CUỐI ĐƯỜNG
CAO VỊ KHANH
Ai rồi trong suốt những dặm hành của cuộc lữ đoạn trường mà không có lần đứng ngơ ngác giữa một ngã ba, ngã tư, năm, sáu, bảy... Phải? Trái? Đi thẳng? Hay quay đầu lộn ngược lại lối cũ vừa mới bỏ đi. Vậy rồi có khi nhắm mắt bước càn mà suôn sẻ. Lắm lúc ngó tới ngó lui mà rồi lại bẽ bàng. Hết biết!
Có điều nói thì nói vậy chớ còn đường để lựa chọn là còn... đường. Chỉ sợ tới lúc...
Tự hỏi rồi bật cười khan. Ai hơi đâu mà tính sổ đời mình. Mà nếu dẫu có muốn chắc cũng khó mà tính toán cho sòng phẳng. Lắm khi cái muốn quên thì cứ nhớ mà cái muốn nhớ thì lại quên. Đôi khi còn điệu hạnh hơn nữa. Nhớ nhớ quên quên cứ như múa điệu nghê thường luồn qua lách lại.
Vậy mà rồi lắm khi chỉ một vết sẹo đã mờ, một tiếng chim kêu bất chợt, một trang chữ ố vàng, một câu thơ mang máng nhớ... mà rồi lại phát nhớ miên man. Nhớ có đầu có đuôi. Có tuồng tích hẳn hoi.
Lần đó, tình cờ y như mọi tình cờ trong cuộc đời rất đỗi tình cờ này bỗng được đọc lại lần nữa một bài thơ cũ, xưa rất xưa của một khách tài hoa rất ư là bạc mệnh. Những bài thơ hình thức trường qui của buổi giao thời, đông tây lộn xộn chẳng biết làm xao động lòng người đang hồi dao động của lịch sử tới bực nào. Có điều đã làm kẻ hậu thế nhiều phen buồn vui tới xót ruột. Những câu thơ tự trào làm người đọc bật cười. Thường khi không phải là nụ cười vui. Mà là cười... buồn. Thử nghĩ đến một người mà vốn liếng chữ nghĩa nếu đem so bì với hằng van người khác hẳn là không thua nửa chữ, vậy mà rốt lại phần số bất hạnh đến nổi thơ văn rồi như những đóa hồng có gai dễ làm tay người săm soi đâm ra ngần ngại. Thử nghĩ coi ngay lúc mà nền Hán học, cùng với mọi thứ giáo điều của nó, cho dẫu đang hoi hóp vẫn còn rậm rật trong đời sống tinh thần của dân tộc, người thi sĩ đó vẫn sẵn sàng xé rào vượt thoát ra, bất chấp. Làm thơ trêu chọc thiên hạ, bất kể. Mà nhất là làm thơ để bỉ thử đời mình, bất hủ.
Một trà, một rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái nào hay cái nấy. Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Hay cay nghiệt hơn nữa
Vị Xuyên có Tú Xương. Dở dở lại ương ương. Cao lâu thường ăn quỵt. Thổ đĩ lại chơi lường.
Thử hỏi từ những bậc cao nhân chót vót đến hạng phàm phu lù khù từ xưa đến nay đã mấy ai dám mạnh miệng để tự rủa mình đến vậy. Thói thường, thiên hạ có tự trào tự biếm gì cũng thường nhẹ tay, nói khéo hay lắt léo cho nhập nhằng nghĩa bóng nghĩa đen. Đằng này, giọng điệu bóp chát, xỉa xói thẳng thừng... tưởng đâu như đã thù nhau từ mấy kiếp. Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ. Rượu chè trai gái đủ tam khoanh. Đã mấy ai...!
Nhưng rồi tưởng vậy mà không hẳn vậy. Đến khi nghe ông tự tình khi tương tư bạn vì ly biệt mới thấu được cái tình người nơi ông thăm thẳm đến bực nào. Ta nhớ người xa cách núi sông. Người xa xa lắm nhớ ta không. Xa... xa lắm. Thử một lần xướng thanh lên coi. Xa... xa lắm... ới ơi giọng thơ nhẹ như hơi thở, êm như ru mà hổng chừng làm rụng tim người ta lúc nào chẳng biết. Sao đương vui vẻ ra buồn bã. Vừa mới quen nhau hóa lạ lùng. Chữ nghĩa thơ Đường Luật thường nghe rổn rang như hát bội, vậy mà ở đây thơ đọc lên nghe êm như tiếng ai nhỏ nhẹ, thủ thỉ bên tai. Rõ là vì tình người nơi ông vằng vặc như trăng rằm. Nó sáng loang ra hết mênh mông trời đất. Mà nó lại soi chiếu tới tận mọi hóc tối li ti. Bạn ông hay bất cứ ai đã có lần ly cách, đọc thơ ông làm sao không rung động đến bồi hồi. Bởi vậy phải nói là hết xẩy. Mà còn hết xẩy hơn nữa khi người nho sĩ bạt mạng ấy đã có lần chép miệng mà ngậm ngùi, trước những tang thương của lịch sử:
Sông kia rày đã lên đồng. Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
Tiếng ai gọi đò! Trời... cái thứ tiếng gọi ơi ới, có khi tác hoác có khi giựt ngược giữa chiều nắng quái hay giữa đêm hun hút một khi đã mất theo con đò ngang kể từ khi sông lấp, thật ra có đáng gì đâu giữa cái ồn ào của thế sự thăng trầm như giựt ngược, vậy mà ông nhớ. Ông nhớ vì thứ tiếng-kêu-mất-biệt đó tượng trưng cho cả cơ đồ xương máu của ông cha cũng vừa bị cướp mất. Người thi sĩ ấy, người chất chứa bao nhiêu đoạn trường trong cái đầu loạn lạc và trong con tim thương tích của mình. Nhớ lại mà thương. Và trân trọng.
Thử nghĩ coi...
Ông Trần Tế Xương. Chuyện đời ông thiên hạ đã nhắc đến nhiều. Trong các bộ sách giáo khoa, hồi đó cho tới bây giờ. Ngày tháng năm sanh, chuyện học hành thi cử, chuyện vợ chồng con cái... cũng chẳng khác bao nhiêu với lận đận của mấy kẻ tài hoa mà bạc phận. Kể cả thứ chuyện ồn ào nhất mà thiên hạ trăm người hết chín mươi chín kẻ muốn giấu giếm... chuyện ăn chơi của mình mặc dầu vẫn lấm lét... ăn chơi! Nhưng ông thì... không. Không, ông nói hết, kể sạch mọi thứ. Giữa khi đất nước ngửa nghiêng, theo kiểu trăm dâu đổ đầu tằm, mọi thứ hư hỏng, thất bại, nước mất, nhà tan... thi nhau đổ thừa cho cái đám nho sĩ cuối mùa mà ông đã xui rủi đầu thai vào không đúng lúc, thơ ông vẫn ra rả, mặc tình thiên hạ... Và đề tài thì bất kể, kể cả “cái tôi” là thứ mà ngay cả kẻ mặt dạn mày dày vẫn thường hay lấp liếm. Do vậy mà càng nhớ lại càng thấy thương ơi là thương, thứ tay chơi giang hồ lạc phách. Ông mất khi mới được có 37 tuổi. Cái tuổi vừa chín tới để mềm môi nếm đủ thực phẩm của trần gian. Vậy mà!
Người ta nói về thơ ông đã nhiều. Người ta phân tích, xếp loại, khen chê... cũng đã lắm. Có người hâm mộ cái lối trào phúng của ông tới nỗi dựa vào danh xưng ông mà lấy làm bút hiệu. Từ Tú Xương rồi là... Tú nầy, Tú nọ... Đến cả mấy đời sau...
Lần này không biết do đâu như đã nói, rồi... tình cờ đọc lại một bài thơ hiếm hoi không thuộc loại giễu đời giễu mình. Bài thơ có tựa là :
LẠC ĐƯỜNG
Một mình đứng giữa quãng chơ vơ
Có gặp ai không để đợi chờ
Nước biếc non xanh trông vắng vẻ
Kẻ đi người lại dáng bơ vơ
Hỏi trời chỉ thấy mây xanh biếc
Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ
Đường đất xa khơi ai mách bảo
Biết đâu mà ngóng đến bao giờ?
Bảy chữ tám câu, tính nhẩm là năm mươi sáu chữ. Thứ chữ nôm na mà có lúc người ta dèm pha nôm-na-là-cha-mách-qué. Mách qué đâu không biết chớ từng chữ từng câu không gò ép, không khuôn sáo mà làm quặn lòng người đọc, dẫu đã cách nhau hơn cả thế kỷ rưởi dài ngoằn. Đọc thơ ông để thấy ông làm thơ dễ như trở bàn tay. Thơ đâu như đã sẵn. Cứ vẩy bút là ra thơ. Nói vẩy bút hổng chừng nghe ra khuôn sáo. Đọc thơ ông, lắm lúc tưởng chừng như thơ đâu đã sẵn trong ngôn ngữ nói hằng ngày. Nghe được hẳn có người bỉu môi. Có điều thơ mà không tự phát, mà cực khổ cắn bút vò đầu thì thơ chi cho khổ thân. Ông tú làng Vị Xuyên làm thơ như nói chuyện. Chữ nghĩa rõ là dư dả. Chuyện gì cũng thơ được. Hổng lục bát thì hát nói, rồi Đường luật, văn tế kể cả phú. Còn đề tài thì bá nạp. Ngay buổi giao thời, cái tốt cái xấu mà hẳn là cái xấu nhiều hơn bày đầy ra đó. Nói chuyện người chưa đã ông quay lại nói chuyện mình. Thương nhất ở chỗ ông hay tự đem mình ra mà bêu rếu. Không ít người đã nghiêm khắc phê phán. Có điều... có điều thử nghĩ lại coi. Ai không biết sao chứ kẻ hậu sinh này đọc thơ ông tự trào càng thấy thương cảm. Sử sách kể lể ông thông minh vậy mà rốt lại rõ là một đời người thất bại. Có thể chăng, đó là sự thất bại của một kẻ mà bản chất phóng khoáng, nổi-loạn đã tiềm ẩn từ bẩm sinh (?) Cái chuyện phải gò mình uốn ép vào trăm thứ trường quy-lắm khi vô lý vô tình vô nhân rất mực- hổng chừng cũng đã làm bực bội hơn một kẻ tài hoa vốn quen thói phóng đãng như mây trời ngày gió lớn. Sau mấy lần lều chõng đến trường thi, rốt lại chỉ được cái tú tài mà dường như rốt bản. Vói cao thêm mấy lần mà rồi chỉ vuột tay... Trong khi đó những ông nghè, ông cống quanh quanh chưa chắc đã tài giỏi hơn ông. Biết đâu họ thành công vì họ biết nhún mình. Còn ông, biết đâu như đã nói, không võng lọng vinh quy chẳng qua vì bản chất ông không gò bó được vào những chi-hồ-giả-dã quá ư cứng ngắt. Giữa buổi hoàng hôn của cái-học-nhà-nho, thứ chuyện ngọc-trầm-thủy-thượng hẳn là không ít. Từ đó, những bài thơ tự trào (tự bêu rếu mình) hay giễu đời có phải là những phản ứng đối nghịch của một bản chất cao ngạo, không chịu bị ép uổng vào những khuôn khổ chật hẹp của trường thi cũng như của lề thói xã hội đương thời. Có phải từ đó mà phát sinh cái giọng điệu cuồng ngâm, thơ văn bất chấp. Đường công danh lận đận, ngay giữa lúc đổi-đời không thiếu cảnh chó-nhảy-bàn-độc, khách tài hoa như con nước lớn trái mùa, đê điều nào mà đủ sức can ngăn. Người hẳn đã lắm lần tuyệt vọng. Giận phận rồi sinh ra giận đời. Giận đời rồi giận mình cũng chỉ là cái vòng lẩn quẩn. Tự thán rồi tự biếm lúc nào chẳng hay. Rồi như cơn gió chướng ngược mùa, thổi tứ tung bất cần phương hướng. Tù túng giữa cái lồng đời chật hẹp đâm ra lêu lỏng là lối thoát chót (nổi loạn hay nói cho văn vẻ hơn, phản kháng) của một khách tài hoa bị vây bọc bởi thứ luân thường đạo lý vừa khắt khe hẹp hòi vừa giả tạo. Nhớ xưa kia ông Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã có lần than thở giùm cho nàng cung nữ bị thất sủng bằng cái phát giác động trời. “Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán. Chết đuối người trên cạn mà chơi”. Sao kỳ vậy. Sao độc tài vậy. Vậy nếu trời đất ức hiếp ta thì sao ta không tung xiềng xích mà ra, kiểu như nàng cung nữ đã có lúc phát ức tới muốn đạp tung cửa phòng cho hả giận. “Đang tay muốn dứt tơ hồng. Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”. Dĩ nhiên phận đàn bà con gái, kêu gào vậy rồi thường khi nín lặng mà chịu đựng. Chớ còn phận nam nhi chi chí như ông Tú thì khỏi nói. Ép uổng mình để chịu đựng những vô lý tới kỳ cục quả là thứ cực hình vô độ. Bởi vậy, lắm khi sống buông thả cũng chỉ là những vùng vẫy trong tuyệt vọng của khách tài hoa giữa vòng dây thắt nghẽn của xã hội. Và từ đó, thơ trào phúng là một thứ phún xuất thạch từ lòng một hỏa diệm sơn đã tới kỳ phun lửa. Thơ bêu riếu cái xã hội hư đốn qua lối tự bêu riếu mình có phải là phản ứng của một sự bất lực đến chua chát trong cảnh hoàng hôn của hạng người từng được gọi là kẻ sĩ. Từ đó, thơ tự trào đem mình ra giễu cợt cũng chỉ là một thứ biện chứng tam đoạn luận ngược chiều. Vạch trần hư hỏng tự thân vốn là một phần của xã hội để lộ ra cái hư hỏng của toàn thể xã hội buổi giao thời. Thêm nữa, cái lối tự bêu riếu lắm khi rồi chỉ là phản ứng của kẻ tự cao. Tự xử mình hơn là đợi người xử mình. Bởi vậy đem mình ra làm trò cười cho thiên hạ chưa chắc là tự hạ mình. Diễu mình để diễu đời, có phải? Chỉ có điều diễu mình rồi đắng chát lòng mình hẳn là không kịp chờ một tiếng chắc lưỡi..
Sự thất bại trên đường công danh của một kẻ văn hay chữ tốt, trong thời kỳ hấp hối của cái-học-ngày-xưa-đã hỏng-rồi hẳn đã có lúc làm tuyệt vọng. Tự ái đôi khi khiến người ta không chịu thua. Lao đầu vào cuộc chơi trác táng lắm khi là lối phản pháo của người cao ngạo đối với thứ số phận hẩm hiu. Tuyệt hơn nữa là chẳng thèm giấu diếm. Rượu chè gái gú, chuyện nhỏ. Tổ tôm xóc dĩa có phải là cuộc thách đố trực tiếp với số mệnh vốn vẫn thường chơi xấu. Dĩ nhiên cái chuyện bỏ mặc cho bà tú quanh-năm lặn-lội-ở-mom-sông quả là chuyện đáng trách cho cái thân làm chồng làm cha. Nhưng-lại nhưng- làm sao thấu suốt được tâm trạng người đàn ông lỡ vận đúng lúc lịch sử lỡ thời. Giữa cái bát nháo của xả hội đang lúc đổi-đời, người có chữ lắm khi như một hình nhân vô hồn. Giận đời, tức mình mà chẳng biết trút nỗi bất lực vào đâu. Lối thoát còn lại? Nhất-phá- sầu-thành-tư-dụng-tửu. Nhưng rồi có ai biết túy-tự-túy-đảo-sầu-tự-sầu. Bên cạnh đó, những hồng-nhan-tri-kỷ lắm khi cũng chỉ để trút cho hả cơn sầu bất lực trước những đảo điên của thế sự. Đời còn có chữ “bất đắc chí”, từ đó phản ứng thành những hành động thiên hạ gọi là “bất cần đời”. Có vậy chăng?
Thôi, lê thê quá người ta nói mình đồng lõa với... tội lỗi.
Trở lại với bài thơ Lạc Đường, quên lâu rồi như đã quên mớ văn thơ của một thời... đã và đang quên!
Mà thật ra có lạ lùng gì đâu, bài thơ được chép tay ngay ngắn trên giấy trắng mực xanh từ khi mới nửa chừng trung học. Rồi theo đời mỗi năm mỗi lớn, theo cái học mỗi lúc mỗi học tới học lui. Từ thầy trung học. Rồi thầy đại học. Cả đến khi hết học rồi đâm ra đi dạy học vẫn còn dịp nói tới nói lui thơ của ông. Kể cả bài thơ nói trên.
Có điều mỗi lúc đọc rồi sao thấy mỗi khác. Cái lúc chong mắt vểnh tai, ngồi xếp re nghe thầy giảng đến lúc vênh váo phấn trắng bảng đen rêu rao chữ nghĩa đã thấy ngờ ngợ điều gì trong lòng mà không thể nói ra hết. Rõ là miệng đời cứ hay xiên xỏ. Cứ nhắm vào chỗ trác táng của ông mà dè bỉu. Hết trụy lạc đến phúng thích để cười hùn. Còn cái chuyện nước mất nhà tan của ông thì nhấp nháy trên đầu lưỡi. Nghĩ lại mà xót xa.
Ai biểu ông Tú làng Vị Xương chỉ ham chơi mà không biết lo chuyện nước non. Ông lo buồn chớ. Kinh thành Huế thất thủ năm ông 15 tuổi. Từ đó, những biến động lịch sử làm chảy máu đất mẹ làm sao không gây ra thương tích cho ông mà lòng riêng còn như tờ giấy trắng. Ông lớn lên theo những thua buồn của vận nước. Nỗi buồn vong quốc hẳn đã đeo đuổi ông suốt một tuổi thanh xuân cho đến lúc thành nhân -Ai đã từng khắc khoải triền miên vì cơn địa-chấn-tháng-tư hẵn cũng biết rõ- Người kêu gào rát cổ. Người nuốt hận, lặng thinh. Ông Trần Tế Xương đâu khác ai, hẳn cũng đã thao thức chờ. Ông đã thắc thỏm đợi như hằng bao nhiêu bậc trí giả khác khi phải bó tay chịu trận. Ông đã đợi nước tới bạc phơ đầu tóc. Đợi chờ vậy rồi cũng y như hằng bao nhiêu người khác... đã đợi, đã chờ mà rồi cũng đành bó tay chịu trận. Nghĩ ra mà thương. Mà tội khi so với phận mình! 90 năm sau, Sài Gòn mất tên! Ai đã làm được gì sau cơn tai biến sụp trời kiểu tháng 4 năm đó!!! Thân phận từ đám dân đen đến thầy chú rồi có khác con sâu cái kiến giữa những đòn thù thâm độc của đám quyền lực vô nhân, vô đạo, vô số vô... Mọi vùng vẫy phản kháng rồi cũng chỉ là của cá đã chậu chim đã lồng! Trốn lánh bỏ đi rồi cũng chỉ là những phản kháng trăm phần tiêu cực. Ô hô! Ai tai!
Đến bây giờ, ngày tháng này!!!
Đến bây giờ, ngày tháng này, ở một nơi không phải quê nhà tính ra đã xém nửa thế kỷ bể dâu, giữa khi bóng ngày đã xế, đọc thơ ông mà sao lòng sấp ngửa như chính mình đang đứng giữa một ngã rẽ... vô định. Quanh đi quẩn lại, trống trơn. Soi thấu lòng mình, trống hoác. Một mình đứng giữa quãng chơ vơ. Có gặp ai không để đợi chờ. Bài thơ vốn có tựa là Lạc Đường. Cũng chỉ là môt cách nói trớ để mấp máy nỗi lòng vong quốc. Mà hổng chừng hơn nữa, còn ẩn mật một câu hỏi kiếp người. Thứ câu hỏi làm thốn tâm thiên cổ.
Vòng vo thêm chút, không biết bữa đó ông Trần Tế Xương đi đâu để đến nỗi lạc đường, chớ còn ngày tháng này, đọc lại sao không thấy có còn đường nào để lạc. Mà chỉ thấy ra cái mịt mùng của năm tháng cũng như cái trống trơn của cuộc đời. Thật ra, nếu còn lối rẻ đường ngang thì còn có cơ lựa chọn, dẫu có trật trịa thì cũng đáng phận làm người. Còn đằng này... Nước biếc non xanh trông vắng vẻ. Kẻ đi người lại dáng bơ vơ. Ngó quanh ngó quất mà sao rồi phố thị hay rừng xanh, hay đường dài ngõ tắt hay kẻ lạ người quen... mọi thứ rồi ra cũng chỉ là đối tượng để so đo cái trống hoác của đời mình. Rõ ràng những dấu mốc của một thời năng nổ, rồi ra cũng chỉ là những chứng tích của một sự ngộ nhận cay nghiệt. Tưởng là như vậy mà rồi không phải vậy. Cho đến một lúc, một lúc nào đó, những thành bại trên con đường đời dài ngắn, suông sẻ hay ngoằn ngoèo, rồi ra cũng chỉ là những ảo ảnh, Có rẽ trái hay rẽ phải rồi ra cũng sẽ đến một nơi. Một nơi vắng vể khi đã tóc bạc phơ!!!
[Nghĩ lai coi, có phải? -Đi lạc là vì có một nơi muốn đến để lạc, có một đích nhắm để nhắm tới. Đằng này, đã đến lúc dẫu có ngóng cổ nhóng tới nhóng lui rồi sao cũng chỉ thấy... mịt mù. Rồi ra quanh quanh chỉ là một sự tĩnh mịch đến ngỡ ngàng.
Hỏi trời chỉ thấy mây xanh biếc. Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ. Đường đất xa khơi ai mách bảo. Biết đâu mà ngóng đến bao giờ?]
Thử hình dung ra những bước chót của một cuộc hành đã đòi phen trắc trở, có lúc nhìn quanh còn trơ trọi mình ta mà dặm trường thì càng lúc càng mù thiên lý, thử hỏi còn buồn nào hơn. Thêm nữa, rồi có phải đáy cùng của nỗi buồn là... niềm tuyêt vọng khi thấy mình cứ hoài ngóng cổ đến... hư không. Đường đất xa khơi ai mách bảo. “Ai mách bảo” rõ là cách nói bóng gió để che giấu nỗi cô đơn của kẻ cuối đường. Hay để cố vớt vát chút niềm tin dù đã gần như trăm phần vô vọng. Đường đời đã mỏi mà cái chờ cái đợi thì cứ mù tăm. Tội hơn nữa khi nhìn ngó quanh quất mà rồi chẳng có còn ai để hỏi han, ít nữa để san sẻ chút lòng riêng đã muộn. Những người bạn đường của một thời hùng khí, mỗi ngày mỗi thưa thớt... Rồi cũng đến lúc... vắng tanh!
Câu kết của bài thơ đọc lên mà nghe xót xa cả dạ. Biết đâu mà ngóng đến bao giờ. Biết đâu là... biết đâu. Đông?,Tây? Nam? Bắc? Trên? Dưới? Trái? Phải? Bao giờ là... bao giờ? Nay. Mai. Mốt. Bữa kia. Bữa kìa. Năm ba bữa nửa tháng. Năm ba năm. Vài mươi năm. Nửa thế kỷ. Hay là còn có bao giờ!
Đường đất xa khơi ai mách bảo. Ai mách bảo. Câu thơ ở thể nghi vấn mà câu trả lời đã tiềm ẩn thể phủ định. Một cách nói khéo để khỏa lấp nỗi cô đơn giữa cái im ỉm dị thường của định mệnh. Rõ là chỉ còn đó, một mình. Một mình!
Rồi ra cái chuyện tìm đường vì lạc đường cũng chỉ là cách thức để dổ mình lây lất một ảo tưởng!
Biết đâu mà ngóng đến bao giờ? Dường như là một câu tự thán hơn là một câu hỏi. Lẽ ra dấu hỏi (?) phải được thay bằng một dấu chấm than (!). Biết đâu mà ngóng đến bao giờ! Hổng chừng hợp tình hợp cảnh hơn chăng? Mà hổng chừng còn hơn vậy nữa. Cái tựa Lạc Đường nếu được phép sửa lại là Cuối Đường hay là Cùng Đường sẽ đúng điệu hơn chăng cho cả đám đã lưu vong ngay trên lòng đất mẹ ngay từ cái ngày định mạng đó. Đã có kẻ bỏ xác sau những rào thép gai và những con mắt cú vọ. Hoặc bỏ thây trên sóng biển hay giữa rừng sâu. Có kẻ may mắn hơn tới được bờ vớt vát lại mớ tự do đã bị cướp mất. Rồi từ đó đã mòn con-mắt-phương-trời-đăm-đăm đúng năm mươi năm chẵn. Tính nhẩm cũng không sai sót sức nặng của thời gian đã chập chùng lên vai lớp lớp! Sức nặng đó đâu có thua gì đá tảng. Vậy thì, nếu gọi là CUÕI ĐƯỜNG có làm tức tưởi những ước thề đã lỡ?!
Nếu kể trăm năm là một kiếp thì cũng gần nửa phận đời đã tiêu pha nơi chân trời góc biển, giờ còn vốn liếng gì đây mà bày đặt kể chuyện nước non cho không thẹn mặt với người xưa.
Ta sống sót nghĩ thương trời đất rộng. Đón triều lên, giáp nước, quạnh hiu dầy. Ngó quanh quất bỗng tuôn hàng lệ mỏng. Còn ai không ngồi đếm chuyện thề phai.
Nghĩ tới nghĩ lui rồi muốn kêu trời trách đất... mà nghĩ lại rồi chỉ thấy giận mình! Quả là vậy! Khỏi đổ lỗi ai cho mắc công. Đã mơ đã mộng đã ước vọng hẹn thề rồi quanh đi quẩn lại chỉ còn có nước đọc thơ ông Trần Tế Xương mà... ngậm ngùi kể lể.
Một mình đứng giữa quảng chơ vơ
Biết đâu mà ngóng đến bao giờ!
Thêm vào bao nhiêu cái chấm than nữa cho vừa với cái tội đã có lúc ơ thờ như khách bàng quang đứng bên lề lịch sử. Giờ còn than tiếc nỗi gì. Nước mắt, nếu có hổng chừng nuốt ngược vào lòng cho đỡ phần bộ tịch.
30, 40 năm. 45 năm. 50 năm. Thời gian chẳng những không đợi không chờ mà thời gian còn bỏ đi vùn vụt. Đời người thì hữu hạn mà lịch sử thì vô hạn. Rốt lại con người rồi ra chỉ là những người khách qua lại rất ơ thờ. Chừng biết muộn thì quả thật... đã muộn rồi. Có tiếc nuối mà chắc lưỡi thì cũng chỉ là tiếng chắc lưỡi của Thạch Sùng.
Biết vậy, đã vậy, mà rồi.. chứng nào tật nấy!
Đời đã dạn dày kiếp sống lưu vong, giờ đã thân yên phận bày mà sao còn trông mong ngày quay vòng trở lại. Khổ nổi, đời đã quay lòng vòng đúng nửa thế kỷ, tuổi trẻ ngày đi đã chồng thêm nặng chịch không biết bao nhiêu lần năm tháng mà đất đai sông nước bỏ lại cũng trải dầy thêm biết mấy độ tang thương, lòng người chìm nổi đã biết bao lần dâu bể thì đến nay, cái chuyện cùng đường hổng chừng là cái số phận đúng nhất của kẻ... đường cùng.
Tại vậy mà nên nỗi, đọc LẠC ĐƯỜNG lại nghĩ thành CUỐI ĐƯỜNG! Cho đáng đời!!!
Ngày đã muộn cho những lòng lận đận.
Cao Vị Khanh
-tháng 4 năm 2025- |