SỐ 108 - THÁNG 10 NĂM 2025

 

CON MA SỞ LỤC HÌNH

Gần tết nên bỗng thấy trong nhà chộn rộn vì má khăn gói dọn dẹp đồ đạc gọn gàng, tôi nói trong bụng, năm nay chắc nhà mình ăn tết lớn. Buổi sáng thấy ba lấy cây đèn ‘măng xông’ lau bụi cứ tưởng ba tôi chuẩn bị tối đến mang đèn đốt trong ba ngày Tết cho nhà sáng sủa. Những nhà hàng xóm chung quanh giống như nhà tôi buổi tối thường ngày đốt đèn dầu, chỉ riêng ba ngày Tết có ba ở nhà mới được đốt đèn ‘măng xông’. Cái đèn ba tôi mua ở một tiệm Tây trên “Sài gòn”, cả chợ quận ít nhà có đèn măng xông nên nhà tôi cũng thơm thảo sẵn sàng cho hàng xóm mượn cần đốt lên khi có đám cưới, đám giỗ hay đám ma. Cái đèn khẳng định thứ bậc giai cấp sở hữu phải là người khá giả. Mỗi lần đèn được mang ra đốt rất kỳ công và khó khăn, ngay đến má cũng không biết cách đốt. Tôi thấy ba mang đèn ra châm thêm dầu trong cái bình tròn dưới chân đèn rồi ba mở cái nút bơm dầu lên rất lâu cho đến khi cái bóng đèn làm bằng lụa treo chính giữa có lồng kiếng bao chung quanh thân đèn sáng rực lên như ban ngày. Mỗi khi đèn đốt lên bóng tối lui xa giúp mọi người được nhìn rõ những nụ cười vui vẻ ngồi quanh bàn bên tách trà trò chuyện.

Nhưng lần này không ngờ ba tôi lại mang cây đèn bỏ vô thùng cột lại, cũng vậy má tôi gói lại bộ lư và chân đèn trên tủ thờ bỏ vô hai cái bao bố để vào góc nhà. Ở đó một đống nồi niêu xoong chảo cũng được sắp chung. Má hỏi :

- Chừng nào cậu giáo cho tài xế mang xe tới vậy mình ?

Ba tôi trả lời :

- Phải đợi chuyến tài chót chiều nay xe đi “nằm đêm” (*) nhà mình mới đi.

Tôi thắc mắc hỏi má :

- Nhà mình đi đâu vậy má ?
- Mình dọn nhà lên Sài gòn ở với ba.

Ba tôi làm việc cho nhà nước, lúc trước ba phải ở đậu với bạn bè trên Saigon mỗi cuối tuần mới về nhà một ngày. Sau này mua được chiếc xe ‘mô bi lết’ mỗi ngày trời mờ sáng ba phải đi làm, chiều tối mịt mới về đến nhà. Về sau lớn lên tôi mới biết quê nội không xa Saigon lắm, chỉ mấy chục cây số nhưng thời đó phương tiện giao thông, xe cộ rất ít ỏi. Người dân bình thường chỉ có xe đạp là phương tiện hiện đại nhất nhưng cũng rất giới hạn bởi tiền bạc khi muốn mua. Di chuyển vài cây số quanh quẩn chợ quận nếu gần thì đi bộ hoặc thông thường bằng những cổ xe ngựa, xe bò, nhưng từ quê nhà tôi nếu muốn đi Saigon xa hơn phải đi bằng xe đò. Ba tôi có chiếc xe ‘mô bi lết’, xe này hơn xe đạp xem như là khá rồi, ngoại trừ các chủ điền ruộng cò bay thẳng cánh mới có xe hơi riêng. Nhưng hàng ngày đi làm như ba tôi xem ra cũng cực nhọc, nhất là vào mùa mưa gió. Những người làm chung sở với ba tôi đa phần họ đều mang theo gia đình vợ con thuê nhà ở thành phố gần chỗ làm.

Tôi chạy ra nói với đám con nít nhà hàng xóm khoe :

- Chiều nay nhà tao dọn đi ‘Sì goòn’.
- Mà ‘xì gòn’ ở đâu ?
- Ở chỗ ba tao làm việc. Má tao nói trên đó có đèn sáng mỗi đêm mà không cần đốt đèn ‘măng xông’. Có nước máy vặn một cái là chảy nước không cần đi gánh đổ vô lu. Tao nghe ba tao kêu là nhà Hình.

Miệng tôi nói vậy nhưng không hề biết nơi mình sắp đến ở đâu, tại sao có cái tên ‘Nhà Hình’

Đứa con nít bốn tuổi như tôi lần đầu tiên “bỏ quê về phố”. Trên chiếc xe đò của ‘ông Cậu giáo’ chất đầy đồ đạc. Cái tủ thờ được ba bốn người đàn ông khiêng lên để trên nóc xe. Cái giường được tháo ra nhiều mảnh. Bộ ván gõ cũng vậy, cho đến bàn ghế cũng được lèn chặt ních không còn chỗ trống.

Xe ra khỏi chợ quận chạy qua cây cầu, tiếng anh lơ xe hô to câu nói chắc là rất quen thuộc :

- ‘Xe qua cầu bà con lấy tay lấy đầu vô, không được xả rác liệng tàn thuốc xuống cầu’.

Chiếc xe bò chầm chậm trên chiếc cầu làm bằng gỗ đặt trên những thanh sắt, tiếng ván khấp khểnh gập ghềnh hòa tiếng máy xe, qua bên kia cầu có vài chiếc xe đang sắp hàng chờ, người gác ngồi vắt vẻo trên căn chòi đặt bên cạnh khoảng giữa cầu xoay tấm bảng cho phép đi qua, bởi vì lòng cầu chỉ vừa đủ cho một chiếc xe lăn bánh.

Qua khỏi cầu là đồng ruộng chạy ngút mắt, xa xa vài căn nhà nóc nhô lên giống chiếc thuyền đang bồng bềnh trên con sóng xanh rờn màu mạ non. Gió bên ngoài nổi lên thổi vụt vào hai bên thành xe đang chạy man mác khiến tôi chìm vào giấc ngủ không hay. Hậu quả buổi trưa lợi dụng má đang bận rộn sắp xếp tôi trốn ngủ chạy ra ‘đía’ với thằng Trù con bác Tư bán cà rem về nơi tôi sắp dọn đến mặc dù không hề biết hình ảnh thế nào.

Tiếng người í ới gọi nhau khiêng vác đồ đạc từ trên nóc xe xuống đất đánh thức tôi dậy. Tôi tự hỏi đã đến nơi rồi sao ?

Leo xuống nhìn về bên phải là một dinh thự cao cao, to lớn tường quét vôi vàng, bên trái là một dãy nhà áng chừng chục căn, trước mắt là bầy con nít trạc tuổi tôi đứng chung quanh đang nhìn quang cảnh dọn nhà. Một đứa lớn nhất có vẻ cầm đầu hỏi :

- Ê nhỏ mầy là con thầy Sáu hả.

Tôi lúng túng không trả lời bởi không biết “thầy Sáu” là ai ! Thằng này quay ra nói chuyện với một đứa trong bọn.

- Hôm qua nghe ba tao nói bữa nay nhà thầy Sáu dọn đến.

Vậy là nó đang nói về chuyện nhà tôi, không lẽ thầy Sáu là ba tôi và đây là lần đầu tiên tôi nghe được người ta nhắc đến danh xưng này. Những ngày kế tiếp tôi nhanh chóng nhập bọn làm quen hầu hết với đám con nít trong cư xá. Đứa nào cũng dễ nói chuyện và có vẻ thân thiện. Chúng tôi túm tụm với nhau vui vẻ chơi những trò của con nít, chị em tôi là ma mới được cả bầy hướng dẫn, chỉ trỏ giải thích về cái này cái kia bên ngoài khuôn viên quanh Sở Lục Hình. Nhưng có một quy định bất thành văn là bọn con nít không bao giờ dám vượt qua cái cầu thang hơn một chục bậc lên khoảng thềm vuông vức trước cửa để vào bên trong dinh thự là chỗ làm việc của người lớn. Có tò mò và bạo gan lắm chỉ bắt chước nhau bám vào bệ cửa sổ phía sau nhà hình ló đầu nhìn vào một giây rồi tuột xuống, duy nhất một lần tôi thấy được bên trong có rất nhiều người mặc áo xanh đang ngồi sắp hàng trên ghế. Thỉnh thoảng tôi cũng thấy những người mặc quần áo giống như vậy cứ hai người bị còng tay đi một hàng dọc tuần tự leo lên chiếc “xe cây” (**) đậu bên đường trước sở, đi theo là một viên cảnh sát tay cầm một tập hồ sơ. Tuy chưa đủ tuổi vào lớp Năm nhưng tôi đã được ba cho đi theo chị học trường tư thục gần nhà nên biết đọc thông thạo không cần phải đánh vần. Tấm bảng thật lớn gắn trước sở có ba chữ to chính giữa ‘Viện Giảo Nghiệm’ Phía trên là hàng chữ nhỏ “Hành chánh và Tư pháp”. Thời Pháp thuộc người ta gọi nơi này là Sở Lục Hình. Sau này khi lớn lên và hiểu ra nơi đây có nhiệm vụ lưu trữ hồ sơ, lăn tay, chụp hình những người bị tòa tuyên án phạm tội. “Nhà Hình” tiếng nói từ cửa miệng nghe được có lẽ xuất phát từ đây chăng.

Biến cố đầu tiên xảy ra với tôi là hôm mới dọn đến, ở quê mỗi lần cần giải tỏa cái bụng chứa đủ thứ sau khi tiêu hóa là ra cái chòi đặt ở bờ ao, xa nữa là mép con rạch gần sông lớn. Ở phố không có ao rạch chỉ toàn là nhà vậy đi đâu? Tôi hỏi mấy đứa mới vừa quen. Bọn chúng chỉ tôi đi vòng phía sau nhà hình chỗ để xe đạp, xe mô by lết của công chức trong sở, nghe nói hồi xưa Tây bỏ bom bên kia rạp hát người ta chết nơi đây nhiều lắm, tuy sợ nhưng bắt buộc vẫn phải đi vì cả cư xá chỉ có một chỗ này. Lần đầu chưa biết đường tôi nhờ bọn nhỏ dẫn đi, đứng xa xa chúng trỏ vào một gian nhà nằm cuối góc hẻm, tuy sợ sệt nhưng tôi tự tin vì hay nghe ba tôi nói chữ Nho ‘Đức trọng quỷ thần kinh’. Miệng lâm râm câu ‘Án ma ni bát di hồng’ nghe lỏm được khi người lớn đề cập chuyện trừ ma quỷ. Vì nằm cuối khu nhà nên nơi này không có cửa đóng, nhìn vào gian tay phải có một cái lỗ tròn sau cái bàn ngồi chồm hỗm hai chân, phía trên có một thùng sắt treo sát tường có ống dẫn xuống phía dưới gần cái lỗ, quan sát xong không có gì khả nghi rùng rợn như lời đồn nên tôi an tâm xả bầu tâm sự. Vừa xong chuẩn bị nhổm dậy tôi bỗng nghe tiếng rèn rẹt giống như có người đang khịt mũi tiếp theo là tiếng nước xối xả ào ạt, hoảng hốt ba chân bốn cẳng tôi bỏ chạy ra miệng la bải hải. Bên ngoài đàng kia cả đám nhóc vẫn còn đứng chờ nhưng lạ thay hết thảy cả bọn cười ngặt nghẽo khi thấy tôi phóng ra miệng lại la hét. Thằng Nghiệp lớn đầu nhất giải thích hiện tượng xảy ra là do cái cầu tiêu tự động xả nước. Cả đám đứa nào cũng tranh nhau nói :

- Tụi tao mới đầu đứa nào cũng bị như vậy, sợ thiếu điều tè trong quần lần nữa. Còn nghe nói có người treo cổ chết trong đó nữa.

Một đứa giải thích thêm :

- Ba tao nói cái cầu tiêu của Tây này có cái thùng sắt trên cao phía sau lưng, hễ nước vô đầy cái phao nổi lên là nước tự động xả xuống cái lỗ phía dưới.

Sau khi trấn tỉnh lại tôi tài lanh chống chế :

- Tao biết câu thần chú trừ ma, tao không tin có ma, chỉ tại bất thình lình tiếng nước chảy làm tao giựt mình thôi.

Chuyện ma thì tôi nghe nhiều hồi ở dưới quê nên quen tai. Từ chuyện bác Tư hàng xóm đi thương hồ bị ma cản đường trên sông. Bác gái nói chiếc ghe chèo ngang doi đất từ chạng vạng tối đến nửa đêm vẫn không thoát khỏi khúc sông là mọi người biết đang gặp ma dắt. Con nít buổi trưa trốn ngủ đi chơi thế nào cũng gặp ma giả làm người bán bánh bò bánh tiêu, ba má đi tìm lại thấy ngồi trong bụi tre miệng ngậm đầy đất sét. Chạng vạng tối còn đi chơi sẽ bị đạp trúng thần vòng cột chân, cột cổ treo lên ngọn tre. Sợ nhất là ó ma lai hay giả làm con gái đẹp dụ dỗ thanh niên về ngủ chung để họ nằm gối đầu trên đùi còn cô gái mang cái đầu lòng thòng khúc ruột bay đi tìm phân người để ăn, người nào bị nó ăn sẽ thối ruột chết sau đó. Cũng may là con ma này chỉ thấy có ở vùng rừng núi xa xôi trên cao. Mới đây tuồng cải lương cũng có viết chuyện tựa đề “Ai lên sóc Mã Đà” kể về chuyện tình của một thầy giáo miền xuôi được chuyển về phum, sóc nơi đây dạy học. Dư luận can ngăn khi thấy người thầy đem lòng yêu một cô gái người ta nghi là ma lai rút ruột bởi cô này rất đẹp có ba ngấn chung quanh cái cổ cao hơn bình thường.

‘Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn. Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi’ ( Thơ Chế Lan Viên ).

Sóc Mã Đà rất xa heo hút tận thượng nguồn sông Đồng Nai phát xuất từ cao nguyên Lang Biang, xưa thuộc về vương quốc Phù Nam vùng đất của dân tộc Hời. Sông chảy xuống mấy trăm cây số đến đồng bằng nhận thêm phụ lưu của sông Bé, sông La Ngà để tất cả các nguồn nước từ sông Đồng Nai về đều cùng chảy vào nhà máy lọc nước Đồng Nai Thủ Đức trước khi đưa về thành phố.

oOo

Gia đình tôi thích nghi rất nhanh với hoàn cảnh mới. Được má dẫn đi một lần sáng nào tôi cũng một mình đi bộ từ nhà qua khỏi đường Lê Thánh Tôn ra đến đường Lê Lợi quẹo trái đến tiệm Bô đa mua một ổ bánh mì to một đồng mang về cho má chiên trứng ốp la làm điểm tâm cho cả nhà, trước khi ba tôi qua sở làm. Ở phố thị khác với quê chị em tôi sáng nào cũng được má pha cho một ly Ovaltine uống và chấm ăn với bánh mì, em trai tôi được uống sữa bột của Pháp. Mỗi ngày má dẫn tôi đi chợ mua thức ăn chỉ cần đi ra đường quẹo phải là đến chợ mới Saigon khác với chợ Cũ xa hơn gần bờ sông. Nhiều lần má bảo tôi xách giỏ đầy thức ăn về nhà trước, má bận gì đó về nhà sau. Thế là tôi hãnh diện vác mặt lên trời ra vẻ ta đây giỏi giang nhỏ xíu mà biết đi chợ một mình. Đời sống êm đềm tiện nghi cứ thế trôi nhanh. Rồi cũng đến lúc tôi đủ tuổi vào học lớp Năm trường Tôn thọ Tường ở đầu đường Trần Hưng Đạo nằm đối diện với rạp hát bóng Đại Nam.

Mỗi ngày đi học chúng tôi cả bọn trong xóm kéo nhau cùng đi cả trai lẫn gái vì cùng tuổi hay hơn nhau một hai tuổi. Con trai học trường Trương Minh Ký bên kia đường. Thằng Nghiệp lớn nhất đám dẫn chúng tôi không đi đường bên ngoài mà vòng vào phía bên trong sở Hỏa xa lượt về, đi ngang những thanh đường rầy xe lửa bằng sắt, vòng vèo luồn lách qua những toa xe đang đậu để đi ra cổng.

Nhiều lần cả đám không gặp nhau mạnh ai nấy đi về, sợ nhất là gặp phải những người Hời hay Thượng từ cao nguyên Lang Biang trên núi cao theo đường xe lửa răng cưa từ Dalat về ngồi dọc theo lề đường bán thuốc do họ chế biến được hái từ cây lá của rừng xanh. Họ trải miếng vải tự dệt nhiều màu sắc trên đó xác con khỉ ngồi khô queo, cái đầu gấu ngựa nhe bộ răng xỉn vàng. Cộng với bó lá thuốc, mảnh vỏ cây rừng chen cạnh những túi mật tròn tròn, dèm dẹp đen thui. Mấy hủ rượu vàng đục đầy xác lá cây cũng được bày chung quanh bán cho khách qua đường. Ban đầu nhìn họ khuôn mặt đen đúa, răng cà sát lợi, lỗ tai căng ra treo tòng teng răng thú. Đàn ông đóng khố, đàn bà đàn ông đều trang sức bằng những chiếc vòng sắt quanh cổ tay, cần cổ, chuỗi răng nanh lại dành riêng đàn ông đeo trước ngực. Một vài người nói được chút ít tiếng Kinh còn lại là thổ ngữ. Họ vẫy tay ngoắc khách qua đường mời gọi. Ngôn ngữ gọi chung tất cả là mọi cà răng căng tai chắc từ những hình ảnh này.

Thời gian dần trôi cho đến năm đảo chánh Tổng thống Ngô đình Diệm lần thứ nhất. Để cải tổ guồng máy hành chánh, chính quyền sau đó gom hết các công sở lại một nơi, sở của ba tôi thuộc ngành cảnh sát khoa học nên di chuyển về thành Ô Ma nằm trên đường Nguyễn Trãi. Hệ thống lâu nay xưa kia là của người Pháp, bây giờ sau khi ông viện trưởng du học, kỹ thuật nước Hoa Kỳ bắt đầu xâm nhập. Tính tò mò thích đọc sách nên tôi hay lấy những cuốn sách của Ba do ông này viết về Cảnh sát Khoa học điều tra những vụ án xảy ra cho nhân viên dưới quyền học hỏi, từ công việc lấy dấu vân tay hoặc cách nhận xét về dấu máu rơi xuống thẳng đứng hay nghiêng định vị nơi chốn độ cao, phân tích các tế bào máu để có kết luận tương đồng hay dị biệt. Sau này ba về kể lại có một người tham gia cách mạng chống Pháp cũng là nhà văn nổi tiếng, trước ngày bị đưa ra tòa án xét xử, ông này tự tử chết tại nơi tạm giữ. Ông để lại di thư ‘Đời tôi chỉ có lịch sử phán xét, không ai có quyền xét xử tôi’. Sau khi phân chất sở Giảo Nghiệm của ba tôi gửi bản tường trình cho Tòa án rằng trong nước tiểu ông này có chứa quá liều thuốc ngủ.

Từ trước không bao giờ chúng tôi được phép vào bên trong sở khi làm việc, bây giờ tất cả đã dọn đi gian nhà trống rỗng nên tha hồ vào xem xét cho thỏa trí tò mò. Những thùng chứa các mảnh kiếng đã chụp hình trên đó. Soi lên ánh sáng mới thấy rõ mặt người. Những cuộn phim lõi bằng sắt, mảnh phim bằng giấy đã dùng rồi vứt bừa bãi ngổn ngang. Phòng thí nghiệm còn nhiều chai lọ hình thù khác thường còn để lại trên bàn, cái chai cổ cong như cổ cò, bình thủy tinh có chân hình tam giác, những ống nghiệm cái nào cũng cao hơn một tấc đặt một hàng trên giá gỗ. Mấy cái bình thủy tinh miệng rộng còn sót lại chút cặn màu đỏ dùng để chứa tỳ bào, con gái ông Năm bóng đèn làm bên Nha Cải Huấn mới dọn về nói với tôi đó là máu khi nó dẫn tôi vào xem. Các gia đình trong cư xá phải dọn đi vì sở phải giao về cho bên Cải huấn, nhà tôi cũng vậy nhưng ba tôi còn nán lại chờ đến hè chị em tôi tạm nghỉ học để xin chuyển trường. Cư xá bây giờ chỉ còn lại vài nhà chưa dọn đi. Buổi tối nhìn dinh thự to lớn tối thui có một mình ba con Tuyết ngủ để canh gác. Thời gian trước, khi Sở chưa có lệnh chuyển đi ban ngày có hai cảnh sát gác phía cổng trước, ban đêm các thầy thư ký chia phiên mỗi đêm hai người ở lại trực sở. Lúc ấy đám con nít trong cư xá nghe đồn mấy thầy thư ký kể lại buổi tối nằm ngủ trên ghế bố sáng ra bị ma khiêng xuống đất. Bởi vậy có phá phách dữ đến mấy cũng không có đứa nào dám ra khỏi nhà khi nhìn cái dinh là một khối đen thù lù tắt hết đèn.

Sở dọn đi mấy thầy thư ký công chức cũng đi theo. Không lâu sau lại có nhiều người mới đến nhưng họ không phải là công chức nhà nước. Đám trẻ còn lại cũng chưa bỏ hết tính tò mò. Lần này bọn tôi men theo cửa sổ nhìn vào, lúc đó vào giữa cái phòng rộng lớn sắp hàng nhiều chiếc bàn dài trên có bày thức ăn, một loạt người tuần tự đi vào ngồi trên những chiếc ghế sắp sẵn, họ rất đông được những chiếc xe chở thực phẩm nấu sẵn, đậu dài theo con hẻm trong cư xá cung cấp cho họ mỗi ngày mấy lượt. Buổi tối lại càng vui nghe tiếng hát hò rất to vọng ra bên ngoài, con Tuyết con ông Năm rủ tôi vô xem, nó nói :

- Bữa nay có hai chị Ni với chế Lài nhà thầy Chín, thầy Bảo vô hát nữa vui lắm.

Tôi ba chân bốn cẳng chạy vô nhà réo rủ bà chị qua bên “nhà Hình” xem hát.Ba tôi nghiêm nét mặt cấm không cho phép các con qua bên đó, tôi tiu nghỉu không dám đi.

Hôm sau tôi lén theo con Tuyết vô bên trong nhà Hình. Bây giờ trong này trống trơn các phòng kê đầy ghế bố, sân khấu có dựng chiếc micro, người nằm, người ngồi lố nhố nghe hát, hết người này đến người kia. Lợi dụng mấy đứa mải mê xem hát thằng Khoa em con Tuyết kéo tay tôi vô gian phòng khác giới thiệu một anh tên Linh nó mới quen, anh này nói giọng người Bắc hơi trọ trẹ, tôi hỏi :

- Anh ở đâu vô đây nói giọng khó nghe quá.

Anh này cười lớn :

- Anh ở Hà Lam Linh ?

Tôi không biết địa danh này vì học môn địa lý các tỉnh thành Việt Nam không có tên này. Tôi nói với tụi con Tuyết, thằng Khoa :

- Bây giờ ở đây đông vui như vậy chắc ma nhà Hình không dám ở nữa ha. Lúc trước tụi bây kể đêm nào ông Năm ba của hai đứa cũng thấy ma khi đi gác đêm. Ban đầu một cái chân là khúc xương rớt xuống, kế tiếp là chân kia rồi cái mình là bộ xương sườn cộng với hai cái tay múa may loạn xạ, cuối cùng là cái đầu lâu nhe hàm răng vàng xỉn cải mả nhảy nhót bên cái ghế bố của ba tụi bây.

Tôi nói tiếp :

- Ông Năm chắc hết bị ma nhát nữa ha, mà mấy người họ là ai vô ở đông vậy ??

Con Tuyết trả lời :

- Ba tao nói họ là Việt Cộng đó. Hình như là đầu hàng hay hồi chánh.

Tôi nghe hai chữ này và bây giờ mới thấy, họ nói chuyện với nhau giọng Bắc nhưng rất khác với mấy thầy thơ ký của sở cũng là người Bắc nhưng di cư năm 1954.

Năm ngoái còn Sở Lục Hình ở đây, ba tôi và hết thảy mấy thầy thơ ký đi một đoàn công tác tận Cà Mau. Tất cả có nhiệm vụ đi bảo vệ thùng phiếu bầu cử Tổng Thống mang về Saigon. Ba nói với ông ngoại tôi nghe lóm được :

- Tụi con ở bên này sông, bên kia là rừng U minh họ ở trong đó nổ lựu đạn nghe đùng đùng.

Ông Ngoại tôi hỏi :

- Bộ Việt Minh không tập kết hết sao mà còn ở lại.

Lần đầu tiên tôi thấy ba lấy cây súng ngắn trong xách tay hôm đi Cà Mau đem cất trong tủ, té ra là ba tôi được cấp súng khi đi công tác.

oOo

Những con ma sở Lục Hình bây giờ chắc đã bị đuổi đi vì có những con khác có quyền phép cao cường hơn giành chỗ. Ma cao một thước nhưng quỷ vương cao một trượng, trong sách Tàu cho biết một trượng gần bốn mét. Quỷ còn độc ác hơn nhiều nó làm người ta vỡ tim mà chết hoặc bị điên khùng chứ không thèm nhát cho người sợ như Ma./.

Cỏ Biển
Mùa Halloween tháng 10/2025.


(*) Nằm đêm: xe trực bến thành phố để sáng hôm sau khởi hành đầu ngày xe đi về lại bến ở quê.
(**) Xe cây: tiếng người bình dân chỉ xe cảnh sát có vách ngăn hai bên bằng cây thời Pháp.

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2025