quen thuộc này. Không kể số lẻ, Quả đất tự quay quanh trục là 24 giờ, quay quanh Mặt trời 365 ngày. Mặt trăng quay quanh Quả đất là 29 ngày. Cả ba thiên thể này đều có lực hấp dẫn riêng. Chính lực các hấp dẫn đã giữ Quả đất quay quanh Mặt trời và Mặt trăng quay quanh Quả đất.”
– “Tôi còn nhớ cũng chính lực hấp dẫn sinh ra thủy triều nhưng hấp dẫn thế nào và vì sao có hai lần thủy triều lên xuống trong ngày thì chưa thông!”
– “Chuyện thủy triều lên xuống cũng rắc rối như tình yêu, càng tìm hiểu càng rối mù. Vì vậy, tôi chỉ gợi ý vài điểm. Hiện tượng thủy triều là do sức hút của Mặt trăng, Mặt trời và lực ly tâm của Quả đất. Mặt trời là định tinh đứng yên. Quả đất quay quanh Mặt trời một năm mới giáp vòng, coi như đứng yên. Mặt trăng quay quanh quả đất một tháng mới giáp vòng cũng coi như đứng yên. Chỉ còn một yếu tố chuyển động là Quả đất tự quay quanh trục giáp vòng 24 giờ. Tức là tại một thời điểm và địa điểm nào đó, nước trên Quả đất bị lực hút của cả hai Mặt trời và Mặt trăng. Khi cả ba thẳng hàng sức hút mạnh tối đa, ta có thủy triều cao. Khi mặt trăng quay quanh Quả đất đến ngày thứ 7 hay 14, góc của Mặt trăng so với Mặt trời là 90°, hai lực triệt tiêu, thủy triều thấp.”

Võ Bằng ngưng nói nhìn tôi. Tôi gật đầu. Anh chàng tiếp:

– “Đây là lý do trong một ngày có hai lần thủy triều lên, hai lần xuống. Khi nước chuyển động do lực hút ở mặt này của Quả đất thì mặt kia do lực ly tâm, cũng chuyển động tương tự. Nói khác đi, tại một địa điểm, chỉ cần 12 tiếng để tái lập mực nước cũ thay vì phải cần đến 24 tiếng, tức hai lần lên xuống trong ngày.”

– “Nhưng mực nước lớn ròng của ngày hôm sau không cùng thời điểm ngày hôm trước.” Tôi thắc mắc.
– “Đúng, vì chu kỳ Mặt trăng quay quanh Quả đất là 29 ngày, lớn hơn 28 ngày của 4 tuần trăng, do đó thời điểm nước lớn ròng vào ngày hôm sau sẽ muộn 50 phút.”
– “Nhưng nếu không biết giờ nước lớn hôm qua thì làm sao biết hôm nay?”
– “Mỗi năm, chiến hạm nào cũng được cấp một quyển sách, gọi là ‘Bảng Thủy Triều’ trong đó người ta tính toán sẵn từng giờ từng phút chiều sâu của biển ở từng nơi trên thế giới…”

Tôi còn đang bán tính bán nghi với nhóm từ ‘từng giờ từng phút’ thì Võ Bằng lại tiếp:

– “Nói tới thủy triều, tôi nhớ đến câu hỏi của cô mà tôi bí hôm qua. Thủy triều đã giúp tôi thấy ‘vì sao ban đêm bầu trời đen tối’!”

Tôi muốn nói với Võ Bằng là Hạm Trưởng đã giải thích nhưng thấy bất tiện nên đành im lặng. Anh chàng tiếp:

– “Hiện tượng tuần trăng cho thấy bầu trời đen tối không phải vì mặt trời lặn mà vì Mặt trời trả lại bóng tối vĩnh hằng của vũ trụ. Chúng ta biết khi Mặt trời lặn, không có nghĩa toàn thể bầu trời của Quả đất đều tối. Bầu trời tối ở nước này nhưng bầu trời vẫn sáng ở nước kia. Khi Mặt trời lặn, Mặt trăng nhận ánh sáng của Mặt trời phản chiếu vào vũ trụ đen tối. Mặt trăng gần Quả đất, nhưng vì nhận ánh sáng chỉ một nửa bề mặt cố định nên tùy vị trí trong thái dương hệ mà phản chiếu ánh sáng mờ hay tỏ. Các vì sao thì cách quá xa nên chỉ đủ sức cho ánh sáng lấp lánh. Trả nợ câu bị bí rồi đó.”
– “Đã rõ. Rất cám ơn!”
– “Để tôi thử so sánh khác biệt giữa thủy triều và sáng trăng cho vui. Với thủy triều, bất kể Mặt trăng nằm giữa hay ngoài trục thẳng Mặt trời Quả đất, ta có thủy triều cực đại. Với sáng trăng, khi Mặt trăng nằm giữa ta có đêm 30. Còn nằm ngoài, ta có trăng rằm. Điều đáng nhớ: Đêm 30 hay trăng rằm đều sinh thủy triều cực đại. Còn mực nước cao thấp trong ngày hoặc đêm mờ, đêm tỏ là do trăng non, trăng lưỡi liềm, trăng thượng tuần, trăng rằm, trăng hạ tuần, trăng khuyết.”
– “Còn ‘trăng tàn trên hè phố’ thì sao?” Tôi cười đùa.
– “Thì thôi mình chia tay…” Võ Bằng ngậm ngùi.

Tôi cũng thấy ngậm ngùi. Đúng là vài giờ nữa không bao giờ còn gặp lại nhau!

Tiếng Võ Bằng đột ngột thầm thì:

– “Cô có biết hai câu thơ này của ai không?
Đưa người, ta đưa người qua biển,
Lòng ta hòa tiếng sóng bập bùng…”

Võ Bằng tài thật, lúc nào cũng sẵn sàng tuôn ra thi ca để đánh động lòng người. Nếu chuyến đi kéo dài thêm vài ngày, chắc khó mà không xao xuyến. Nhưng hai câu thơ của ai mà nghe quen quen. Tôi bật cười:

– “Thơ của Đại úy. Đại úy nhại thơ Thâm Tâm:
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng…”
– “Cô nhạy bén thật. Đáng phục! Rất đáng phục! Phải hôn Phượng?”

Tôi giật mình. Võ Bằng cố tình bắt chước từ ngữ ‘phải hôn’ của tôi nhưng không phát âm như ở thể nghi vấn mà là mệnh lệnh cách. Tôi sửa tư thế, sẵn sàng đưa tay chống đỡ. Nhưng anh chàng chỉ cười, nụ cười Burt Lancaster rất dễ thương. Tự dưng tôi không kềm được câu hỏi:

– “Theo tôi vừa được biết thì Đại úy đã đưa tới ba người qua biển. Tiếng sóng nào còn bập bùng mạnh nhất?”

Bằng trầm ngâm rồi mỉm cười hỏi lại:

– “Nghe cách cô Phượng đặt câu hỏi, xem ra tình yêu của cô vẫn đang… bập bùng?”
– “Đại úy trả lời trước đi!”
– “Tôi gom cả ba bập bùng cũ mang tặng người qua biển thứ tư.”

Nghe như có gì chua xót trong tôi. Chua xót vì tôi là người thứ tư hay vì tôi không xứng đáng để nhận? Cho dù tôi không cho bom nổ, cả đời vẫn mang tiếng là tên khủng bố.

– “Đến lượt cô trả lời.”

Tôi nhắm mắt, nghĩ câu đáp. Gió hâm hấp và nắng rát da. Tôi còn yêu Hưng hay đã hết? Rõ ràng là nếu còn thì cũng trên đà tan tác. Còn yêu Võ Bằng, có thể tình yêu đang chớm nở cùng với tiếng nổ của quả bom. Thử nghĩ tôi bị vạch mặt là kẻ khủng bố, liệu Hạm Trưởng có trừ khử con ác quỷ bằng cách ra lệnh ném tôi xuống biển. Võ nghệ của tôi hoàn toàn vô dụng trước bể cả mênh mông. Và rồi những con cá mập bu quanh. Từng cú ngoạm banh da xé thịt. Thân xác tôi cuối cùng chỉ còn là bộ xương như bộ xương của con kình ngư trong Ngư ông và Biển cả. Tôi rùng mình nghĩ mình thật dại đi nghe lời Hưng. Cứ tưởng tượng hai năm tới tôi vừa là nhà giáo vừa làm vợ Hưng. Vào lớp thì khuyên tuổi trẻ thật thà, về nhà thì nhận toàn lời dối trá. Lại còn tiếp tục dối mẹ dối cha rằng Hưng là người thành đạt, hiền lương. Tôi không thể là Phan Kim Phượng của Hưng, càng không thể làm nghề giết mướn cho lũ người gian trá.

Võ Bằng vẫn nhìn tôi, kiên nhẫn chờ câu trả lời. Tôi nói:

– “Tôi đang chiêm nghiệm xem có phải đang như Đại úy là gom những rung động của tình đầu để chuyển sang người đưa tôi qua biển lần đầu.”

Không rõ Võ Bằng có nghe trọn vẹn lời tôi không khi anh chàng đột ngột nói to:

– “Hạm Phó nhận quyền chỉ huy.”

Võ Bằng nghiêng người ra ngoài, quan sát qua ống dòm. Có ba thương thuyền chạy ngược chiều và một từ mạn tả theo hướng cắt ngang mũi chiến hạm, đâm thẳng vào ba thương thuyền. Cả bốn đều cùng cỡ và lớn hơn chiến hạm. Theo đúng sách vở, chiến hạm nhỏ nhất phải nhường lối nhưng Võ Bằng vẫn thản nhiên quan sát. Một lúc, khi chiếc thương thuyền cắt ngang mũi đổi hướng chạy cùng chiều, anh chàng mới ban lệnh cho tàu chếch sang phải, nhường đường.

Mắt tôi chợt dán vào tên Mỹ đang ngồi trên một trụ sắt bên mạn hữu. Cặp kiếng đen bất động trước trang sách phơi trọn nắng chiều gay gắt. Tôi bâng khuâng liệu hắn có đang tìm hiểu lý do tôi có mặt trên tàu như hắn nói? Và Thiếu úy An Ninh có đang theo dõi tôi? Nỗi lo lại tràn về.  Tôi tự trấn an là cho tới lúc này tôi chưa thấy ai có cử chỉ hay lời nói bất thường. Bản thân vẫn tự do đi lại, vẫn được ưu ái đối xử. Có tật nên giật mình chăng?

Đến lúc này, tôi thấy rõ rằng việc cho bom nổ hay không, không còn quan trọng nữa. Nơi đặt bom đã chọn, chỉ còn cân nhắc và quyết định. Vấn đề sinh tử từ phút này là tôi sẽ làm gì cho 4 tiếng nữa qua mau và an lành rời tàu. Ngủ chăng? Ngủ là cách tiêu thụ thời gian nhanh nhất. Tôi lại đang buồn ngủ híp mắt. Nhưng nếu ngủ thì đi ngược lý do xin quá giang, hành động hết sức hớ hênh. Chỉ 4 tiếng nữa về nhà mặc sức mà ngủ. Tôi nhướng mắt nhìn bầu trời xanh. Màu xanh là màu hy vọng. Tôi hy vọng gì đây? Liệu còn hy vọng sẽ được khen thưởng và được thành hôn với Hưng sau khi bom nổ?

Phía xa bên mạn hữu lờ mờ một tháp trắng trên đỉnh núi. Tôi hỏi:

– “Cái tháp trắng kia là tháp gì, Đại úy?”
– “Cái tháp đó mà cô không biết thì hẳn cô chưa biết Vũng Tàu?”
– “Có định đi vài lần nhưng đều lỡ dịp!”
– “Đó là hải đăng Vũng Tàu do Pháp xây dựng từ giữa thế kỷ 19.”
– “Nhờ đi chuyến này, tôi biết được bốn ngọn hải đăng là Phương Mai, Cù Lao Xanh, Kê Gà, Vũng Tàu. Thực sự Việt Nam có bao nhiêu hải đăng và tất cả đều do Pháp xây dựng?”
– “Miền Bắc có bao giờ đến đâu mà biết. Riêng ở miền Nam thì chỉ nhớ các hải đăng tôi đã có dịp ‘nhờ cậy’ là 4 hải đăng cô vừa nêu, hải đăng Sơn Trà ở Đà Nẵng, Pattle ở Hoàng Sa, Hòn Lớn Nha Trang, Cù Lao Ré Quảng Ngãi, Đại Lãnh Phú Yên, Bảy Cạnh Côn Sơn; Hòn Khoai Cà Mau… Tất cả đều do Pháp xây dựng.”
– “Đại úy nói ‘nhờ cậy’ là ý gì?”
– “Ý của tôi liên quan đến mục đích thiết kế hải đăng: giúp tàu bè định hướng, đánh dấu bờ biển, bãi cạn, dẫn lối an toàn vào hải cảng.”
– “Tôi thấy Hạm Trưởng và Đại úy nhớ bao nhiêu thứ thậm chí cả chi tiết. Thật đáng phục!”
– “Nếu còn dịp gặp lại cô, còn nhiều chuyện… đáng phục hơn nữa. Cô mới nghe sự tích của vài đảo. Còn bao nhiêu chuyện về các quần đảo, như Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Du, Thổ Chu, Ba Lụa, Hải Tặc. Mỗi quần đảo có sự tích riêng, câu chuyện thú vị riêng…”
– “Nghe hấp dẫn quá, tôi rất hy vọng có dịp nghe…”
– “Tạm thời nghe chuyện khó tin nhưng có thật. Cô có tin là trên đỉnh núi của hải đăng Vũng Tàu có một đơn vị Hải Quân hoạt động?”
– “Hải Quân hoạt động trên núi?”
– “Lạ quá phải hôn? Không chỉ trên một núi mà khá nhiều, có đến cả chục. Như có một toán trên núi Trà Cú tàu vừa đi qua, một trên núi Chóp Chài ở Tuy Hòa, một trên núi Sơn Trà ở Đà Nẵng…”
– “Hải Quân hoạt động gì trên núi?”
– “Bí mật quân sự. Tôi chỉ có thể nói tên các đơn vị này: Toán kiểm báo!”
– “Kiểm báo gì trên núi?”
– “Đại khái có nhiệm vụ như toán thám báo của Bộ Binh nhưng phương thức hoạt động khác biệt. Do hoạt động mang hiện tượng bất thường mà các toán này bị trêu chọc. Thực tế Hải Quân có hai Bộ Tư Lệnh Đặc nhiệm. Một là Bộ Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Sông đảm trách hành quân trong sông và một là Bộ Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Biển, đảm trách ngoài biển. Chúng tôi bịa ra một Bộ Tư Lệnh đặc nhiệm thứ ba trách nhiệm giám sát hoạt động của các toán kiểm báo này: Bộ Tư Lệnh Hải Quân/Hành Quân Núi.”

Tôi bụm miệng cười. Cái anh chàng Võ Bằng này đáo để thật! Nhưng nghĩ cho cùng bị trêu ghẹo cũng phải thôi: Hải Quân mà hoạt động trên núi!

– “Nhân nói đến các Bộ Tư Lệnh, tại Vũng Tàu có một Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng, phối hợp hoạt động với Quân Đoàn 3 Quân Khu 3. Có thể nói đây là Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng mạnh nhất trong năm Bộ Tư Lệnh Vùng. Khu vực trách nhiệm rộng lớn, không chỉ gồm duyên hải, sông ngòi thuộc Quân Khu 3 và còn ôm đồm cả chín cửa sông Cửu Long thuộc Quân Khu 4.”

Tiếng còi đổi phiên vang lên. Đồng hồ chỉ đúng 15:45. Võ Bằng nói lớn:

– “Thiếu úy Ấn xác định vị trí chiến hạm, chuẩn bị bàn giao.”

Ấn ‘đáp nhận’ rồi loay hoay đo đạc. Võ Bằng quay sang tôi:

– “Lát nữa, bàn giao xong, chúng ta xuống sân mũi xem một thương thuyền đồ sộ bị phi pháo từ thời đệ nhị thế chiến, đến nay trên 20 năm vẫn còn phơi xác. Rồi nhân đó tôi sẽ nói về hải tiêu. Biết về hải đăng thì cũng nên biết về hải tiêu.”

Tôi hết muốn biết gì thêm. Điều tôi đang muốn nhất là rời khỏi tàu. Tôi hỏi:

– “Còn bao lâu nữa tới Sài Gòn, Đại úy?”
– “Bốn tiếng, nếu không có gì trở ngại.”

Lại ‘nếu không có gì trở ngại’! Tôi thầm khấn nguyện: ‘Lạy Trời, xin đừng có gì trở ngại!’

(còn tiếp)


(1). Chưa bao giờ tôi thấy bầu trời sâu thẳm và các vì sao rực rỡ đến thế. 

(2). Nếu có bao giờ thức ngoài trời một đêm đầy sao, bạn mới biết rằng trong lúc chúng ta ngủ, một thế giới huyền bí thức dậy trong cô đơn và tĩnh mịch. (Bản dịch của Hà Kỳ Lam)

(3). Đẹp quá. Chưa bao giờ tôi thấy nhiều như thế. Đại úy có biết tên tất cả các ngôi sao kia không?

(4). Thưa cô, biết chứ. Cô hãy nhìn kia! Ngay trên đầu chúng ta là con đường Thánh Jacques (dải Ngân Hà)

 

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2024