SỐ 108 - THÁNG 10 NĂM 2025

 

CHIẾC MẶT NẠ RÁCH

Đào Ngọc Phong

PHẦN I
NĂM 2000

Nàng mở mắt, ánh sáng trắng dịu trong căn phòng nhỏ làm nàng thấy mình đang nằm trên gường bệnh giăng đầy dây truyền nước biển, dây đo mạch tim, màn hình hiện ra những biểu đồ xanh đỏ...

Tâm trí nàng dần dẩn tỉnh táo. Ô... mình lại là bệnh nhân ư? Nàng vốn là y tá chuyên nghiệp, mấy chục năm từng săn sóc bao nhiêu người bệnh nằm trên giường như vầy. Nàng mỉm cười, đời thật trớ-trêu, nhìn màn hình biểu đồ thấy dấu hiệu tốt.

Sao thế nhỉ, sao mình lại nằm đây? Cố nhớ lại xem Trên tờ lịch hôm nay là thứ tư; đúng rồi, cách đây ba ngày, vào trưa chủ nhật, ông ấy mời mình đến nhà riêng dùng cơm trưa nhân có con trai từ Đức về thăm bố; nhà chỉ có hai bố con mà rộng thênh-thang tới bốn phòng ngủ trong khu gần biển. Trên thiệp mời, ông ấy viết muốn tỏ lòng biết ơn mình đã chăm sóc ông gần một tháng sau khi ông bị tai nạn xe hơi, không có thương tích về thân thể nhưng bị chấn động thần kinh khiến cho hôn mê gần hai tuần lễ.

Cửa phòng chợt mở, một cô y tá người Mỹ trẻ đẹp nhẹ-nhàng bước vào, mình nhanh nhẩu chào cô buổi trưa. Cô cười tươi như hoa: “A, cô tỉnh rồi hả, sáng nay bác sĩ đã thăm bệnh cô, nói tình trạng cô tốt lắm, nhịp tim bình thường” “Xin lỗi cô, bác sĩ chẩn bệnh tôi thế nào?” “ Tim của cô bẩm sinh là yếu, lượng hồng cầu hơi thấp, có thể do di truyền, một cảm xúc mạnh dễ làm cô bất tỉnh, gia đình có ai bệnh tim không?”. “Mẹ tôi mất vì bệnh tim lúc mới bốn mươi lăm tuổi”. “Ô, xin chia sẻ nỗi đau khổ của cô, nếu thế, cô cần thận trọng tránh mọi việc nặng, mọi xúc động mạnh. Theo lời kể của Mr. Tran, người đưa cô tới đây ba ngày trước, thì cô ngất xỉu tại nhà ông ta hết sức bất ngờ, vì cô là y tá từ hồi còn ở Viêt Nam đến Mỹ hơn năm năm rồi và đang làm việc trong một bệnh viện lớn, khỏe mạnh bình thường. Ông ấy nói chính cô đã tận tụy chăm sóc ông ấy gần một tháng trời. Thôi trưa rồi, mời cô dùng cơm, có gì cứ bấm chuông gọi”.

Nàng thấy đói, ăn ngon miệng, mừng là không có gì trầm trọng; nàng muốn bước xuống giường đi dạo quanh phòng, nhưng cẩn trọng ngồi dựa lưng trên gối theo dõi thân thể. Ồ, hóa ra là ông ấy, Mr. Theodore Phuong Tran, con bệnh mà chính nàng đã chăm sóc từ lúc ông ấy được xe cứu thương chở tới còn hôn mê. Theo phòng hành chánh, nghiên cứu bằng lái xe và những thẻ tín dụng cùng giấy tờ trong xe, người ta đã xác minh được nghề nghiệp, tình trạng gia đình, và địa chỉ của ông ấy. Mr Tran là đại diện thương mại cho một hãng lớn chế tạo dụng cụ y khoa, lương cao, sống độc thân, quanh năm đi khắp nơi chào hàng. Trí nhớ của nàng dần dần sáng tỏ; nàng nhớ ông ấy sinh năm 1940 tại Sài Gòn, tức là hơn nàng mười tuổi. Khi tỉnh dậy sau hai tuần hôn mê, ông ấy kể sơ về cuộc đời ông; từng tốt nghiệp cử nhân ban Anh ngữ Đại Học Văn Khoa Sài gòn, động viên vào trường Bộ Binh Thủ Đức, làm sĩ quan liên lạc với các lực lượng đồng minh, qua Mỹ khoảng giữa tháng Tư 1975; vì khả năng Anh ngữ giỏi, ông ấy học lấy bằng MBA tương đối nhanh, tìm được nghề thích hợp, đời sống khá giả.

Nàng nghĩ, vậy là ông ấy bằng tuổi với anh họ, con ông bác của mình, anh cả Dương Hải Vinh cũng sinh năm 1940 tại Hà Nội. Mình có thể gọi Mr Tran là anh được chứ. Mình qua đây tứ cố vô thân, mấy năm nay sống cu-ki trong căn hộ một phòng, nếu kết giao với Mr. Tran thì hẳn sẽ vui hơn. Dĩ vãng như một cuốn phim diễn ra trước mắt.

Năm nay nàng năm mươi, không lẽ mình cũng yểu mệnh như mẹ? Mẹ mất năm 1970 ở Việt Nam thành phố Biên Hòa sau một năm liệt giường; một năm mình vừa đi làm vừa săn sóc mẹ. Mặc dù tốt nghiệp y tá năm 1969 theo ước mơ của mình từ nhỏ, rồi được tuyển vào làm trong căn cứ Long Bình với lương tương đối cao, nhưng tay nghề và tiền bạc đã không giữ được mẹ thoát bàn tay tử thần.

Mẹ nàng giỏi tiếng Anh sinh sống bằng nghề dạy Anh ngữ tại nhiều trường trong thành phố Biên Hòa, từ khi đại gia đinh ông nội di cư từ Hà Nội vào Nam đầu năm 1954. Khi ấy nàng mới bốn tuổi, đã được mẹ dạy tiếng Anh cho đến khi lên học trung học Ngô Quyền thì nàng luôn luôn đứng nhất về môn này. Tủ sách của mẹ có bao nhiêu truyện bằng tiếng Anh của những tác giả nổi tiếng thế giới, nàng say mê đọc, nhưng cuốn tiểu thuyết mà nàng đọc đi đọc lại nhiều lần là “CUỐN THEO CHIỀU GIÓ” (Gone With The Wind) của tác giả nữ người Mỹ Margaret Michell, bối cảnh là cuộc nội chiến Nam Bắc của nước Mỹ từ 1861 đến 1865.

Nàng hay tự so sánh mình với những nhân vật nữ trong truyện, không biết mình giống Scarlett hay Melanie? Nàng thấy mình có cái tính cả quyết làm cho bằng được điều gì mình muốn như Scarlett nhưng chắc chắn nàng không thể “thiếu đạo đức” đi cướp chồng của người này người nọ. Nàng thích Melanie hơn, dịu dàng, nhân hậu, tâm hồn trong sáng nhưng không kém phần dũng cảm khi giúp Scarlett tiêu diệt tên Yankee, lính miền Bắc lẻn vào nông trại tính ăn cướp.

Khi nàng lên lớp mười, sức khỏe mẹ nàng có dấu hiệu suy giảm; bà phải bớt giờ dạy học; nàng thấy mình phải gánh vác gia đình, phải lo kiếm tiền, lo săn sóc mẹ, vì bố nàng viết báo, dạy vài giờ văn không đủ tiền trang trải mọi việc. Tuổi mười sáu trăng tròn, thiếu nữ mộng mơ chàng này chàng nọ, nhưng trong đám bạn học, nàng không thấy anh chàng nào xứng. Nàng đâu có tự cao, nhưng trong thâm tâm nàng chưa tìm được một chàng hợp ý. Nhân vật Ashley chồng của Melanie chưa hẳn là người nàng mơ; nhân vật Rhett Butler lại càng làm cho nàng chán ghét, đúng là cái hạng người đi hàng hai, nhởn- nhơ làm giàu nhờ chiến tranh. Người thanh niên trong mộng của nàng lại chính là anh họ nàng, anh Dương Hài Vĩ, con thứ hai của ông bác. Anh có cái dáng trí thức nghệ sĩ của tài tử David Niven mà nàng hâm mộ. Anh sinh năm 1942 hơn nàng tám tuổi, đã đậu cử nhân Sử Địa lại có đai đen nhu đạo; nhiều khi nàng ngồi cả giờ say mê nghe anh nói về sử mà cảm phục anh vô cùng. Đối với nàng, lúc nào anh cũng tỏ ra ân cần thăm hỏi sức khỏe thím hai; chả bù với anh cà mặt lúc nào cũng lạnh, hay với chị Bích Thảo, con gái út của bác, gặp mình là khoe bố mới đi châu Âu về mua cho chị cái khăn quàng này, cái đông hồ này....Ông bác làm lớn trong bộ ngoại giao, còn bác gái vốn con nhà giàu Hà Nội có cửa hàng vải vóc trên phố Hàng Đào. Đúng là nhà bác vừa giàu vừa sang; còn gia đình mình khiêm tốn với đồng lương giáo chức nên mẹ thuờng khuyên mình nhẫn nhục yên phận. Nhưng mình không muốn yên phận, mình phải vươn lên.

Nàng quyết định bỏ học, thi vào trường y tá mục đích chính là có nghề y để tự mình săn sóc mẹ và đông thời kiếm tiền nhanh. Nàng chỉ báo cho bố biết khi mọi thủ tục đã xong. Bố thì chỉ mong nàng học lên làm dược sĩ hay bác sĩ, nhưng thực tế ông cũng thấy không thể nào nuôi nàng cả chục năm nữa.

Bố kể ông nội giỏi lắm, từ năm 1935 đã mở cửa hàng nhập cảng xe đạp và phụ tùng xe đạp ở Hà Nội. Mới đầu cửa hàng chỉ là một căn nhà gỗ nhỏ, dần dần ông cụ xây nhà lầu ba tầng. Ông nội kiếm nhiều tiền mà lòng rộng nên giúp đỡ họ hàng nghèo, nhà luôn có khách đông ra vào. Trong những năm này nhiều phong trào chống Pháp, chống Nhật dủ mọi khuynh hướng dậy lên khắp nuóc; những khách ra vào không chỉ là họ hàng nghèo dưới quê mà còn là những chiến sĩ cách mạng bí mật đến lấy tiền quyên góp rồi biến nhanh.

Ông nội có ba con trai, bác cả Hải Phi sinh năm 1920, bố nàng là Hải Thư sinh năm 1924, chú ba Hải Thức sinh năm 1925. Khi quân Nhật bại trận năm 1945, Pháp trở lại Việt Nam cuối năm 1946 và cuộc chiến tranh Việt Pháp bắt đầu thì thanh niên Hà Thành với nhiều khuynh huớng tư tuỏng chính trị khác nhau ra khu kháng chiến, trong số đó có chú ba Hải Thức. Bác cả Hải Phi hoc luật, sau năm 1947 làm trong bộ ngoại giao của chính phủ Quốc gia Việt Nam; còn bố nàng, Hải Thư học ngành văn, mê viết báo và dậy học tư trong nhiều trường tư ở Hà Nội cho đến cuối năm 1953. Ông nội thường kể ông cố đã từng là lính của cụ Nguyễn Thiện Thuật trong chiến khu Bãi Sậy ở Hưng Yên chống Pháp những năm 1883 đến 1889.

Từ năm 1953 trở đi, tình hình chiến tranh Việt Minh và Pháp càng ngày càng căng thẳng. Ông nội và hai con trai Hải Phi, Hải Thư bàn luận hàng ngày về cuộc Cải Cách Ruộng Đất do cố vấn Cộng Sản Trung Hoa chỉ đạo đang diễn ra trong vùng Viêt Minh kiểm soát; nhât là khi biêt tin bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm bị xử bắn vào tháng 7 năm 1953 vì bị kêt tội là địa chủ mặc dầu bà góp nhiều công của cho Việt Minh, thi gia đình quyết định vào Nam lập nghiệp mới.

Gia đình bác cả sẽ vào Sài Gòn mở tiệm bán vải do bác gái lo, bác trai bận công vụ sẽ vào sau; ông bà nội cùng gia đình Hải Thư vào Biên Hòa, vì ông nội bỏ kinh doanh xe đạp, mua một mẫu vườn trái cây về hưu dưỡng già; còn căn nhà ba tầng ỏ Hà Nội ông nội bí mật sang tên cho một bà em họ ở dưới quê lên trông coi. Đầu năm 1954, gia đình lặng-lẽ rời Hà Nội bằng máy bay, hàng xóm không ai hay.

Bố nói ông nội nhìn xa trông rộng, quyết định sáng suốt, vì chỉ vài thàng sau, tháng ba 1954 trận chiến Điên Biên Phủ mở màn với sự yếu thế của quân Pháp. Bên phía Viêt Minh thì được sự yểm trợ tối đa của Trung Cộng; báo chí hàng ngày tràn ngập tin chiến sự nóng bỏng, rồi Pháp thất trận, rồi Hiệp Định Geneve kết thúc với sự chia đôi đất nước.. Bác trai Hải Phi theo chính phủ Quốc Gia vào Nam, vẫn làm ở Bộ Ngoại Giao; bác nói Hà Nội bị tiếp thu không phải do chính quyền Việt Minh của thời 1945 mà là do chính quyền thuộc hệ thống cộng sản quốc tế, vì những thành phần không theo đảng đã bị thanh trừng hết trong chiến dịch cải cách ruộng đất.

Gia đình đoàn tụ, nhưng nhận một tin buồn, chú ba Hải Thức chết trong tù vì phạm lỗi lầm lớn là đã dám phê bình các cố vấn Trung Cộng trong việc thi hành Cải Cách Ruộng Đất một cách vô nhân đạo và phi khoa học, mặc dù sau chín năm kháng chiến chú đã lên tới chức trung đoàn trưởng.

Năm 1965, khi nàng học lớp chín thi ông bà nội theo nhau qua đời, để lại di chúc bán vườn trái cây chia cho bốn cháu nội Hải Vinh, Hải Vĩ, Bích Thảo, Thủy Tiên làm vốn sau này lập gia đình. Mẹ nàng thích hoa thủy tiên nên đặt tên nàng là Dương Thủy Tiên, khi qua Mỹ nàng lấy tên Mỹ Ísabella TT Duong. Năm 1966 nàng bỏ học, thi đậu vào trường y tá; tâm trí trưởng thành nhận định tình hình chiến tranh không còn là những tin mìn nổ ở những làng mạc đồn bót xa xôi, mà đang đe dọa đời sống an lành nơi thành thị. Những trận pháo kich từ bìa rừng vào thành phố làm chết nhiều người hàng xóm, nhất là trận tấn công của biệt động cộng sản vào căn cứ quân đội Mỹ, vào sân bay Biên Hòa làm nàng liên tưởng đến cuộc nội chiến trong tiểu thuyết Cuốn Theo Chiều Gió, có khác chăng là chưa có những cuộc đại tấn công khiến dân phải chạy loạn, nhưng lúc nào cũng nơm-nớp lo một quả đạn rơi trúng nhà mình.

Nhân giỗ đầu ông nội, bác cả mời gia đình nàng lên Sài Gòn ăn giỗ nhân thể bàn vài chuyện quan trọng của gia đình.Nàng không ngờ buổi giỗ hôm ấy lại là ngày bộc lộ ra những mâu thuẫn trong gia đình về cuộc nội chiến.

Anh lớn Hải Vinh đã đậu cử nhân hóa học, đang làm thủ tục sang Pháp học lên cao hơn; anh hai Hải Vĩ mới đậu xong cử nhân ban Sử Địa đang tính xin đi dạy học; chị Bích Thảo mới vào năm thứ nhất Dược khoa.

Bác cả nói: “Như các cô chú và các con các cháu đã biết, hơn một năm nay, sau vụ tàu Maddox ở Vịnh Bắc Bộ, thì tháng ba 1965 quân Mỹ đã đổ bộ vào Đà Nẵng chính thức tham chiến, khiến cho Nga Tàu tăng cường viện trợ súng đạn lương thực cho quân Bắc Việt, chiến tranh sẽ càng ngày càng ác liệt; chính phủ và quân đội quốc gia chúng ta còn rất yếu nhưng vẫn dũng cảm bảo vệ chính nghĩa quốc gia dân tộc từ những năm 1950 đến nay. Trong tình hình này, chúng ta phải nhìn xa trông rộng như ông nội ngày trước mà tính. Ý kiến chú Hải Thư thế nào?”

“Thưa hai bác, ngay từ hồi còn ở Hà Nội em dã viết nhiều bài nhận định cách mạng quốc tế vô sản không phù hợp với văn hóa và lịch sử Việt Nam. Còn hiện nay cách mà người Mỹ tham chiến trực tiếp khó có kết quả tốt. Dân mình đã kiệt quệ sau chín năm chống Pháp, chưa kịp hối sinh bây giờ lại là chiến trường của hai khối tư bản cộng sản, em thấy nếu có điều kiện thì mình cũng phải tính xa như ông cụ ngày trước”.

Anh lớn Hải Vinh nói: “Chú hai phân tích có lý; nhưng cháu không bàn lý thuyết trừu tượng, cái nhìn của cháu thực tiễn lắm. Rõ ràng súng đạn quân trang quân dụng của miền Bắc đến từ Nga Tầu, của quân đội ta thì đến từ Mỹ; nền kinh tế của ba đại cường đó giàu lên nhờ gây ra chiến tranh khu vực, quê hương mình tan hoang vì bom đạn ngoại bang, còn ba nước đó ngồi rung đùi hưởng lợi. . Cháu không dại gì cầm súng cúa ngoại bang bắn anh em mình, cháu sẽ đi nước ngoài học làm kinh doanh sẽ có lợi cho nước nhà sau này hơn”

Anh hai Hải Vĩ tiếp lời: “Em cũng không thích lý thuyết không tưởng, em chỉ nhìn vào thực tế lịch sử để minh chứng lý thuyết đúng sai. Không cần nêu những tội ác chống nhân loại ở Liên Xô, Trung cộng, chỉ cần nhìn vào hai vụ Cải Cách Ruộng Đất và Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc từ 1953 đến 1957 mới đây cũng thấy ngay họ tiêu diệt nền đạo lý truyền thống, tiêu diệt nhân tài dân tộc, triệt .hạ mọi nguồn sáng tạo. Họ chỉ đeo mặt nạ ái quốc, chứ bản chất thật sự của họ là quốc tế cộng sản.Nếu miền Nam rơi vào tay cộng sản thì rồi dân chúng cũng sẽ chịu mọi áp bức có khi còn khủng khiếp hơn thời thực dân.

Quân đội quốc gia tuy còn yếu nhưng bao người lính đáng thương đã chết ngoài bìa rửng để cho người thành thị sống an lành, đi học đỗ bằng này bằng nọ, làm giàu,có tiền đi ngoại quốc ...Nhiều bạn học của em đã nằm xuống nơi rừng sâu vào tuổi thanh xuân; họ chết vì ai?họ chết vì chính nghĩa dân tộc của chế độ miền Nam. Cháu không dám phê bình chú hai, nhưng cháu thấy thái độ ghét cả hai bên nhưng thụ động không làm gì, chỉ bất mãn suông trên chữ nghĩa viễn -vông như mấy ông trí thức khoa bảng phương Tây, thì cháu gọi mấy ông đó là những trí thức sa-lông thất bại. Lớp trẻ bọn cháu cần có hành động cụ thể, cháu cũng sẽ vào quân ngũ nay mai”

Bác gái và Bich Thảo cùng kêu lên đầy vẻ sợ hãi. Bác gái run-run lắp-bắp: “Ông coi kìa, cái thằng ngu dại bồng-bột, bố mày đang làm hồ sơ cho mày đi du học mà lại muốn đâm đầu vào cõi chết, mày không coi cái gương chú ba đó, đi chiến đấu cho chúng nó hưởng rồi chúng nó giết trong tù; con ơi, con đừng lý tưởng hão”.

Bác trai trầm tĩnh nói: “Bố mẹ nào cũng mong đem lại hạnh phúc cho con cái; trong khả năng của bố mẹ hiện giờ, có thể lo cho con du học. Nhưng con đã lớn khôn, tốt nghiệp đại học, con tự trách nhiệm đời mình. Chúng ta là công dân của chế độ Việt Nam Cộng Hòa thì phải theo pháp lý chung, lại hợp với đạo lý làm người; nếu cả thế hệ trẻ cần vào quân ngũ thì tất nhiên việc con nhập ngũ là hợp đạo nghĩa; cũng như việc chú ba Hải Thức xưa kia ra khu kháng chiến, ông nội có cản đâu vì lúc đó là hợp với đạo nghĩa; chỉ sau này chiếc mặt nạ yêu nước của họ rớt xuống lộ ra bộ mặt cộng sản quỗc tế , thì đã muộn. Thôi thì mỗi người có phận riêng.

Bố không là quân nhân nhưng bố chiến đấu trên mặt trận chính trị, cố gắng theo khả năng của mình về mặt ngoại giao quảng bá chính nghĩa của mình trên toàn thế giới.Bố luôn theo gương ông nội, tỉnh táo nhìn xa. Các con có biết ông nội đã bỏ căn nhà lầu ba tầng ở Hà Nội năm 1954, tình trạng nó bây giờ thế nào không? Khi họ tiếp thu thủ đô vào tháng 10 -1954, họ chỉ chú trọng tuyên truyền chính trị mà không có một chính sách gia cư an sinh xã hội toàn bộ ; cán bộ cấp lớn thì chiếm những villa rộng lớn, còn bao nhiêu gia đình cán bộ từ rừng về sống khổ cực chen chúc trong những căn nhà bỏ trống. Căn nhà của ông nội dù được đứng tên chủ nhà là bà dì, nhưng bà bị đuổi xuống góc vườn, còn cả tòa nhà chia cho cả chục gia đình cán bộ. Nếu ông nội ở lại thì sẽ bị kết án là tư sản mại bản, bị lấy hết của cải nhà cửa, còn có thể bị tù đầy

Hôm nay bố muốn cho chú hai và các con cháu biết bố mẹ đã lo xa mua sẵn nhà bên Pháp, phòng khi bất ngờ gia đình có chỗ nương náu; ấy là bố noi gương ông nội lo cho toàn gia đình.

Còn theo di chúc ông nội để lại, bố muốn bàn với chú thím hai là mình nên tiến hành bán mẫu vườn ơ Biên Hòa để chia cho bốn đứa cháu. Chú thím nghĩ sao?

Thủy Tiên ngồi nghe người lớn nói chuyện, nàng hiểu hết, nhưng không dám và cũng không biết nói gì. Nàng chi cảm thấy thái độ sống của bố nàng và anh trai lớn hình như không phù hợp lắm; tư tưởng của bác cả và anh Hải Vĩ làm nàng phục hơn, có lẽ hợp với tính tình nàng. Còn bác gái và chị Bích Thảo lo -lắng, cũng là phụ nữ thường tình; nàng thấy mình không sợ gì việc anh Hải Vĩ nhập ngũ; nàng nghĩ nếu mình tốt nghiệp y tá, mình dám xin vào ban quân y; nhớ cảnh trong phim “Cuốn Theo Chiều Gió” bao nhiêu thương binh nằm la liệt rên la mà thiếu y tá săn sóc, nàng đã khóc; nàng ghét Scarlett miễn cưỡng làm công việc y tá. Quả là Scarlett có nhiều tính xấu nàng không chấp nhận được.

Bố nàng nói: “Cám ơn hai bác đã cho em góp ý; em thấy hai bác chu đáo lắm rồi, về việc mẫu vườn thì bác gái giỏi kinh doanh xin bác tiến hành rao bán; cháu Thủy Tiên có chút vốn về sau chúng em cũng đỡ lo”.

Nàng thấy mắt mình rớm lệ, cháu xin cám ơn ông bà nội.

***

Nàng học trường y tá được một năm, 1967 thì anh hai Hải Vĩ có lệnh gọi tập thể nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Trong chín tháng quân trường, nàng lên thăm anh nhiều lần, luôn bày tỏ lòng khâm phục anh và khích lệ anh; anh vốn là tay nhu đạo nên trông anh càng uy nghi rắn rỏi trong bộ quân phục. Nàng nói: “Lúc nào em cũng coi anh là mẫu người trai lý tưởng của em, khi ra trường em sẽ xin vào ban quân y”. “Anh vẫn thấy em là người con gái có nghị lực, khác với Bich Thảo, cô này chỉ thích ăn diện hời-hợt lắm”.

Chiến tranh càng lúc càng hiện rõ quanh người dân thành phố, khi trong ba năm liền có ba cuộc tấn công của cộng quân vào sân bay Biên Hòa, vào căn cứ Long Bình, nhất là cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Nàng càng thấy rõ nếu không có những thanh niên như anh Hải Vĩ xả thân ngoài trận địa thì làm sao người dân an ổn làm ăn, riêng nàng vẫn được đi học.

Khi nàng sắp ra trường vào năm 1969, mẹ nàng nói: “Mẹ tự cảm thấy sức khỏe càng ngày càng suy giảm, con phải ở gần mẹ nhiều. Mẹ có quen thân với một bà Mỹ làm trong ban văn hóa tại Sứ Quán Mỹ, bà ta hứa sẽ giúp bảo lãnh cho con vào làm y tá trong căn cứ Long Bình, như vậy con dễ săn sóc mẹ, , lương bổng cao phụ cho bố con về tài chánh”.

Nghe mẹ nói, nàng cảm thấy như mẹ nói lời trăng- trối, nàng ôm mẹ khóc ròng. Cũng may mình quyết định bỏ học sớm nên bây giờ mới kiếm đuọc tiền nuôi gia đình.

Ban quân y trong căn cứ Long Bình là một đơn vị y tế dã chiến có nhiệm vụ nhận thương binh từ chiến trường, chữa trị sơ cấp một thời gian ngắn rồi chuyển lên những bệnh viện chuyên khoa; nàng phải qua một lớp huấn luyện về cấp cứu trong mấy tháng. Nàng giỏi Anh ngữ, yêu nghề tận tụy làm việc nên được ban giám đốc rất chú ý. Chính trong thời gian học tập này, cuộc đời nàng rẽ vào một khúc quanh định mệnh.

Một trong những giảng viên của khóa học là một bác sĩ Mỹ trẻ mới ra trường ở Mỹ, tên Lucas Williams hai mươi bảy tuổi. Chàng giảng bài rất hay, thường chêm vào kiến thức chuyên môn khô khan những thí dụ văn chương làm nàng nhớ đến những truyện ngắn, những tiểu thuyết Anh Mỹ nàng từng đọc trong tủ sách của mẹ. Có khi chàng quên tên một tác giả của một tiểu thuyết thì nàng nhắc khiến cả lớp ngạc nhiên. Chính chàng cũng ngạc nhiên hỏi giữa lớp làm sao nàng giỏi thế. Trong những giờ giải lao chàng tìm đến nàng hỏi han và rất thích thú khi cùng nàng bàn về văn chương, nhất là tiểu thuyết Cuốn Theo Chiều Gió. Nàng gần như thuộc lòng những nhân vật và những tình tiết câu chuyện khiến Lucas thán phục. Có lần chàng hỏi: “ Cô Dương thích và không thích nhân vật nào” “ Nhân vật nam thì tôi ghét anh chàng Rhett Butler vì anh ta ích kỷ sống nhởn-nhơ làm giàu trong khi bao thanh niên lao vào chiến trận, rồi khi miền Bắc thắng trận thì anh ta theo đuôi; nhân vật nữ thì tôi yêu mến Melanie vì nàng nhân hậu dịu dàng tâm hồn trong sáng nhưng không kém phần dũng cảm”. “ Thế cô không thích Ashley à? “ “Anh ta chẳng có gì độc đáo” “ Ồ tiêu chuẩn người nam để cô chọn lựa vậy là cao, đã có chàng nào là mẫu của cô không?”

Nàng nghĩ tới anh Hải Vĩ, giờ này anh đang công tác ở sư đoàn 7 Mỹ Tho, không biết anh ấy có gặp nguy hiểm gì trong những cuộc hành quân; nàng mơ hồ thấy Lucas có vài điểm giống anh.

Khi nghe mẹ nàng có bệnh tim, Lucas xin phép đến nhà thăm bệnh; nàng e ngại không dám mời, vì biết bố đã viết nhiều bài báo phê phán sự tham chiến của nước Mỹ mặc dù ông cũng chống cộng sản. Hơn nữa, nàng còn sợ hàng xóm láng giềng dị nghị. Văn hóa truyền thống Việt Nam vẫn có thành kiến xấu về những phụ nữ “lấy Tây” suốt từ thời Pháp thuộc.

Sau nhiều lần bị từ chối, Lucas gặng hỏi, nàng đành nói rõ sự thực. Một tuần sau Lucas mời nàng ăn trưa tại căn-tin trong căn cứ Long Bình nói: “Tôi xin lỗi cô Dương vì tôi học chuyên ngành y nên ít để ý đến môn lịch sử. Tuần qua tôi đã vào thư viện vùi đầu đọc về văn hóa lịch sử Viêt Nam, tôi đã hiểu thái độ trí thức của bác trai và truyền thống đạo đức của dân tộc Việt. Tôi là con một trong gia đình bố là bác sĩ mẹ là công chức, đáng lẽ tôi không phải vào quân đội, nhưng bạn học của tôi cùng lứa tuổi đã sang Việt Nam người thì bị thuơng tật, người thì mất tich, người thì chết, tôi thấy xấu hổ với chính mình; bao nhiêu thương binh cần được nhiều y sĩ chăm sóc ngay trên chiến truòng thì hy vọng thoát chết. Vì thế tôi tình nguyện vào ban quân y mặc dù mẹ tôi khóc lóc. Tôi chỉ nghĩ đến khía cạnh y khoa mà không nghĩ đến khía cạnh đạo lý của cuộc chiến. Tôi đã suy nghĩ thấy rõ nước Mỹ lẽ ra chỉ nên hết sức giúp quân đội VNCH bằng các cố vấn và vũ khí thôi; còn đem quân tham chiến là một sai lầm, vửa làm mất lòng cả dân Mỹ lẫn dân Việt, vừa khiến cho phía cộng sản có cớ tuyên truyền Mỹ xâm lược để nêu cao chính nghĩa giải phóng”

Từ hôm đó, nét mặt Lucas có vẻ trầm tư buồn-buồn, ít nói hơn; nàng cảm thấy dường như trong tâm anh có một cảm thức phạm tội, một tâm hồn trong sạch bị vấy nhơ; nàng có cảm tưởng Lucas là biểu tượng của lương tâm Mỹ, không giống nhiều người Mỹ khác kiêu ngạo về kỹ thuật và đô-la, có thái độ khinh-khỉnh người Việt.

Một tháng sau lúc nàng đang hỏi han một bệnh nhân thì anh chợt đến đưa nàng coi một tờ giấy giống như một sự vụ lệnh. Nàng chóang váng khi biết anh được thuyên chuyển ra ban quân y dã chiến tại Nha Trang. Tim nàng bỗng nhói lên lả người xuống, chỉ mơ hồ thấy mình đang nằm trong vòng tay anh. Khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên giường bệnh, Lucas ngồi cạnh giường nắm tay nàng, nét mặt lo-lắng. Nàng thì-thầm: “Anh đừng đi, đừng bỏ em”. Nét mặt Lucas rạng-rỡ: “Em yêu, anh sẽ không sao, anh sẽ về thăm em hàng tháng”.

Chàng săn-sóc nàng suốt một tuần lễ cho đến khi nàng bình phục, rồi chàng lên đường ra Nha Trang. Mẹ nàng yếu dần rồi qua đời đầu năm 1970. Hằng tuần chàng gọi về an ủi nàng, ngỏ lời muốn làm lễ hứa hôn chờ năm sau làm lễ cưới.

Mất mẹ, được tình yêu, nhưng làm sao đây? Bố nàng chắc chắn không chấp nhận cuộc hôn nhân này. Từ ngày mẹ ra đi, ông càng trở nên u-uất, dạy học về là giam mình trong thư phòng vùi đầu vào những cuốn sách dầy cộm. Tủ sách của bố chất đầy những bộ sách triết học và văn học với những tên tác giả Anh Pháp xa lạ. Nàng phải thuê một bác già nấu nướng chăm viêc nhà cho ông, vì nhiều khi nàng phải trực trong bệnh viện ngày đêm.

Nửa năm trăn-trở suy tính, nàng quyết định nhận lời hứa hôn với chàng nhưng không cho ai hay biết; nàng gọi Lucas báo sẽ xin nghỉ phép một tuần ra Nha Trang làm lễ đính hôn; Lucas mừng rỡ. Chàng nói “Anh không là tín đồ công giáo thuần thành, mà gia đình em lại theo đạo thờ ông bà, bác trai thì không thuận, nhưng anh muốn có một nghi thức trang trọng chứng minh tình yêu của anh nên chúng ta sẽ làm lễ tại một nhà thờ, tất nhiên chỉ hai ta biết thôi để tránh những phiền toái. Em vẫn giữ Đạo truyền thống của em”.

Đúng là nàng vượt rào, quyết đoán theo ý mình kiểu Scarlett, nhưng không làm đièu gì trái đạo lý; Lucas còn độc thân, lại ngỏ ý trước, nàng không cướp chồng của ai; chỉ có điều phải nói dối với bố, giấu gia đình bác cả, nhưng nàng tự trách nhiệm về quyết định cho đời mình. Bác trai và hai anh trai có thể thông cảm cho nàng nhưng e rằng bác gái và chị Bích Thảo sẽ khinh miệt nàng, rồi biết đâu rêu-rao xóm làng khiến bố sẽ từ bỏ mình. Nàng nghĩ anh hai Hải Vĩ tâm hồn phóng khoáng sẽ bảo vệ mình.

Sau một năm cư tang mẹ, Lucas và nàng bàn chuyện hôn lễ. Lucas hiểu hoàn cảnh nàng, chấp thuận chỉ có cha xứ và hai vợ chồng làm lễ mà thôi, rồi sau đó mới đãi tiệc ra mắt với toàn thể đơn vị quân y. Nàng sẽ xin thuyên chuyển ra làm việc trong cùng đơn vị với chồng.

Nàng gọi anh Hải Vĩ trình bày hoàn cảnh của mình; quả nhiên anh chúc mừng nàng có tình yêu chân thực với Lucas và hứa sẽ bênh vực nàng. Sau hôn lễ, anh gọi cho chú Hải Thư lựa lời ướm thử. Không ngờ, bố nàng nói trong nước mắt: “ Chú có lỗi với con Thủy Tiên, đã không nuôi nổi con để nó phải bỏ học mưu sinh từ nhỏ, chú rất mừng con gái đã lấy được người chồng xứng đáng’.

Bản thân ông lên trình với hai bác và xin hai bác cùng các anh chị bao dung cho cháu được về lạy bàn thờ tổ. Nhờ anh Hải Vĩ giãi bày trước nên hai bác hài lòng cho phép vợ chồng Lucas về dự bữa cơm gia đình. Bác cả nói: “Giữa cảnh bom đạn tan tác mà có một tình yêu như vậy hai bác rất cảm động, mừng cho chú có con rể xứng đáng”.                                       

****

Từ 1969, bố tôi nói quân Mỹ rút dần thì cộng quân tăng dần; từ 1954 chỉ vài anh du kích bắn sẻ , đến nay đã có cả sư đoàn chứng tỏ chính sách ngăn chặn be bờ bình định của người Mỹ hoàn toàn thất bại làm chêt mấy chục ngàn thanh niên Mỹ vô ích. Nàng hỏi Lucas về nhận định này của bố thì Lucas cho là đúng; anh tỏ ra bi quan muốn đưa vợ về Mỹ vì đến cuối năm 1971 nàng đã có bầu tám tháng rồi. Không kịp, có lệnh ban quân y phải sẵn sàng làm công tác tải thương vì sắp có những trận đánh lớn trên toàn quốc. Quả nhiên đầu năm 1972 nàng sanh con trai được hai tháng thì chiến trận bùng ra lớn trên ba mặt trận Quảng Trị, Kontum, Bình Long.

Lucas đặt tên con trai là Leo Duong Williams với giấy khai sanh ngày 10 tháng 1 năm 1972 tại thành phố Nha Trang, Việt Nam. Lucas nói Leo nghĩa là con sư tử. Nàng âu yếm vuốt ve con trai: “Ô sư tử tí hon của mẹ; con sẽ oai phong hùng dũng như bác Hải Vĩ nhá. Khi con cứng cáp mẹ sẽ đem con về chào ông ngoại và các bác”. Lucas báo tin vui cho cha mẹ ở Mỹ; nàng báo tin vui cho ông ngoại và gia đình bác cả. Nàng vô cùng cảm động khi chị Bích Thảo nói mau mang cháu về cho chị nựng.

Thời gian này, anh lớn Hải Vinh đã đậu tiến sĩ hóa học, làm việc cho một công ty mỹ phẩm, lấy một cô vợ đầm chủ một cửa hàng mỹ phẩm tại Paris; anh Hải Vĩ bị thương ở chân đã được giải ngũ sau bốn năm tác chiến, anh về dạy học trong mấy trường tư thục và dạy nhu đạo; chị Bích Thảo đã đậu bằng dược sĩ và được bác gái cho tiền mở Nhà Thuốc Tây. Về phần bố nàng thì hàng thàng nàng gởi tiền về cho ông đỡ vất vả dạy học.

Hạnh phúc của hai vợ chồng chỉ kéo dài được hai tháng. Khi mặt trận Quảng Trị và Kontum nổ ra vào cuối tháng ba thi đơn vị quân y của Lucas được lệnh di chuyển gần mặt trận; Thủy Tiên được dưỡng bệnh năm tháng. Lucas thuê một căn nhà nhỏ và một bà vú chăm sóc hai mẹ con.

Nằm nhà nuôi con, nàng mới cảm nghiệm nỗi thống khổ của cả triệu bà mẹ, bà vợ ở Mỹ, ở miền Bắc, miền Nam Việt Nam ngày đêm lo âu cho số mệnh của chồng con. Càng nghĩ nàng càng ghét chiến tranh. Bây giờ nàng mới thấy bố nàng có lý, kết án cả hai phía đã nhân danh những ý tưởng mơ hồ mà gây ra bao thảm kịch cho quê hương, chỉ xót -xa mình là tiểu nhược quốc bị nước lớn chèn ép. Nhưng bố nói nước Nhật cũng nhỏ nhưng có “nhược tiểu” đâu?

Anh Hải Vĩ thường giảng về sử cho nàng; nàng nhớ có lần anh nói thà dân mình chết vì chống bọn Tàu xâm lăng bờ cõi từ nhà Tần, Hán, Đường, Ngô, Nguyên, Minh, Thanh thì xứng đáng; chứ còn chết vì những cuộc nội chiến, người mình thù hận giết người mình thì đáng xấu hổ, như giữa hai nhà Lê Mạc, Trịnh Nguyễn, Tây Sơn Nguyễn Ánh; hoặc như cuộc nội chiến hiện tại nếu nhờ vũ khí ngoại bang mà thắng, thì chả có gì đáng vênh -váo tự cao tự đại, tự cho mình là đại diện duy nhất cho cả dân tộc.

Trước khi nàng hết phép nửa tháng, Lucas về gặp hai mẹ con. Chàng nói: “Tình hình rất nguy kịch, cộng sản sẽ đánh lớn để lấy lợi thế trên bàn hội nghị ở Paris; chỉ còn một mình quân đội Việt Nam chiến đấu, lính Mỹ đã rút nhiều, chỉ yểm trợ y tế và phi cơ thả bom thôi. Chúng ta phải đưa con về Sài gòn cho an toàn” “Nhưng rồi em cũng sẽ về đơn vị thì ai săn sóc con?” “ Anh tính rồi, có quen một bà Sơ tên Antoinette ở Tu Viện Saint Paul ,nơi từng nuôi nhiều trẻ em hoặc mồ côi hoặc gia đình khó khăn, mình trả tiền nhiều để họ chăm sóc đặc biệt. Hơn nữa gia đình em cũng dễ đến thăm cháu”.

Nàng an tâm chấp thuận, ôm con về chào ông ngoại và gia đình bác cả. Hầu như ai cũng tỏ ra yêu quí Lucas, còn Leo thì khỏi nói, bác gái và chị Bích Thảo tíu- tít thay nhau bồng bế. Nàng cảm động cám ơn hai bác và các anh chị, nhưng bùi ngùi nói: “Tuần sau chúng con phải trở về đơn vị, còn cháu Leo sẽ gởi cho các Sơ trong Tu Viện St Paul trông coi; nếu anh Hải Vĩ và chị Bích Thảo tiện thì ghé thăm cháu giùm chúng em, chúng em xin đội ơn”.

***

Từ tháng tư trận địa Bình Long đã khốc liệt; nếu không quân Mỹ không yểm trợ tối đa thì An Lộc có thể đã thất thủ rồi; Thủy Tiên nhận được lệnh bổ sung cho ban quân y Bình Long vì thiếu nhiều y tá; thế là hai vợ chồng lại chia tay. Nàng lăn mình vào công tác, trước kia ở Long Bình thì hầu hết là thuơng binh Mỹ, còn bây giờ là thuơng binh Việt. Dù Mỹ hay Việt, đối tượng của y tế chỉ là con người đang quằn quại rên la vì những vết thương kinh khủng. Những chuyến trực thăng tải thương bay đi bay lại

Vào cuối tháng sáu, hình như cộng quân đã yếu dần; nào ngờ chiếc trực thăng nàng đáp để bay về bệnh viện hậu cứ, vừa cất cánh, bỗng một tràng liên thanh nổ chát chúa bên sườn, nó chao đi lảo đảo mấy vòng rồi rơi xuống một bìa rừng; nàng cảm thấy thân minh văng ra đâu đó và ngất đi.

Tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên một chõng tre, chung quanh có cả trăm cái chõng như vậy với những thân hình gầy đét đang rên rỉ; nàng đảo mắt nhìn, vách đá tối mờ mờ. Một giọng phụ nữ miền Bắc cất lên sắc gọn: “Cô tỉnh rồi à, may là cô không bị thương gì, đây là bệnh xá của quân giải phóng”. Nàng giật thót người “Nguy rồi, tính mạng ta tàn rồi, Lucas ơi, Leo con ơi”. “Cô là y tá chuyên nghiệp của quân đội Mỹ; bây giờ cô là tù binh của cách mạng; nước nhà sắp thống nhất, cô không cần đi đâu; cô sẽ làm việc cho cách mạng theo nghề nghiệp của cô, cô sẽ không phải ngồi tù hay làm việc nặng nhọc; tôi là y tá trưởng và cô làm việc trực tiếp với tôi, cô đuọc nghỉ hai ngày rồi làm việc, số thuơng binh nhiều lắm”.

Nhà bếp mang cơm canh ba bữa cho nàng, nàng bình tĩnh ăn uống, kệ nó, đáng lẽ khi trực thăng rớt ta đã chết rồi. Sáng ngày thứ ba, nàng được dẫn đến bàn làm việc của chỉ huy trưởng; ông ta mời nàng ngồi, rót trà mời nàng: “Hôm nay cô bắt đầu làm việc trong bệnh xá như một y tá, nhưng cô phải luôn nhớ cô là một tù binh bị giám sát chặt- chẽ. Chúng tôi đã nắm hết lý lịch của cô. Cha cô viết báo hay lắm; mặc dù ông ấy phê phán Mỹ nhưng lại đả phá cách mạng một cách tinh vi; cô đừng lo, chúng tôi xét công và tội rõ ràng lắm. Nhưng nếu cô làm việc không tốt thì ảnh huởng không tốt đến ông ấy”. Ông ta nói giọng Bắc như cô y tá trưởng, nhưng khác nhiều so với giọng gia đình ông nội.

Nàng rùng mình, đó là một lời răn đe; họ có thể giết cha nàng, hay bắt cóc con trai của nàng. Cô y tá trưởng xuất hiện ra dấu nàng đi theo; trong bệnh xá dã chiến số thương binh dồn đến ngày một đông; chỉ có ba bốn cô y tá không đủ săn sóc. Thói quen nghề nghiệp bùng dậy, trước mặt nàng không có thù địch , chỉ là những con người đang đau đớn rên xiết quằn quại, mà lại là đồng bào của mình; nàng nhanh nhẹn vào việc, giống như hồi nàng ở Long Bình săn sóc thương binh Mỹ. Sự tháo vát tận tụy dịu dàng thạo việc của nàng hầu như chinh phục được sự ngưỡng mộ của mấy cô kia có vẻ như mới học nghề. Nàng liên tiếp đi từ giừơng bệnh này đến giường kia, giải quyết những bệnh trạng khác nhau giống như một bác sĩ .

Nàng nghĩ phải bảo vệ cho bố, cho con trai bằng cách miệt mài làm việc hầu như không biết mệt, phải thương những thương binh này là đồng bào của ta. Cô y tá trưởng có vẻ hài lòng. Ngày này qua ngày khác tài năng và đạo đức của nàng sáng lên như một tấm gương. Một tháng qua đi, nàng được mời lên gặp vị chỉ huy: “Tay nghề của cô rất giỏi, chúng tôi mời cô đến làm giảng viên cho một lớp huấn luyện y tá”. Nàng không biêt người ta dẫn nàng đi đâu, có lẽ tới một vùng xa chiến trường

Nàng chỉ im lặng làm việc, người ta bảo làm gi thì nàng làm hết sức cho trọn vẹn. Nàng không dám tò mò bất cứ việc gì khác ngoài chuyên môn. Việc ăn uống ngủ nghỉ của nàng hoàn toàn thoải mái trong mái trường an bình; những lớp huấn luyện y tá cấp tốc đáp ứng nhu cầu chiến trường theo thời gian trôi đi, nàng không biết gì tới chiến sự bên ngoài; nàng chỉ tâm niệm nguyện cầu an bình cho bố nàng và con nàng. Căn nhà gỗ nhỏ dành riêng cho nàng có ba cửa sổ nhìn ra ba phía, chỉ thấy rừng cây lầm-lì âm-u như một vòng rào bí hiểm, muốn trốn cũng không biết hướng nào mà trốn. Nàng là một thứ tù giam lỏng; người cần vụ hàng ngày mang cơm nước cũng lầm-lì như đá. Niềm an-ủi cũng như niềm vui hiếm có ở đây là những nụ cười mỉm, khẽ gật đầu chào, ánh mắt biết ơn của những học viên sau khóa học lên đường ra mặt trận; không thể biết được có bao nhiêu người còn lành-lặn trở về. Với tình cảnh nàng thì ở đây an toàn mặc dù không biết lúc nào phi cơ rải bom quét sạch.

*****

Thấm-thoắt ba năm qua đi; tâm hồn nàng bây giờ như mặt đá nhẵn mặc cho nước lướt qua dù sạch hay nhơ; mỗi đêm trước khi ngủ nàng ngồi lâm -râm nguyện cầu cho bố, cho Lucas, cho Leo còn sống sót khi nàng trở về.

Vào đầu tháng bảy 1975, một người lính đến mời nàng lên gặp chỉ huy trưởng. “Chúc mừng cô, cô đã có lệnh tha về làm công dân bình thường; nước nhà đã hoàn toàn thống nhất, chúng tôi hy vọng cô sẽ tiếp tục nghề nghiệp của cô để xây dựng đất nước. Đây là một phong bì tiền để cô làm lộ phí đi xe về thành phố. Anh cần vụ sẽ lái xe đưa cô ra thị trấn”.

Lòng nàng đã lạnh, không cảm thấy sợ, cũng chẳng thấy mừng. Nàng thấy chán ngắt cái lối nói công thức, hầu như tâm trí ông ta không có ý nghĩ nào khác hơn ngoài mấy lời đãi bôi nhạt-nhẽo ấy. Nàng nói lời cám ơn và chào ông ta trở về gói ghém quần áo.

Hóa ra đây là thị trấn Katum thuộc tỉnh Tây Ninh. Tiếng máy xe lam, xe đò, tiếng rao hàng, tiếng còi của công an phá vỡ màn đêm cô tịch trong lòng nàng; khác hết rồi, những băng-đơ-rôn đỏ vàng treo dọc ngang trên đường phố , những lá cở đỏ sao vàng trên các công sở; nàng lặng- lẽ bước lên xe đò về Biên Hòa—bố, không biết bố còn sống không; câu răn đe của viên cán bộ trong rừng vang lên trong đầu “ Chúng tôi xét công tội rõ ràng lắm; cô làm việc không tốt thì ảnh hưởng không tốt đến ông ấy”.

Nhưng nàng nhớ anh Hải Vĩ từng nói bố nàng cũng phê phán kiểu cách mạng của các ông ấy; mỗi bên nhân danh lý tưởng của mình mà đánh giá công tội; nàng không biết gì về triết học, nhưng theo lương tri thông thường, không ai có độc quyền chi cho tư tưởng của mình là duy nhất đúng; như trong gia đình bác cả, anh Hải Vinh và Hải Vĩ mỗi nguòi có chí hướng khác nhau. Nàng nghĩ sẽ hỏi anh Hai Vĩ giải thích rõ hơn.

Mặc dù lòng mình đã chai đá, nhưng càng bước gần nhà nàng càng thấy tim mình đập mạnh; Bố ơi, bố có chờ con về không? Bây giờ là buổi trưa, chắc bố còn ngủ hay vẫn đang đánh máy?

Nàng gọi to: “Bố ơi’’. Cửa sịch mở, ông hai hiện ra trong bộ pyjama ủi thẳng nếp, nét mặt ông bình lặng, tóc chải gọn gàng. Ông thảng thốt kêu lên: “Ôi, Thủy Tiên, con gái tôi đã về”, ông ôm lấy con, nàng thấy nước mắt ông âm-ấm rỏ trên mặt nàng. “Bố còn sống, con hạnh phúc quá”.

Ông dìu con vào nhà; phòng ốc sạch sẽ; nàng ngồi phịch trong ghế bành cảm thấy hơi mệt, ông rót ly trà nóng cho nàng: “Con nghỉ ngơi đi, cứ thư thả rồi kể chuyện”. Hình ảnh Lucas và Leo hiện ra, nàng không dám nghĩ tiếp. Nàng kể sơ cho ông nghe về cuộc sống làm tù binh trong ba năm trong rừng, về lời răn đe của người cán bộ.

Ông nói: “Bố biết họ sẽ xử bố, bố bình thản chờ đợi, mình làm mình chịu, giữ lý tưởng của mình. Ngay sau khi Sài gòn thất thủ, rất nhiều văn nghệ sĩ đã bị lùa vào tù với tội danh “những tên biệt kích văn nghệ”, nhiều vị đã chết trong tù. Gia đình bác cả đã di cư qua Pháp sau khi hiệp định París kết thức vào năm 1973.

Hai bác tính thật xa, nghĩa là bác cả xin từ chức ở bộ ngoại giao lý do bệnh phổi; anh Hải Vĩ học tiếp lên về ngành sử, môn học mà anh ấy mê thích; chị Bích Thảo đã lập gia đình; anh lớn thi tất nhiên giàu rồi. Đúng là người ta có số con ạ; gia đình bác cả thì như thế , còn gia đình mình.... gặp nhiều tai ương.” Nàng nghĩ bác cả làm lớn trong chính phủ nên biết trước tình hình, tìm kế thoát thân trước, vì bác có điều kiện tài chánh, còn bố nàng cũng đoán trước được nhưng không thể.

Nàng vào phòng mẹ trước kia, di ảnh mẹ vẫn lặng-lẽ trên bàn thờ khói hương thơm nhẹ với những đĩa trái cây tươi, con cám ơn bố vẫn chăm sóc mẹ. Nàng lạy bàn thờ rồi nằm vật xuống giường úp mặt vào gối nức nở. Đúng là gia đình nàng bị nhiều tai ương. Nàng bị bắt vào tháng bảy năm 1972 thì tháng sau Lucas tử trận trong trận Quảng Trị thứ hai, trận mà quân đội VNCH chiếm lại cổ thành. Suốt ba năm bố nàng tuần nào cũng vào thăm cháu Leo trong tu viện; nó quấn quít ông ngoại lắm khiến cho ông được an ủi nhiều; thỉnh thoảng ông bế nó về thăm nhà, được bà già Sáu cưng chiều hết mực.

Tháng ba 1975 khi chiến trận miền Trung sôi động, Đà Năng thất thủ, thì cả miền Nam trở nên bất an, nhiều nhà giàu Sài Gòn đã tìm đường xuất ngoại; giữa tháng tư cộng quân đã tiến sát Sai gòn, bố nàng sốt ruột cố gắng tìm đường lên tu viện đón cháu Leo; ngờ đâu đến nơi thì tu viện đã đóng cửa ; dò hỏi nhiều nơi được biết chính phủ Mỹ đã có chiến dịch Babylift Operation di tản trẻ em mồ côi bằng đường hàng không về Mỹ, Úc mà chinh yếu là con các quân nhân Mỹ, Úc lấy vợ Việt. Các em mồ côi trong tu viện được bốc đi vào khoảng vài ngày trước. Như vậy chắc là cháu Leo đã đi Mỹ rồi.


PHẦN II

Cô y tá vào báo bác sĩ sẽ đến thăm bệnh trong mười phút nữa. Cuốn phim dĩ vãng ngắt ngang. Nàng thấy mắt mình ngấn lệ, vội đi vào phòng vệ sinh rửa mặt. “Phải vững-vàng Thủy Tiên ơi, anh Hải Vĩ từng khen mình có nghị lực mà”.
Nàng cảm thấy sức khỏe tốt, chắc là bác sĩ sẽ cho về. Quả nhiên bác sĩ cho phép sáng mai về nhà tĩnh dưỡng với điều kiện phải có người săn sóc.

Ai đây? Nàng sống một mình trong căn hộ phòng đơn từ mấy năm nay; chắc phải thuê một cô, để nhờ Mr. Tran tìm giùm trên báo. Chiều tối Mr. Tran đến sau giờ làm việc, hứa sẽ tìm người, nhưng sáng mai ông ấy sẽ nghỉ việc đích thân lái xe đưa nàng về.

Ngồi trong phòng khách ông lơ đãng quan sát căn phòng xinh-xắn trong khi nàng vào bếp nấu nước pha trà. Đúng là phòng của phụ nữ có trình độ văn hóa cao; một tủ sách với những tiều thuyết Anh Mỹ nổi tiếng, có một khoang toàn sách y khoa. Bỗng ông thấy trong góc của khoang này có một khung hình chụp hai thanh niên nam nữ, người nam là một thanh niên Mỹ khoảng ba mươi tuổi, người nữ chính là nàng. Ông không dám tiến lại gần để coi cho rõ.

Nàng bưng khay trà mời khách, ông hơi lúng túng nhấp một ngụm dè dặt hỏi: “Xin lỗi cô Dương, tôi đường-đột hỏi người nữ trong khung hình kia sao giống cô quá”.

“Ông tinh quá, đúng vậy, là tôi đó, ba mươi năm trước chúng tôi chụp hồi còn ở Việt Nam”
“Thế ra cô đã lập gia đình lúc mới hai mươi, còn anh ấy...?” Ông biết mình lỡ lời, vội vàng xin lỗi cô.

Nàng khoát tay: “Dạ không sao, anh ấy hơn tôi tám tuổi, bác sĩ mới ra trường thì nhập ngũ; cùng làm việc trong căn cứ Long Bình; chúng tôi lấy nhau được một con trai thì năm sau anh ấy qua đời tại mặt trận Quảng Trị năm 1972. Nếu ông không bận việc gì, tôi xin kể qua về cuộc tình của chúng tôi”

Không hiểu sao nàng lại muốn tâm sự với ông, dĩ vãng đau buồn mà hôm qua nhớ lại, bây giờ nàng muốn nói nên lời cho một người khác như để nỗi khổ đau vơi đi. Nàng miên man kể cho đến đoạn bố nàng lên tim cháu Leo ở tu viện St Paul vào giữa tháng tư 75, nàng không để ý nét mặt ông Trần càng lúc càng tái đi . Bât ngờ ông đứng dậy hai tay chắp trước ngực ngước mắt nhìn lên cao run giọng nói: “ Con xin cảm tạ trời đất tổ tiên hai mươi lăm năm qua đi đã cho con tìm được mẹ ruột của cháu Leo”.

****

Như tháng trước đã kể cho cô nghe, sau khi ra trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức khóa 24, nhờ có trình độ Anh ngữ khá tôi được phân phối về Quân Đoàn 2 làm sĩ quan liên lạc với các đơn vị đồng minh; nhờ vậy tôi quen nhiều cố vấn Mỹ. Tháng ba 1975 một vị đại tá cố vấn gặp tôi nói: “Một người bạn của tôi là bác sĩ Charles Williams ở tiểu bang Arizona gởi một lá thư nhờ tôi tìm cháu nội tên Leo Duong Williams, mẹ nó là y tá người Việt tên Dương Thủy Tiên từng làm việc ở căn cứ Long Bình cùng chồng là Lucas Williams; nhưng con trai của ông đã qua đời tại mặt trận Quảng Trị năm 1972 , vợ anh ta cũng mất tích ở Bình Long. Hiện đang có lệnh khẩn của Tổng Thống phải gấp rút tìm và chuyên chở về Mỹ những con lính Mỹ lấy vợ Việt trước khi cộng quân tràn về. Địa điểm cuối cùng của hai vợ chồng là Nha Trang, vậy nhờ anh đi một vòng các cô nhi viện ở Nha Trang và Sài gòn xem có tên cháu bé hay không. Đây là bạn thân của tôi, nhờ anh cố giúp”.

Tôi bèn bay ra Nha Trang sục- sạo mấy nơi không thấy tên cháu, về Sài Gòn cũng rà xét các cô nhi viện nổi tiếng; may thay đầu tháng tư tôi đến tu viện ST Paul và tìm ra tên cháu, báo ngay cho đại tá; ông mừng lắm, liên lạc với ban chỉ huy chiến dịch Babylift. Ông cố vấn nói: “Đà Nẵng đã mất, Tây Nguyên cũng nguy rồi, mặt trận Xuân Lộc đang triển khai, anh nên cùng đi với cháu bé cho an toàn, tôi sẽ can thiệp để anh đi theo vởi tư cách cha nuôi. Tôi muốn anh đưa cháu đến tận tay ông bà bác sĩ thì tôi mới yên tâm. Vả lại anh là sĩ quan giao thiệp nhiều với người Mỹ, họ sẽ không tha anh đâu”.

Tôi chấp thuận ngay và thế là nửa thàng sau chúng tôi đã đến California; tôi báo ngay cho ông bà bác sĩ đến traị tạm cư đón chúng tôi về Arizona. Về đến nhà, hai ông bà bỗng quỳ xuống vừa khóc vửa nói; “Chúng tôi xin đa tạ ân nhân đã đưa giọt máu của chúng tôi về an toàn; chúng tôi lớn tuổi rồi không thể nuôi dưỡng cháu được, nên cứ theo như hồ sơ, xin ân nhân nhận cháu là con nuôi, tiền bạc nhà cửa chúng tôi chu cấp đầy đủ cho đến khi cháu trưởng thành”.

Thế là tôi mang cháu về Cali, hứa mỗi tháng đưa cháu về chơi với ông bà nội. Ông bà bác sĩ mua cho chúng tôi một ngôi nhà nhỏ, tôi có điều kiện đi học lại lấy bằng MBA, tìm được việc làm tốt. Năm tháng qua đi, Leo lớn dần lên, xong trung học, theo nghề ông nội và bố học y khoa. Năm 1995 hai ông bà theo nhau qua đời trong niềm hạnh phúc thấy cháu nội trưởng thành vững vàng, để lại di chúc cho cháu hưởng toàn bộ gia tài. Năm ngoái cháu ra trường, đi Đức thực tập trong một đơn vị quân y. Vậy là tôi hoàn thành sứ mệnh; hôm nay tôi lại được hưởng một niềm vui to lớn nữa, đã tìm được mẹ ruột của cháu.

Nghe chuyện ông Trần kể, tâm trí Thủy Tiên như chơi-vơi trên một tầng mây rực-rõ sắc màu; có phải là giấc mơ hay là hiện thực? Con tôi còn sống, đã theo nghề của ông nội và của bố, đã trưởng thành tự lập? Một lát không nghe tiếng ông Trần, nàng giật mình mở mắt, thấy ông im lặng ngồi nhìn nàng.

Nảng bẽn-lẽn nói: “ Xin lỗi ông, tôi không kềm được niềm hạnh phúc bất ngờ, tôi cứ tưởng như trong cơn mơ, tôi như từ cõi chết trở về. Như bố tôi nói số phận bố mẹ vất-vả làm lây dến con cháu, gia đình gặp nhiều tai ương. Nếu bố tôi còn sống đến ngày nay thì ông mãn nguyện vô cùng, ông cưng cháu ngoại lắm”.

“Thế....như cô kể, sau đó họ có “xử” bác trai không?”

“Quả thật chúng tôi sống trong nơm-nớp lo sợ, hầu như có một cái búa treo trên đầu bằng một sợi chỉ mỏng -manh. Tôi nghĩ mình phải cứu bố bằng cách xin vào bệnh viện làm y tá theo nghề của mình. Lời của ông chỉ huy trưởng trong rừng không phải là lời nói suông, nó là một mệnh lệnh; thế là tôi nộp đơn và được nhận ngay vì có thành tich phục vụ tốt trong thời gian tù binh. Tôi làm việc tận tụy luôn tâm niệm vì sinh mệnh của bố.Tất nhiên họ không cho ông dạy học nữa, nhất là viết báo thì tuyệt đối cấm; tuy vậy bằng hũu cũ của ông ngầm giúp đỡ ông bằng cách đưa sách truyện ngoại ngữ cho ông dịch với tên giả nên ông kiếm tiền lai-rai”.

“Cô có bao giờ tính chuyện vượt biên như bao người khác không?”

“ Khi nghe tin đồn về chiến dịch Babylift, tôi hy vọng mong-manh con tôi đã sang Mỹ, tôi cũng tính phải liều vượt biên đi tìm con. Nhưng suy đi nghĩ lại, nếu vượt biên thành hay không thành đều có hại tới sinh mệnh của bố. Giả dụ tôi vắng mặt tại bệnh viện ba bốn ngày là bố bị bắt liền, thành ra tôi quyết không nghĩ đến nữa. Ông cán bộ chỉ huy trưởng lúc nào cũng hiện ra trong tâm trí tôi như một bóng ma, tôi sợ lắm; mà có lẽ mọi người Viêt Nam đều nhìn cách mạng cộng sản như bóng ma ám ảnh, sau những đợt lấy nhà đuổi đi kinh tế mới, đổi tiền, ngăn sông cấm chợ, tù cải tạo....

“Bác cả và các anh chị bên Pháp có giúp gì cho cô không?

“Hai bác tốt lắm gởi quà về cho bố và tôi nhiều lần, còn hứa sẽ bảo lãnh qua Pháp nhưng bố tôi nói ông già rồi không muốn qua đó ăn bám; ông đã chấp nhận số phận, bình thản nhìn đời, chỉ ngày đêm cặm-cụi viết cho xong một cuốn sách mà ông nghĩ là tâm huyết cho vận mệnh tương lai của dân tộc. Tôi thì chả hiểu nổi những tư tưởng trừu tượng của ông; nhưng thôi, mỗi người có một sở thích riêng. Ông nói dù có đơn bảo lãnh thì họ cũng bác, vì ra nước ngoài thì ông lại tự do viết lách phê phán kiểu cách mạng của họ “

“Hay ! Bác trai thật đáng phục. Nếu trước kia tôi được quen bác thì tôi học hỏi được nhiều lắm. Vậy cuối cùng tại sao cô lại ở Mỹ?”

“Bố tôi qua đời năm 1989 bình an nhẹ -nhàng sau hơn mười ngày lâm bệnh, giống như bệnh già thôi. Tôi ngày đêm trực bên giường bệnh; bố nói chóng -chày họ sẽ tự lột mặt nạ cách mạng vô sản mà theo đuôi tư bản thôi, vì nền kinh tế cộng sản hoàn toàn thất bại; tình hình bên Nga, Đông Âu, bên Tầu chuyển biến nhanh lắm. Sau khi bố chết con hãy tìm đường qua Mỹ tìm cháu Leo. Đó là di nguyện của bố”

“Bây giờ di nguyện của bác trai đã được hoàn thành tốt đẹp”

Nàng bỗng ôm mặt khóc thổn-thức: “Phải chi bố còn sống đến hôm nay. Tôi xin quỳ xuống tạ ơn ân nhân đã cứu vớt cưu mang con tôi suốt mấy chục năm khiến ông không lập gia đinh như mọi người, hy sinh cả tuổi thanh xuân”.

“Cô cứ khóc cho vơi nỗi đau buồn; nhưng ngược với điều cô nghĩ, cháu Leo lại là lẽ sống của đời tôi; tôi mồ côi từ nhỏ, ăn cơm thiên hạ từ bà cô này đến ông chú kia trải qua bao nỗi nhục nhằn; năm đệ tam (lớp mười) tôi bỏ nhà ông bác, vì bị anh chị khinh miệt, xin được chân lao công trong một khách sạn, vừa có chỗ ngủ vừa có đồ ăn thừa, tự học đậu tú tài; nhờ tiếp xúc nhiều với khách ngoại quốc đâm ra dạn-dĩ nói tiếng Anh bừa đi; đậu tú tài xong được quản lý khách sạn bốc lên làm ban tiếp tân; lương cao hơn nhờ đó học xong cử nhân Ban Anh Văn. Có bằng đại học đáng lẽ chủ khách sạn nâng lên chức quản lý, nhưng lệnh động viên ào đến, thành ra tôi mới làm sĩ quan liên lạc. Khi tìm được cháu Leo bơ-vơ không cha mẹ, tự nhiên tôi cảm thấy mình có bổn phận nuôi dạy cháu như con đẻ mình, tôi không muốn một người phụ nữ nào đến chia sẻ tình thương đó.
Tuần trước tôi mời cô lại dùng cơm trưa nhân dịp cháu từ Đức về dự hội thảo y khoa, nhưng bị trễ chuyến bay không về kịp thì cô lại bất ngờ lâm bịnh. Cô nhớ lại xem, hôm đó tự nhiên cô ngất xỉu; bác sĩ chẩn bệnh nói cô có bệnh tim di truyền dễ xúc động ngất đi, nếu đang lái xe thì nguy lắm”.

Nàng nhắm mắt hồi tưởng trưa chủ nhật nàng đến nhà ông khoảng 11 giờ, ông mời mình đi thăm căn nhà, ngoài phòng khách và phòng ăn, còn bốn phòng ngủ thì một dùng làm thư phòng, một làm phòng sinh hoạt, một là phòng ngủ của ông, một là phòng ngủ của con trai mỗi khi về thăm nhà.

Ông nói: “Đây là phòng ngủ của cháu trai “

Trên bức tường có bàn viết, treo hai khung hình lớn kề hai bên, hai chân dung trông gần giống nhau, nàng nhớ vừa trông hai hàng chữ Lucas Williams MD, Leo Williams MD thì trong đầu vang lên câu nói “Ôi Leo con sư tử tí hon của mẹ..

Thế rồi nàng ngất đi. Ông Trần nói: “Khi gọi xe cứu thương chở cô vào bệnh viện, tôi bán tin bán nghi, vì cô thốt lên tiếng Leo. Thôi bây giờ mọi sự sáng tỏ, cô bình tĩnh giữ gin sức khỏe canh chừng những cảm xúc mạnh để khi gặp cháu không xảy ra việc gì. Tuần sau Leo họp xong sẽ về thăm bố nửa tháng trước khi trở về đơn vị. Tôi sẽ tìm một phụ nữ đứng đắn thạo việc đến chăm sóc cô ngày đêm. Tuy nhiên cô vẫn chưa kể về việc cô đến Mỹ cách nào”.

“Sau khi cư tang bố một năm tôi suy tính đã đến lúc đi tìm con dù gian nan thế nào. Nhưng những tin tức về thuyền nhân chết đói chết khát trên biển, bị hải tặc tấn công, bị lừa vàng, lừa bãi, thuyền vượt biên bị đặt chất nổ,......làm tôi lo sợ. Lỡ ra bị tù hay chết thi làm sao gặp con được.

Loay-hoay trăn -trở cả năm trời chưa quyết định được, thì cuối năm 1991 nhận được thư anh Hải Vĩ: “Bố mẹ anh nói con Thủy Tiên bây giờ nó sống bơ-vơ một mình, các con nên nghĩ cách bảo lãnh cho nó qua Pháp; tội nghiệp nó không cha mẹ không chồng con. Vì vậy các anh chị cùng đứng tên bảo lãnh cho em, nếu phải cần tiền bạc chạy-chọt thì các anh lo hết cho; qua đây, em còn số vốn mà ông bà nội di chúc cho khi bán mẫu vườn; hồi trước, lúc em mất tích tại Bình Long, chú hai nhờ mẹ anh giữ giùm; khi em qua Pháp rồi anh sẽ lo cho em đi Mỹ tìm cháu Leo”.

Tôi thấy con đường này an toàn nên nhận lời, viết thư tạ ơn hai bác và các anh chị. Sáu tháng sau, giấy bảo lãnh về, nhưng không hiểu sao hồ sơ ngâm ở Bộ Nội Vụ cả năm không thấy động tĩnh gì . Anh lớn Hải Vinh sốt ruột bay về; anh chạy đi chạy lại sở này bộ nọ thỉ tháng sau có giấy xuất ngoại .

Ông Trần nói: “Anh lớn là doanh nhân nên anh thấy rõ tiền đi đâu cũng lọt. Các cụ ta ngày xưa nói miếng bạc đâm toạc tờ giấy. Chế độ nào cũng vậy thôi, quân chủ phong kiến, tư bản cộng sản chỉ là con người đầy lòng tham vô đáy, đầy thù hận dai-dẳng chứ có phải là những ông Thánh nắm quyền đâu. Cùng mảnh đất đó , ngày xưa quan tri huyện cai quản thì ngày nay là ông huyện ủy. Gọi là cách mạng cho khác lạ, chứ tri huyện hay huyện ủy dều nằm trong giai cấp thống trị. Anh lớn có cái nhìn thực tế lắm. Nói thực với cô, anh ấy chả tin những lý thuyết viển-vông đâu”.

“Dạ đúng vậy, ngay từ hồi còn là sinh viên anh ấy đã chê bố tôi là sống trên mấy từng mây, chê anh Hải Vĩ là cứ mất thì giờ tra cứu mấy việc quá khứ; việc ngay trước mắt không lo; anh ấy nói không cầm súng của Mỹ Nga Tầu để bắn anh em mình, ra nước ngoài học nghề kinh doanh có lợi cho nước nhà hơn. Và quả là anh ấy thành công. Tôi phục anh ấy lắm, nhưng trong thâm tâm tôi mơ hồ thấy anh ấy giống nhân vật Rhett Butler trong truyện CUỐN THEO CHIỀU GIÓ nên tôi phục mà khồng có thiện cảm với anh; mặt anh ấy lúc nào cũng lành-lạnh khác hẳn với anh Hải Vĩ ấm-áp ân-cần với mọi người.”

“ Thế rồi cô tới Pháp khi nào?

“Dạ giữa năm 93, tôi nghỉ ngơi một tháng là đi làm liền nhờ anh Hải Vĩ tìm cho vài lớp dạy Anh ngữ . Qua năm 94 anh Hải Vĩ dẫn tôi lên tòa Đại Sứ Mỹ xin định cư tại Mỹ lý do chính là đi tìm con có bố là bác sĩ quân y Mỹ. Sáu tháng sau tòa Đại Sứ mời tôi lên chúc mừng tôi được chấp thuận vì hồ sơ của tôi đã được xác minh. Khi đến Cali đầu năm 95 tôi thuê nhà yên ổn xong, rồi lên đường đi Arizona theo đúng địa chỉ của bố mẹ Lucas, nhưng khi đến thì người chủ nhà nói ông bà đã qua đời rồi. Đúng là hành trình tìm con hai mươi năm vô vọng; không ngờ con ở ngay bên cạnh”

****

Niềm hạnh phúc mong đến ngày gặp con làm tâm tôi bồn-chồn như sóng nhấp-nhô; trải qua bao nỗi đau trong đời, tôi không dám tin chắc một điều gì; đã thấy hình con lớn khôn, đã thấy hình chồng yêu quí ở nhà ông Trần, thế mà tôi cứ như thấy ảo ảnh; chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ, súng đạn sản xuất ở đâu đâu đã cướp đi chồng tôi, đã ly tán mẹ con tôi, đã làm bố tôi suốt đời sống lơ- lửng.

Mỗi buổi chiều ông Trần đến dẫn tôi đi ăn; tôi cảm thấy ông như cái phao cho tôi bám vào giữa sóng đời muốn nhận chìm tôi xuống. Tôi không dám báo tin cho gia đình bác cả, tôi cố dằn lòng chờ sau khi thực sự ôm con trong vòng tay.

Ông Trần nói đã kể hết chuyện cho Leo và cháu cũng nóng lòng mong cho khóa hội thảo kết thúc để về gặp mẹ. Mười ngày chờ đợi tôi có cảm giác như mười năm; tôi tự hỏi ba năm tù trong rừng sao tôi lì thế? Chỉ vì tôi lo sợ cho sinh mệnh của bố tôi và con tôi; bây giờ suy nghĩ kỹ tôi bừng tỉnh thấy rõ trong chế độ đó chính ông chỉ huy trường cũng là một nạn nhân; nếu ông không làm hết nhiệm vụ của ông thì gia đình ông cũng bị liên lụy. Cả xã hội là một mạng lưới trong đó cá nhân không có tự do tình cảm, tự do tư tưởng, tự do sáng tạo. Lời nói của ông chỉ huy trưởng suốt ngày, suốt tháng suốt năm suốt đời chỉ là những công thức. Nói và nghĩ trật khỏi công thúc là có tai họa.

Bừng tỉnh nhận thức như vậy tôi mới thấy bố tôi có lý; cũng may ông sống trong miền Nam được viết lách tự do; nếu không, ông phải tự tử rồi. Tôi sực nhớ đến tập bản thảo cuốn sách của bố dặn- dò khi ra nước ngoài tìm cách xuất bản sau khi bố qua đời. Bao năm lo sinh kế bận rộn tôi quên bẵng di ngôn của bố. Bố nói phải nhờ anh Hải Vĩ đọc và tu chính.

Nghĩ đến anh Hải Vĩ, tôi lại nhớ mấy tháng trước anh báo tin mừng là sau mười lăm năm làm việc, anh sắp được phép trình luận án tiến sĩ sử học với đề tài SO SÁNH CUỘC DI CƯ 1954 VÀ CUỘC DI TẢN 1975 . Anh đã bỏ mười năm từ 1985 đến 1995 đi đến những trại tỵ nạn của những người Việt Nam sau 1975 vượt biên và vượt biển để thu thập những cuộc phỏng vấn với những nhân chứng sống. Từ 1995 đến 2000 anh bó mình ở nhà để sắp xếp tài liệu và viết từng chương.

Hèn chi anh không lập gia đình; có bà vợ nào chịu nổi ông chồng như thế. Nghĩ mà thương mẹ; bố chìm trong chữ nghĩa mơ hồ trừu tượng, không kiếm được nhiều tiền, nhưng vì mẹ yêu thương bố từ hồi học sinh trung học nên hôn nhân không đổ vỡ.

Anh Hải Vĩ còn kể về sự kinh doanh lớn của anh Hải Vinh. Sau 1991 Liên Xô tan rã, khi chính quyền Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, không chống đế quốc tư bản dang giãy chết nữa mà trái lại nhận làm cai thầu cho tư bản vào nước thuê nhân công rẻ, thì anh lớn về nước dò-dẫm tình hình, vì e sợ sập bẫy “quốc hữu hóa” hay “đánh tư sản” như hồi 54, 75.

Anh liên hệ với đám Viêt kiều “yêu nước” làm cầu nối, chi tiền hậu hĩ, đã mở xưởng sản xuất mỹ phẩm ở Bình Dương từ năm năm nay khấm khá lắm. Vợ anh là bà đầm buôn bán giỏi nên anh chị bây giờ là một loại đa triệu phú đô-la. Anh thường nói chính trị, tôn giáo gì cũng không qua khỏi tiền.

Nghe chuyện, tôi càng thấy anh lớn đúng là anh chàng Rhett Butler; có lẽ đám Viêt kiều “yêu nước” đều cùng một giuộc; đứng ngoài vòng chiến, sống sung sướng trong xã hội tư bản nhưng hô to ủng hộ cách mạng vô sản chống đế quốc tư bản; khi chiến tranh chấm dứt bèn đổi chiều nhập cảng hàng tư bản kiếm lời khổng lồ, vì kinh tế cộng sản làm gì có hàng đẹp hàng tốt? Tuy vậy, anh Hải Vĩ nói, cơ-trí của đám này so với Hải Vinh thì kém xa.

Anh Hải Vĩ nói những cán bộ lớn ngày xưa tự nhận là chiến sĩ vô sản bây giờ trở thành những nhà tư sản lớn; tôi nhớ ông cán bộ chỉ huy trưởng trong rừng hẳn là đang sống trong biệt thự nguy nga, ngồi xe con đen bóng láng có tài xế lái.

“Cô nghĩ gì mà thừ người ra thế? Cố ăn uống bồi bổ ngày mốt gặp con cho tỉnh táo. Tôi đã đặt bàn tại nhà hàng ở bãi biển”

Nghe giọng ông Trần có vẻ vỗ-về săn sóc, lại dùng chữ “con’’ trống không, tuồng như muốn nói “ con chúng ta”, lòng tôi bỗng bồi-hồi xốn-xang.

****

Hôm nay con tôi về , nó đang bay từ miền Đông về Cali, có lẽ khoảng ba giờ chiều là đến phi trường Los Angeles, ông Trần đã cho Leo địa chỉ nhà hàng, hẹn găp nhau lúc sáu giờ chiều.

Mấy chục năm nay chưa bao giờ tôi thấy lòng mình tràn đầy niềm vui như thời nữ sinh ngây thơ. Ông Trần đến đón tôi lúc bốn giờ. Một phòng ăn nhỏ riêng biệt, lịch sự kín đáo trên lầu nhìn ra biển xanh mênh mông. Chiều nào chúng tôi cũng đi ăn với nhau nhưng chiều nay có vẻ như một ngày lễ; hai chúng tôi im lặng nhâm-nhi tách trà thơm.

Ông Trần nói: “Chỉ còn mười lăm phút nữa cháu sẽ đến, cô hãy canh chừng cảm xúc mạnh. Nghe tôi nói và làm theo nhá” Giọng ông êm-đềm đưa tâm tôi từ khu chợ đông vào bìa rừng vắng lặng

“Ngồi thẳng lưng dựa vào ghế, hai tay để xuôi theo hai bắp đùi, nhắm mắt, ngậm miệng, uốn lưỡi áp lên hàm trên , chỉ thở bằng mũi, nhẹ nhàng thở ra một hơi, thầm đếm một, nhẹ nhàng hít vào một hơi, thầm đếm hai .......đếm đến mười quay trở lại , một...hai....

“Bây giờ vẫn giữ nguyên tư thế, nhưng hướng tâm xuống phía bụng dưới, thấy bụng phồng lên đếm một, bụng xẹp xuống đếm hai....cứ thế đếm đến một trăm..chậm... đều...”

Phòng cách ly với bên ngoài, hoàn toàn im lặng, không biết tôi đếm đến mấy trăm thì có tiếng gõ cửa, tôi cảm thấy lòng tôi thanh thản, biết là con tôi đến nhưng tôi bình tĩnh đứng dậy; một chàng thanh niên dong- dỏng cao trong bộ “suit” xám nhạt, tay bưng một bình hoa rực rỡ. Trong tâm trí tôi thoáng có tiếng nói thầm “Ô, Lucas’’.

Ông Trần cao giọng: “Leo con đã đến, đây Mrs. Dương mẹ ruột của con như ba đã kể”

Hóa ra Leo giống bố quá, cũng ở tuổi ba mươi. Leo đặt bình hoa trên bàn tiến lại, vòng tay ôm lấy tôi: “Mẹ ! con đã tìm lại được mẹ rồi, nhờ ba con đấy”.

Tôi ràn-rụa nước mẳt nhưng không có cảm xúc mạnh: “Mẹ đi tìm con gần ba mươi năm, tạ ơn trời đất tổ tiên run -rủi cho ông Trần cưu mang con đến ngày nay”.

Ông Trần tính gọi cô phục vụ đem thực đơn ra, nhưng Leo ngăn lại: “Con đã suy nghĩ cả nửa tháng nay về chuyện này........mẹ Dương đã sinh con ra mà ba Tran dưỡng dục con ba mươi năm, thôi thì xin hai vị kết hợp với nhau để từ bây giờ trở đi con được gọi My Dad and My Mom”

Nói xong, Leo quỳ xuống, cầm hai bàn tay chúng tôi đặt vào nhau. Tôi e lệ nhìn ông Trần khẽ nói: “Anh...anh có chấp nhận em không?”

Ông nắm chặt tay tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi trìu mến: “Anh mong đợi giây phút này từ lâu”

Leo mừng rỡ đứng lên: “Hôm nay con tặng cho Dad và Mom một ngạc nhiên. Xin mời vào”

Một thiếu nữ Mỹ xinh đẹp mở cửa bước vào, duyên dáng cúi chào, đến đứng sát bên Leo.

“Con xin giới thiệu với Dad và Mom đây là bạn gái của con, Melanie, cuối năm nay ra trường nha khoa rồi chúng con sẽ làm lễ đính hôn”.

Melanie! Cái tên vang trong tâm tôi một âm thanh thân thuộc, nhân vật trong truyện Cuốn Theo Chiều Gió mà tôi yêu thích thời tuổi học trò.

Tôi tiến tới ôm lấy người thiếu nữ: “Melanie, ôi cái tên thật dịu dàng, chúc hai con hạnh phúc”

Bữa ăn nhỏ chiều nay là một đại tiệc cho đời tôi, tôi đã có một gia đình

****

Leo có hai tuần nghỉ phép, đứng ra tổ chức đám cưới cho bố mẹ, nói bố mẹ không phải bận tâm về bất cứ việc gì, chỉ lo mời bạn hữu và đóng vai cô dâu chú rể vào chủ nhật tới. Tôi cười thầm, thật là ngược đời, ngày xưa bố mẹ lo đám cưới cho con cái chạy tiền ngược xuôi; còn bây giờ hai vợ chồng tôi thong dong, thảnh thơi. Tôi đã gởi thiệp mời sang Paris; hai bác ngoài tám mươi không đi xa được, anh chị Bich Thảo, Hải Vinh bận làm ăn cũng không đi dự chỉ gởi tiền mừng; tổng cộng gia đình bác tặng cô dâu năm mươi ngàn đô la làm của hồi môn để góp vào việc xây dựng gia đình mới; chỉ một mình anh Hải Vĩ “độc thân vui tính” không vướng bận gì sẽ bay sang gặp mặt Mr. Trần và cháu Leo.

Anh Trần rất hâm mộ Hải Vĩ, lại cùng là dân Trừ Bị Thủ Đức nên chuyện trò tương đắc. Sau tiệc cưới, anh Hải Vĩ mời vợ chồng Trần & Thủy Tiên, vợ chồng Leo & Melanie sang Paris mùa xuân sang năm dự ba sự kiện: tiệc mừng đoàn tụ gia đình cùng lễ thượng thọ hai bác, buổi trình luận án tiến sĩ của Hải Vĩ, và buổi ký tặng sách của chú Hải Thư.

Anh Hải Vĩ cho biết đang thuê người dịch tác phẩm của bố tôi ra tiếng Pháp và tiếng Anh và sẽ giới thiệu cả ba ấn bản Việt Pháp Anh. Anh nói: “Tác phẩm của bố em nằm trong thư mục tham khảo của luận án của anh vì có liên quan nhiều đến đề tài. Bố em không để lại gia sản, tiền bạc nhưng tác phẩm lý luận của bố là một di sản tinh thần quí giá. Thủy Tiên sẽ thay mặt bố giữ bản quyền”.

Tôi chỉ biết thầm lặng tạ ơn bao nhiêu tấm lòng nhân hậu đã cho tôi chút hạnh phúc nhỏ-nhoi ở tuổi năm mươi.

HẾT

California ngày 4 tháng 7 năm 2025
Đào Ngọc Phong


GHI CHÚ: Tên tuổi những nhân vật trong truyện chỉ là những biểu tượng, không chỉ bất cứ ai trong đời thường. 

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2025