SỐ 108 - THÁNG 10 NĂM 2025

 

Đời Thủy Thủ 3

Vũ Thất

http://www.bienkhoi.com/so-107/doi-thuy-thu-3_image002.jpg
Art by James Flood

(tiếp theo)

Chương 3

Từ An Thới qua Hòn Đốc

Hạm trưởng Võ Bằng rời Phòng Tình Hình Bộ Tư Lệnh Vùng, về đến chiến hạm liền cho lệnh họp sĩ quan.

Mười phút sau, anh bước vào phòng họp. Tất cả đứng nghiêm. Anh ra hiệu “ngồi”.

Cố vấn Mỹ mỉm cười:

– Good morning, Captain! Have good day.
– Cám ơn. You too.

Võ Bằng nhìn quanh các sĩ quan, giọng bình thản, dứt khoát:

– Như cũ, công tác tám ngày, nghỉ bến hai. Lần này, trục Bắc đảo – Quần đảo Hải Tặc. Tàu mình từng hoạt động tuyến này chưa?

Mọi người hoặc lắc đầu, hoặc im lặng. Hạm phó lên tiếng:

– Thưa Hạm trưởng, theo tôi biết thì chưa.
– Tôi cũng vậy. Ngẫm nghĩ cũng khá thú vị! Chuyến đầu tiên với tư cách Hạm trưởng lãnh ngay cú… ngựa phi đường xa, từ Mũi Ông Đội cực Nam đến Mũi Trâu Nằm cực Bắc. Tôi tuổi Sửu chớ có là … ngựa đâu!

Tiếng cười rộ nhẹ. Cố vấn Mỹ ngơ ngác, Võ Bằng đành dịch lại, rồi tiếp:

– Phú Quốc cách Hà Tiên khoảng 70 cây số. Quần đảo Hải Tặc cách Hà Tiên chừng một phần ba. Năm 64 tôi từng lên Hòn Đốc khi còn phục vụ trên hải vận hạm. Đảo cát trắng sạch, cây rậm rạp, dân chài khoảng trăm người. Một cụ già dẫn tôi xem mốc chủ quyền – khắc chữ “VIỆT NAM CỘNG HÒA – QUẦN ĐẢO HẢI TẶC”, dưới có hình hai mỏ neo gác chéo. Trên bệ đá, ghi tên 16 đảo, trong đó có Kèo Ngựa, Kiến Vàng, được đặt tên cho hai Tuần duyên hạm.

Anh quay sang cố vấn Mỹ:

– Do you know “Pirate Islands”?
– No, sir.

Vừa dịch xong thì Thiếu úy Ngô Quang hỏi:

– Thưa Hạm trưởng, tên Hải Tặc nghe rùng rợn. Có hải tặc thật sao?
– Ngày xưa, có. Ông bà ta thường đặt tên theo sự kiện. Như đất nền cao ở Mỹ Tho trồng toàn dứa nên đặt Giồng Dứa. Hay một con sông có nhà trên bè nổi dành cho giới thương hồ ghé nghỉ ngơi gọi Nhà Bè.  Quần đảo Hải Tặc xưa là nơi hải tặc ẩn trú. Nay thì không còn. Nhưng thay vào đó, là cộng tặc - và chúng thích hành động ban đêm.

Võ Bằng mở bao thơ đóng dấu MẬT. Mắt lướt quanh bàn họp. Trong lễ bàn giao, các sĩ quan đã xưng tên, chức vụ

- Nhưng anh chỉ nhớ vài người.
– Sĩ quan Truyền tin? - Anh gọi.

Một người giơ tay. Võ Bằng nhìn bảng tên “Bùi Anh Tuấn”, đưa xấp tài liệu:

– Đây là đặc lệnh truyền tin. Chuẩn bị sẵn tần số liên lạc với hai Tuần duyên đỉnh, hai Chiến thuyền, và Đài kiểm báo 402 trên đảo Hòn Đốc.

Anh lại lướt qua từng người:

– Hải hành?
– Thưa tôi, Trung úy Đặng Thành Tài.
– Anh kẻ hải trình từ đây đến Quần đảo Hải Tặc. Thận trọng tránh khá xa bãi cạn, đá ngầm. Tôi cần đường an toàn, không cần nhanh nhất.

Rồi quay sang Hạm phó:

– Tình trạng kỹ thuật tàu đã kiểm soát chưa? Súng? Đạn? Xuồng? Phao nổi?
– Đã kiểm tra. Tất cả khiển dụng, đầy đủ, thưa Hạm trưởng.
– Tốt.

Anh nhìn sang Sĩ quan An ninh:

– Có ai lạ trà trộn? Tàu này có thể tin cậy chứ?
– Thưa Hạm trưởng, trăm phần trăm. Không có ai đáng nghi ngờ.

Thiếu úy Dương Công Đức – phụ trách ẩm thực – nhăn mặt:

– Về thực phẩm… An Thới quá thiếu rau thịt trái cây. Trước đây, cựu Hạm trưởng cho tàu đi chợ Hà Tiên hoặc Rạch Giá. Hiện tại, lương thực chỉ đủ ba ngày.

Võ Bằng gật đầu:

– Đồng ý. Nếu kẹt hành quân, ta ăn cá tôm cua mua từ ngư dân.

Người cười, người lắc đầu. Võ Bằng quay sang cố vấn:

– Anh hiểu chứ?
– Not all. Something about eating crab?
– Exactly. When rations are low, we look for fisherman.

Tiếng cười rộ lên. Võ Bằng nhìn sang sĩ quan cơ điện:

– Nhiên liệu tàu?
– Hầm dầu đầy, thưa Hạm trưởng.
– Tốt.

Võ Bằng đứng dậy:

– Cho tập họp tất cả. Tôi cần nói đôi lời.

Tiếng còi tập họp nổi lên. Các sĩ quan rời phòng, lên boong chính. Trên đường đi, anh dặn dò cố vấn Graham sẵn sàng không yểm khi cần.

Ít phút sau, Võ Bằng đứng trước hàng quân chỉnh tề:

– Anh em Trợ Chiến Hạm Rạch Gầm. Đây là tàu của chúng ta. Là nhà, là pháo đài, là chốn sống chết. Chúng ta ăn, ngủ, hành quân cùng nó. Vì thế, mọi người đều có trách nhiệm.

Giọng anh trầm xuống:

– Tôi mong mỗi người mang hết khả năng hải nghiệp của mình để hoàn thành mỹ mãn công tác. Mọi sáng kiến cải tiến đều được hoan nghênh. Tôi đặt trọn niềm tin vào anh em.

Võ Bằng dứt lời. Cả boong tàu lặng như tờ. Rồi nở ra những nụ cười mỉm, tự hào. Lệnh giải tán được ban ra.

Năm phút sau - còi nhiệm sở vận chuyển vang lên…

***

Đứng bên hữu mạn đài chỉ huy, Võ Bằng lặng nhìn khối sắt khổng lồ rời cầu, lướt nhẹ qua từng lượn sóng nhịp nhàng thư thả tiến ra khơi.

Anh tựa tay lên thành thép mới sơn, thở nhẹ. Gió đầu mùa Đông Bắc mơn man khuôn mặt, mang theo mùi mặn dịu dàng của biển khơi. Trời cao, nước biếc đón mừng tân Hạm trưởng.

Anh bước chậm tới chiếc ghế dành riêng cho mình, thả lỏng người. Một làn hơi ấm chạy khắp sống lưng. Nhẹ nhõm. Mọi xui rủi đã lùi lại phía sau. Ước mơ ngày xưa giờ đây đã là thực tại.

Một ngày nào đó, anh sẽ về quê Đa Phước khoe với ba mẹ rằng thằng con đi học Sài Gòn, ngày ngày cuốc bộ đến trường, không tiền về quê nghỉ hè, phải mò xuống bến chợ Bình Tây xin quá giang ghe chài và chỉ dám mơ ngày được làm tài công, mà nay nó ngồi ở ghế chỉ huy một chiến hạm Hải quân.

Võ Bằng nhất định mời cho được ba mẹ lên Sài Gòn thăm viếng, nhìn tận mắt chiếc trợ chiến hạm. Anh không tưởng tượng được niềm hãnh diện của ba mẹ ra sao!

Đồng hồ chỉ đúng 10 giờ. Máy tiến 3. Tốc độ 10 hải lý. Phiên trực đầu tiên của Chi đội 1. Trung úy Đỗ Văn Lũy đứng phiên, bên mạn tả. Ba người luân phiên giữ tay lái, hai quan sát viên ở vị trí. Radar và máy đo độ sâu đang hoạt động tốt.

Chiến hạm lướt qua Hòn Rơi, đổi hướng 090 độ, cắt ngang Hòn Dăm Ngoài. Rồi rẽ lên 045, hướng về Mũi Ông Đội - điểm cực nam Phú Quốc. Nơi đó, năm xưa, anh từng chứng kiến một tai nạn lật ghe: biển lặng, trời quang, vậy mà một đợt sóng đột ngột dội vào, ghe lật úp, chìm luôn, ba ngư dân suýt mất mạng, nếu tàu không kịp cứu.

Chiến hạm không sợ sóng, chỉ ngại rạn san hô lờ mờ như bóng ma rình rập. Hải trình đã kẻ tránh chúng, nhưng chẳng bao giờ được chủ quan. Anh đang ở vào vị trí không còn ai để chia sẻ quyết định, không còn lý do để quy lỗi về người nào khác.

Trên hải đồ, dòng chảy ngầm đã hiển lộ. Gió mùa Đông Bắc chính thức bắt đầu. Võ Bằng quay sang sĩ quan trực phiên:

– Nếu không có biến cố, ba tiếng nữa sẽ đến Hải Tặc. Tức khoảng 2 giờ chiều. Kiểm soát tọa độ mỗi 15 phút. Nhớ, các anh sai, tôi mất chức đã đành, thậm chí tính mạng cả tàu lãnh đủ. Hãy luôn nhớ: một hải trình êm đềm, chỉ trên… hải đồ!

Chợt nhớ kinh nghiệm nội tuyến, anh hỏi Hạm phó:

– Lâu rồi không thực tập phòng tai?
– Dạ, khoảng ba tháng.
– Vậy rất nên thực tập. Anh cho báo động giả định “cháy ở hầm máy, chạm điện”.
– Rõ. Thưa Hạm trưởng.

Hạm phó rời đài chỉ huy. Vài phút sau - chuông khẩn cấp vang lên dồn dập, xé toạc trưa yên ả. Loa nội bộ vang tiếng Hạm phó:

“CHÁY HẦM MÁY! CHÁY HẦM MÁY! Toán 1 – vòi chữa lửa, tiếp cận cửa hầm!”

Cả chiến hạm chuyển động. Nhân viên chạy ào về sân trước – sân giữa. Tiếng bước chân rầm rập vang khắp tàu. Giọng Hạm phó gấp gáp:

– Báo cáo Hạm trưởng có tiếng nổ ở máy chính! Dầu cặn trào ra, lửa bốc cao, khói dày đặc. Hai nhân viên cơ khí đã khóa các van nhiên liệu. Lửa hạ rồi lại bùng lên ở bảng điện. Có tia lửa tóe mạnh.

Võ Bằng cầm ống loa:

“Toán 2. Mặc áo cứu hỏa, đeo mặt nạ dưỡng khí. Xuống hầm máy! Thi hành ngay!”

– Xin Hạm trưởng báo cho họ biết máy điện tắt, cầu thang, sàn trơn trợt, phải hết sức cẩn thận. Có hai nhân viên bất tỉnh, xin cho toán cấp cứu.

Một lúc sau, Hạm phó gọi lên:

– Toán 2 đã mở van CO₂. Khí trắng đục đang phun từ trần xuống. Nhân viên đã rút ra. Cửa hầm đã khóa kín.

Trên boong, hạ sĩ y tá đang ép ngực hồi sinh cho một thủy thủ bất tỉnh. Một người khác nằm quấn chăn cách nhiệt.

– Vị trí chiến hạm? – Võ Bằng hỏi.

Sĩ quan trực phiên đáp nhanh:

– Nằm trên hải trình. Cách Hòn Đốc 18 hải lý.

Võ Bằng gật đầu, rồi xuống boong quan sát trực tiếp việc cứu thương. Ngực người lính trẻ phập phồng. Mắt anh hé. Tiếng thở hắt ra.

Võ Bằng gật đầu hài lòng. Sĩ quan và nhân viên đã có phản ứng nhanh chóng và đúng bài bản. Anh ban lệnh:

– Giải tán nhiệm sở phòng tai.

Loa nội bộ vang lệnh chấm dứt báo động. Trên tàu, nhịp sinh hoạt dần trở lại. Nhưng mọi ánh mắt đều rạng rỡ – vì họ biết: trong tình huống thật, họ đã sẵn sàng.

***

Bữa cơm trưa diễn ra giản dị. Món ăn không nhiều, nhưng ai cũng vui nhất là sau một cuộc thực tập vất vả, thành công. Qua các câu chuyện trao đổi trong bữa ăn, Võ Bằng hiểu phần nào tính tình các sĩ quan. Và rất tình cờ, chưa ai lập gia đình.

Còn mệt mỏi, anh sớm rời bàn về phòng riêng. Phòng hẹp nhưng tiện nghi: tủ đứng, bàn rộng, bồn rửa mặt, phòng tắm nhỏ. Tàu chiến mà như tổ ấm. Anh mở ba lô. Lấy ra khung ảnh mẹ và con, đặt lên mặt bàn. Nhẹ tay, như đang nâng niu. Hai bộ pyjama ở tầng trên. Giữa: ba bộ quân phục, hai xanh, một trắng. Đôi giày trắng đặt ngay ngắn ở tầng cuối. Dao cạo râu, bàn chải, xà bông Dove, kem đánh răng đã dùng đêm qua. Mọi thứ đều đơn giản cho chuyến đi xa nhớ đời. Chuyến đi bất ngờ nhưng đủ cho anh thấy mình… sống thực, đáng sống.

Anh buông người xuống giường với nguyên cả bộ quân phục đang mặc. Lưng chạm nệm, mắt chạm trần, đầu óc lướt qua hai ngày đi – đứng – nói – họp … Thêm trò chuyện với cựu Hạm trưởng tới gần sáng.  Người anh mỏi đừ, mắt từ từ khép lại bằng dáng hình tiên nữ…

13 giờ 15. Võ Bằng choàng dậy. Mắt nhòe, nhưng bên tai là tiếng máy đều đều. Anh lắng nghe thêm: vẫn là âm thanh của vận tốc đường trường. Tàu êm như đang trong sông. Anh vào phòng tắm rửa mặt, chỉnh quân phục. Rồi lên đài chỉ huy…

Võ Bằng bước vào, sĩ quan trực hô lớn: “Nghiêm!”. Anh phất tay: “Nghỉ!”

Rồi đứng cạnh thành đài hữu hạm. Buổi trưa thật đẹp: trời cao, gió nhẹ, nắng ấm. Vài sợi mây trắng lặng lờ trôi. Hạm phó đứng cạnh, nói:

– Trời đẹp quá, thưa Hạm trưởng.
– Cổ nhân có nói: “Trời yên, biển lặng thường là dấu hiệu của biển sắp động mạnh.”

Anh nói mà bâng khuâng. Hai năm ở bờ, liệu thân thể anh còn quen sóng gió. Anh nâng ống dòm. Hòn Đốc đang lờ mờ hiện. Mười sáu đảo nhỏ còn ẩn đâu đó. Anh nhìn các bãi cạn trên hải đồ. Rồi nhìn xuống biển. Nước trong vắt. Những rạn san hô xa xa như những vết loang mực màu.

Anh nghiêng đầu:

– Báo chiều sâu khi có thay đổi.
– Rõ, thưa Hạm trưởng.

Tuần phòng vùng này, Võ Bằng ngại nhất là các bãi cạn và hai đảo chìm. Nhưng có lo thì cũng chẳng thể ôm đài chỉ huy 24/24. Chỉ việc nghe lời cụ Nguyễn Hiến Lê quẳng gánh lo đi và vui sống. Anh đặt hết niềm tin vào các sĩ quan. Họ đều tỏ ra linh hoạt, hiểu biết, hy vọng không phạm các sai lầm … không thể tha thứ! Ai cũng có thể sai lầm. Chính những sai lầm mới giúp họ trở thành một Hạm trưởng bản lãnh.

Võ Bằng hỏi sĩ quan đương phiên:

– Anh xuống tàu này bao lâu rồi?
– Dạ, mới một tháng.
– Đơn vị cũ?
– Giang đoàn 75 Thủy bộ.
– À, sông Cái Lớn – Cái Bé! Tôi nghe danh, chưa từng ghé qua. Đơn vị anh và Giang đoàn 74 đánh đấm ác liệt. Hết sông Cái Bé đến Trèm Trẹm. Tôi đọc báo cáo mỗi ngày.

Tuấn trố mắt nhìn Hạm trưởng. Anh cười:

– Tôi đến từ Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh.

Tuấn nhìn quanh rồi rụt rè:

– Nhà ba má tôi ở sông Cái Lớn. Nếu mai mốt tàu công tác vùng Rạch Giá… xin mời Hạm trưởng ghé nhà… nhậu.

Võ Bằng bật cười:

– Tôi ghé để thăm hai bác. Nhậu là không có tôi.
– Dạ… thì không nhậu!

Hạm phó lên tiếng:

– Thưa Hạm trưởng, có phải phu nhân là người ngồi cạnh Hạm trưởng đêm qua?

Võ Bằng lại bật cười:

– Dựa vào đâu mà anh có ý tưởng như vậy?
– Thì thấy nói cười thân mật.
– Hễ các cô nói cười thân mật là vợ sao?
– Chúng tôi muốn biết để chào kính cho đúng phép.
– À! Tôi chưa vợ. Đêm qua, chỉ vì lịch sự mà phải bám trụ thôi. Ngoài đời, cô nào càng đẹp tôi càng tránh xa.
Hạm phó mỉm cười:
– Coi bộ đúng câu nói của cổ nhân.
– Cổ nhân nói gì?
– Thưa Hạm trưởng, cổ nhân hiếm khi nói sai: “Ghét của nào, Trời trao của nấy!”

Tiếng cười lan nhẹ trên đài chỉ huy. Võ Bằng đứng lặng một lúc lâu. Tàu đang lướt gần một đảo thấp. Trơ đá, trơ cây. Nước xanh đến độ nhìn thấy đáy. San hô đủ sắc màu. Và rồi… hình ảnh Huỳnh Như Oanh lại hiện ra như hồn biển hóa thân, một thủy thần tuyệt sắc.

Cơ duyên nào đã đẩy đưa nàng đến ngồi cạnh anh đêm qua, cười nói như quen nhau từ tiền kiếp? Dù nàng là bào muội của Tư lệnh phu nhân, nàng vẫn bí ẩn đến… phiền lòng. Nàng chưa thực sự thuộc về ai. Sắp thôi, nhưng đủ là lý do để nàng hiện diện nơi khỉ ho cò gáy này? Đại huynh nào ở đây được cái may mắn trời cho?

Võ Bằng chợt nhận ra mình lẩm cẩm. Đã dứt khoát tránh né mọi giai nhân mà cứ ngẩn ngơ, thắc mắc…

– Trình Hạm trưởng có công điện thượng khẩn.

Võ Bằng quay người. Anh vô tuyến bước tới trao mảnh giấy. Đọc xong, anh trầm giọng:

– Có công ăn việc làm rồi. Báo hầm máy, hai máy tiến Full.

 

Chương 4

HÌNH NHƯ LÀ ĐỔI THAY

Huỳnh Như Oanh nằm nghiêng trên giường, đầu gối lên cánh tay, mắt mở to nhìn qua cửa sổ mở rộng. Trời đêm long lanh sao. Gió biển lùa qua màn, vờn lên tóc, đưa nàng vào ý nghĩ miên man.

Tiệc đã tàn hơn hai tiếng, vậy mà nàng tưởng như đang còn ngồi đó, đối diện Võ Bằng. Cuộc đàm thoại cứ văng vẳng:

– Còn trẻ như anh mà đã là Hạm trưởng. Hẳn anh yêu biển lắm!
– Biển là người yêu của tôi.
– Mười lăm ngày ở đây, Như Oanh đã cảm thấy biển thật đáng yêu. Nhưng chừng nào biển mới trở thành… người yêu?
– Chừng nào cô ngắm biển hoài mà không chán!
– Khi nào thì chán?
– Biển luôn đợi chờ, thủy chung, sao lại chán?
– Nếu có người biết đợi chờ, biết thủy chung, thì có thể thay được biển không?
– Tôi chưa gặp người như thế. Nhất là người càng đẹp, càng sợ.

Nhiều người khen nàng đẹp, không ít người đã khổ vì sắc đẹp của nàng. Còn Võ Bằng thì sợ, né tránh. Nàng đã thử đưa anh chàng vào thế kẹt:

– Ngày mai Như Oanh xuống thăm tàu anh nghen?
– Mai tàu ra khơi…
– Vậy… lúc tàu về?
– Có cần thiết lắm không?
– Như Oanh chưa từng biết chiến hạm ra sao…
– Em gái phu nhân Tư lệnh Hải Quân Vùng mà chưa từng biết chiến hạm! Cho phép tôi nghi ngờ.  Thêm một thắc mắc, người đẹp như cô làm gì nơi khỉ ho cò gáy này?
– Để tận hưởng … khỉ ho cò gáy!

Nàng đã bật cười. Anh cũng cười. Rồi bỗng dưng nàng thú nhận:

–  Như Oanh vừa tốt nghiệp Đại học Sư phạm, ra đây chơi, chờ lệnh bổ nhiệm.
– Sẽ dạy môn gì?
– Văn. Việt Văn.
– Văn học nuôi dưỡng tâm hồn. Nhờ cô viết một bài về những chuyến hải hành… chẳng về đâu!
– Ý anh là sao?
– Cứ viết đi. Rồi sẽ hiểu.

Võ Bằng ám chỉ gì? Vì sao hải hành chẳng về đâu? Vì sao người càng đẹp càng sợ? Anh thù ghét phụ nữ đẹp? Vì từng bị phản bội? Như Oanh nhất định tìm hiểu. Nhưng khi nào anh trở lại? Liệu lúc ấy nàng còn ở đây không?

Mà việc gì lại phải thắc mắc! Nàng bóp trán, bâng khuâng. Tình yêu chăng? Hay chỉ là ngọn sóng bất ngờ tạt vào mát rượi tâm hồn rồi rút xa mãi mãi?

***

Tiếng gõ cửa đánh thức nàng. Giọng âu lo của chị:

– Trưa quá rồi. Dậy đi. Em có sao không?

Nàng ngồi bật dậy:

– Em khỏe. Cho em vài phút.

Một sức mạnh vô hình đẩy nàng đến cửa sổ. Gió lướt qua cầu tàu kết bằng những ponton nổi. Như Oanh trách mình dậy trễ. Chiếc Rạch Gầm đã ra khơi. Anh đang đi về đâu? Đang đứng trên đài cao hướng đến chốn nào? Có nhìn ngọn đồi dạ tiệc đêm qua? Thật lạ lùng! Suốt hai tuần ở đây, đôi lúc nhìn cầu tàu, nàng thờ ơ. Sao bỗng dưng sáng nay lại hụt hẫng?

Nắng phủ tấm lụa vàng lên mặt biển lặng lờ, lên những chiếc thuyền câu mong manh, những núi đồi cây cỏ xanh tươi.

Chị nàng bước vào, thấy em gái lặng lẽ bên khung cửa nhìn ra biển, mỉm cười:

– Đang tương tư lính biển chăng?
– Có nên không? Chính chị đêm qua cảnh báo em ngay từ đầu: em sắp làm đám hỏi.
– Tình yêu như sóng vỡ bờ. Chị không muốn thấy thêm một người đau khổ vì em.
– Còn nếu em chính là ngọn sóng đó?
– Năm năm làm vợ lính biển, năm năm lúc xa lúc gần, chia tay rồi tái hợp, tình yêu lúc nào cũng mới. Đó là kinh nghiệm của chị.
– Ba khó tính, dễ gì chịu thất hứa.
– Hôn nhân là của em. Quyết định là của em. Như chị ngày xưa ba cũng đâu bằng lòng.
– Còn một trở ngại lớn hơn: anh ấy đâu ngó ngàng gì tới em!
– Nếu em đã quyết ý thì đâu khó! Đẹp như em…
– Chính “đẹp như em” là trở ngại lớn nhất, anh ấy nói thẳng rồi, càng đẹp càng sợ.
– Thì nghĩ cách cho chàng ta hết sợ.

Cả hai phá lên cười, cùng vào bếp lo cơm trưa…

Tiếng chuông reo. Chị nàng ra mở cửa. Vinh – vị hôn phu tương lai – dang tay, tươi cười:

– Chào người đẹp của anh!

Ở Sài Gòn, hai người thường ôm nhau siết chặt. Nay nàng bước tới, miễn cưỡng. Vinh nới lỏng vòng tay, cười đùa:

– Bộ nhớ anh đến mất ngủ hay sao mà trông héo hon vậy?

Như Oanh cười, nụ cười không che giấu hết bối rối:

– Sao anh không báo trước?
– Cho em bất ngờ mới vui hơn chứ!
– Anh tới bằng gì?
– C.130. Phi cơ gì mà không có ghế, báo hại anh phải ngồi bẹp trên sàn. Mệt đứt hơi!
– Rồi ai đón anh?
– Anh Thám cho tài xế ra đón.
– Ngon ghê! Mời sếp ra salon nghỉ cho khỏe đi. Như thường lệ, bia chứ?
– Budweiser, nếu có thì tuyệt. Không thì nước lạnh cũng ngon.

Khi mở tủ lạnh lấy bia, lòng Oanh chợt xao động. Phải yêu lắm mới chịu khó vất vả như vậy. Thế mà nàng… thả mồi bắt bóng!

Đưa lon Budweiser, Như Oanh vui vẻ:

– Anh nghỉ được mấy ngày?
– Hôm nay, ngày mai, ngày mốt. Ngày mốt phải về. Mỹ đang rút bớt quân. Tình hình khó khăn. Ba phải can thiệp mới được sếp cho đi hai ngày…

Như Oanh thẫn thờ. Ba ngày, không biết lâu hay mau đây? Nửa ngày qua rồi, phải làm gì cho hết thời gian còn lại?

Trong cơm trưa, chị nàng cứu bồ. Anh Thám sẽ có chương trình thăm viếng cho hai em ngày mai ngày mốt. Tối nay 7 giờ dùng cơm gia đình. Từ giờ đến đó, hai em tự do.

***

Như Oanh và Vinh thả bộ qua khu chợ đã tan từ sớm. Chợ gồm mươi gian hàng, mươi sạp pallet chồng lên nhau. Đa số chủ nhân là vợ lính. Ngư dân An Thới không nhiều, tất cả đều tự túc. Chỉ gia đình lính là cần.

Họ ngồi trong một quán nhỏ ven biển, bàn ghế ọp ẹp. Vinh uống bia quân tiếp vụ, Như Oanh dừa tươi. Nàng thường nhìn ra khơi, lặng lẽ. Chàng thì huyên thuyên về tình hình Sài Gòn, về các tổ chức chống đối chính quyền, về Việt-Nam-hóa chiến tranh, giảm quân tham chiến, về hòa đàm Paris. Nàng vờ lắng nghe, khuyến khích để chàng không đề cập đến… chuyện chúng mình.

Năm giờ chiều họ về lại tư dinh anh rể chuẩn bị cơm tối. Bữa cơm rất vui, nhờ tài hoạt bát của Tư lệnh. Ông kể những đặc điểm của quận lỵ Dương Đông, đặc biệt Quận trưởng là một Thiếu tá Hải Quân. Ông nói qua về các xã Bãi Thơm, Cửa Cạn, Hàm Ninh, Dương Tơ, Thổ Châu. Như Oanh vốn ghét môn địa lý, nhưng không hiểu sao lần này nàng thích thú lắng nghe và ráng ghi nhớ…

***

Mười giờ sáng. Sáu người đến Mũi Ông Đội. Trời trong, gió nhẹ. Biển xanh như ngọc, mặt nước êm như gương. Chiếc tiểu vận đỉnh chật vật len qua những mỏm đá ngầm, rồi ủi mũi vào bãi cát trắng pha sỏi vụn. Đảo trông hoang vắng. Vài căn nhà nhỏ nép dưới tán dừa. Phía trên là đồi, rồi rừng, rừng nối rừng như vô tận.

Hai anh lính đi theo phụ giúp cắm dù, bày bàn, nhóm lò. Rồi bỏ đi câu. Bốn người còn lại mang giày nhựa, đeo kính lặn, ống thở, len lỏi dọc ven bờ. Thấy dáng người, từng đàn cá túa ra. Ánh nắng xuyên sóng lăn tăn, phản chiếu lên rạn san hô thành vô vàn sắc màu rực rỡ.

Hai con cá bống mú câu được nướng tại chỗ, thơm lừng. Thơm hơn mùi cá nướng đêm qua. Vinh vồn vã gắp thức ăn cho Oanh, dù nàng từ chối nhẹ nhàng. Võ Bằng thì khác, chỉ gắp khi nàng gật đầu. Sự tế nhị ấy, tưởng nhỏ, lại khiến nàng nhớ mãi.

Tư lệnh Thám chỉ tay về một căn nhà xa:

– Các em có biết vì sao nơi này gọi là Mũi Ông Đội?

Không ai trả lời. Ông kể:

– Ngày xưa, quân Tây Sơn truy đuổi Gia Long. Đến vùng này, thuyền mắc cạn. Một cai đội nhảy xuống gỡ neo, bị sóng cuốn mất. Sau này, khi đã làm vua, Gia Long quay lại, lập đàn tế, truy điệu. Gọi nơi này là Mũi Ông Đội, để ghi nhớ người lính hy sinh vì nghĩa cả.

Oanh lầm bầm: “Với người ơn thì hết lòng báo ơn, với kẻ thù thì hết dạ báo thù!”

Sau bữa ăn, Vinh rủ nàng đi dạo dọc bãi. Họ ghé thăm căn nhà của một ngư ông. Ông lão với mái tóc tuy bạc trắng nhưng dáng khỏe mạnh, tiếp đón niềm nở. Ông dẫn họ đến một miếu nhỏ thờ vua Gia Long. Trước miếu là tượng cọp, bên trong là linh vị, nhang khói nghiêm trang. Bên cạnh là giếng cổ, giếng cạn mà không khô, nước trong quanh năm, gọi là Giếng Tiên.

Tự dưng Như Oanh hỏi xin ông cụ thắp nhang. Nàng chắp tay khấn vái ba lạy. Lịch sử qua sách vở chưa hề làm nàng động tâm. Mà ở đây, đất trời, biển đá và miếu thờ như dòng sông thiêng cuốn nàng đi…

Nàng ngập ngừng hỏi lão ông:

– Cụ ở đây một mình?
– Còn hai đứa con trai. Vợ tôi mất hai năm rồi.
– Ngoài nơi này, còn nơi nào nên đến nữa không cụ?
– Mũi này chỉ có san hô, giếng, miếu thôi. Còn như cô cậu muốn xem đảo đẹp, phải ra Hòn Thơm.

Trên đường trở về, Vinh nói nhỏ, nửa đùa nửa thật:

– Em lạ lắm. Thường ngày tếu táo, hôm nay lại trịnh trọng thắp hương.
– Có lẽ em… đang đổi thay. Như trước đây em ghét Gia Long, giờ thấy ông cũng không tệ!
– Như trước đây em vồn vã, giờ em lạnh nhạt?
– Ý anh là sao?

Vinh cười, lắc đầu:

– Đừng làm bộ!

Rồi anh đổi giọng nghiêm trang:

– Nhắc đến Gia Long anh mới nhớ. Mục đích anh ra đây cũng vì tin vui này. Ba cho biết em đã được bổ nhiệm về dạy trường nữ Trung học Gia Long.

Nàng đứng khựng lại. Mắt mở lớn. Dạy trường Gia Long! Khó tin quá! Nàng vẫn đinh ninh may mắn lắm là được dạy gần Sài Gòn. Chắc chắn ba của Vinh đã can thiệp. Vậy là… kẹt cứng rồi!

Vinh nắm tay nàng, hớn hở:

– Em còn nhớ lần đầu mình hôn nhau không?

Oanh im lặng. Hôm ấy, anh đưa nàng đi Quán Đồng Quê ở Thủ Đức. Giữa bữa, anh tặng món quà sinh nhật – chiếc xuyến vàng nàng từng ao ước. Nàng xúc động, hôn anh ngay giữa chốn đông người.

Giờ nhớ lại, cảm xúc như xưa không về. Phải chăng vì… Nàng đảo mắt nhìn Vinh.  Rồi lắc đầu tự nhủ: “Đâu lẽ! Chỉ mới gặp vài giờ. Điển trai ư? Vinh cũng hơn hẳn. Năng nổ, vui vẻ? Vinh càng hơn. Nhưng… nhưng sao cứ nhìn Vinh là hình ảnh Võ Bằng thấp thoáng? Như Oanh ơi, mi chỉ là khách lạ trên đảo hoang. Hãy quay về bến cũ.”

Vinh nhìn nàng, giọng nhẹ như hơi gió:

– Em thay đổi thật rồi. Anh tưởng, nghe tin bổ nhiệm, em sẽ mừng, sẽ ôm hôn anh chứ?

Nàng chống chế:

– Không tiện. Có anh chị nhìn…
– Ngày xưa em không rụt rè…

Nàng im. Anh gằn nhẹ:

– Cả chiếc xuyến cũng không thấy em đeo.
– Em để ở nhà, sợ bơi lội, rớt xuống biển.
– Chớ không phải… tại đổi thay?

Nàng siết nhẹ tay anh. Gió biển mát rượi. Tóc nàng bay chạm má. Nàng nhoẻn cười:

– Không phải em thay đổi. Mà là… em bắt đầu nhận ra.
– Nhận ra điều gì ở chốn buồn tênh này?
– Nơi buồn tênh này hợp với tâm hồn em.
– Nghĩa là sao?
– Em vẫn yêu quý anh. Nhưng có lẽ… em đang sợ những con đường đầy xe, những nhà hàng sang trọng, cuộc sống vội vã, bon chen…
– Hai tuần qua, em không nhớ anh chút nào sao?
– Nhớ, nhớ lắm. Rồi bỗng nhiên biển chiếm hồn em.
– Sau đám cưới, anh sẽ đưa em về nơi có biển. Em mặc sức yêu biển.

Vinh luôn biết chiều nàng, nhưng lần này…

Một cơn gió mạnh thổi qua. Chiếc khăn trùm đầu của nàng bay xuống nước. Vinh lao theo. Khi lên bờ, bàn chân anh rướm máu. Oanh lấy khăn băng lại. Vinh gạt ra.

Nàng buồn rầu:

– Xưa có lần em đứt tay, anh băng bó, em đâu từ chối.
– Nhưng bây giờ… em không còn là người xưa.

Nàng thở dài:

– Đừng đẩy em ra xa. Hãy để em vui với biển. Ngày về lại Sài Gòn, em sẽ lại là người xưa của anh.
Vinh choàng tay qua vai nàng. Trái tim Oanh không mảy may đập nhanh như ngày nào…

***

Chín giờ sáng hôm sau.

Chiếc Tiểu vận đỉnh lại đưa họ ra khơi – lần này là Hòn Thơm, cách An Thới bốn cây số về phía Nam.

Như với Mũi Ông Đội, chiếc đỉnh vất vả luồn lách tiến vào bãi Trào, một dải cát trắng mịn như tơ, trải dài dưới hàng dừa cao rì rào trong gió. Ven bãi, vài chục căn nhà khang trang, ẩn hiện trong bóng dừa. Vài đứa bé chạy đến, lễ phép chào kính.

Tư lệnh Vùng là khách quen của đảo. Tổng Thống cũng từng viếng đảo này. Chúa đảo là một ngư dân vạm vỡ trung niên thân mật đón tiếp. Không ai cần mang theo gì. Tắm biển, ăn uống, nghỉ ngơi – mọi thứ đã được chuẩn bị.

Cả nhóm ào xuống biển. Nước trong và mát rượi. Cát mịn dưới chân như vuốt ve.

Vinh và Oanh lặn thật xa, qua những rạn san hô lộng lẫy. Có nơi như rừng nấm rơm – tầng tầng lớp lớp, lấp lánh, lung linh. Cá lớn nhỏ, đủ loại, đủ màu. Có nơi hàng chục con mực đứng lửng lơ, thư thái.

Bữa trưa không cơm, chỉ toàn hải sản: cá hấp, cua nướng, sò, tôm. Món nào cũng tuyệt ngon. Vinh vừa nhai vừa trêu ghẹo:

– Có phải đây là lý do khiến em yêu biển?
– Lý do phụ.
– Còn lý do chính?
– Một ngày nào đó, nếu thật sự là lý do chính, em sẽ nói cho anh hay.

Vinh nhăn mặt:

– Em khó hiểu quá.
– Em còn chưa hiểu em. Huống gì anh.

Ăn xong, họ nằm dài trên ghế vải, dưới bóng dừa. Biển trước mặt lặng như tờ. Chỉ nghe tiếng sóng lùa nhẹ vào cát.

Hai giờ chiều, Tư lệnh rủ mọi người băng rừng ra bãi Chướng, phía Tây đảo. Ông nhiệt tình giới thiệu:

– Ở đó có một nơi ngắm mặt trời lặn xuống biển, không đâu sánh bằng. Nếu các em đủ kiên nhẫn chờ…

Cả nhóm háo hức theo sau ông. Rừng mát rượi, hầu hết là lùm cây. Mùi đất, mùi lá khô quyện mùi biển thành loại hương lạ sảng khoái. Lối mòn lên dốc ít người đi nên đôi lúc gặp cành lá chắn ngang. Bù lại, hai bên rất nhiều hoa lạ. Những đóa hoa nho nhỏ, màu rất tươi. Có lùm toàn màu vàng, có lùm toàn màu đỏ, màu tím, màu xanh, đậm và lợt. Vinh ngắt thành một bó đẹp mắt tặng Như Oanh.

Khi xuống đến bãi có hình cánh cung, Tư lệnh chỉ tảng đá chênh vênh trên ghềnh cuối đảo:

– Tảng đá đó trông chênh vênh nhưng dễ leo. Anh chị đã hai lần lên đó ngồi ngắm hoàng hôn. Đẹp tuyệt vời. Khi mặt trời dần dần xuống, mây cũng dần dần đổi màu. Rồi cả vùng đa sắc rực rỡ tiễn biệt thái dương chìm khuất.

Như Oanh reo lên thích thú:

– Vậy thì hôm nay tụi em nhất định phải chờ xem.

Nhưng chưa đầy một giờ sau, một anh lính hối hả chạy đến báo Phòng Truyền Tin cần gặp Tư lệnh gấp. Tư lệnh lặng người. Rồi quay đầu, tất tả cùng anh lính trở lại bãi Trào.

Nhóm chúng tôi tiếp tục đi dọc bãi, đuổi theo vô số con còng, nhặt nhạnh những vỏ sò lạ mắt. Tội nghiệp Vinh, anh vẫn cố bước theo dù vết cắt ở chân bắt đầu đau, phải đi cà nhắc!

Nửa giờ sau, anh lính trở lại. Anh nhắn lời Tư lệnh là tất cả phải về ngay An Thới!

Trên đường về, Tư lệnh cho biết lý do: Ba của Vinh báo cho biết chuyến bay bị hủy bỏ. Vinh phải tìm cách về Sài Gòn bằng phương tiện sớm nhất.

***

Ngoài khơi dãy ponton cầu tàu, hàng trăm ngọn đèn câu chiếm trọn vùng biển. Ánh sáng lay động như những ngọn đuốc ma trơi, buồn lạ lùng.

Vinh bước khập khiễng ra cầu tàu. Chân anh bắt đầu đau nhiều hơn nhưng anh nhất định không đến bệnh xá. Như Oanh đi bên, nắm cánh tay Vinh. Gió hất tóc nàng về phía sau, lất phất như những ngón tay anh ngày nào vuốt nhẹ. Nàng mỉm cười, nhận ra một điều chắc chắn: nàng vẫn còn yêu Vinh.

Khi đến chiếc khinh tốc đỉnh, Vinh mở vòng tay. Khác với khi anh đến, nàng bước nhanh vào. Siết chặt. Anh mỉm cười, nàng mỉm cười. Họ hôn nhau.

Nàng nói, giọng buồn:

– Em chợt nhớ một câu trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư: “Ôi! Cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!” Thích câu đó lắm mà nào biết buồn ra sao. Bây giờ có phần thấm thía.

Vinh cười, giọng đùa xót xa:

– Em chỉ “có phần” nhưng anh thì “toàn phần”!

Rồi vội nhấc chiếc xách tay, cà nhắc bước lên tàu.

Tiếng rền của động cơ khinh tốc đỉnh không át được tiếng Vinh vọng đến:

– Cô giáo sư nhớ về nhận nhiệm sở. Đừng có… khùng!

Như Oanh đứng yên, mỉm cười nhìn theo. Con tàu lướt đi. Dòng nước cuộn lại sau đuôi, trắng xóa, rồi tan vào biển đêm.

 

Chương 5

TRỤC BẮC ĐẢO – HẢI TẶC

Võ Bằng trao công điện cho Hạm phó Tiến vừa bước vào:

- Anh định vị tọa độ, cho biết cách chiến hạm bao xa.

Tiến bước nhanh đến bàn hải đồ, chăm chú đọc:

“Không tuần cho biết có tàu khả nghi đang đánh cá vùng biển Bắc Đảo, tọa độ 10.45N – 104.03E. Yêu cầu quý chiến hạm đến vị trí trên sớm nhất. Tuần Duyên Đỉnh HQ 729 đang trên đường. Phối hợp khám xét và báo cáo kết quả.”

Anh đánh dấu nhanh vị trí:

- Thưa Hạm trưởng, khoảng cách 28 hải lý.

Võ Bằng lẩm bẩm như nói với chính mình:

- Tối đa cũng mất hai tiếng… Liệu còn kịp?

Rồi dứt khoát chọn tốc độ khẩn cấp:

- Hai máy tiến full!

Lệnh ban ra. Tiếng chuông truyền xuống hầm máy leng keng. Rồi tiếng động cơ rền rĩ, thân tàu rung nhẹ, mũi tàu hất nước trắng xóa sang đôi bên.

Anh quay qua Hạm phó:

- Kẻ hải trình ngắn nhất. Xong, cho tôi xem.

Tiến nhanh chóng thi hành. Hướng mới qua cạnh một vùng đá ngầm. Nhưng biển hôm nay êm, gió nhẹ, không hải lưu

– Rủi ro có thể chấp nhận.
- Sĩ quan đương phiên! Cho lái hướng mới.

Thiếu úy Đức bước đến nhìn hải đồ:

- Nhận rõ. Lái hướng 315.

Hạ sĩ Lâm lặp lại khẩu lệnh, hai tay quay bánh lái. Mũi tàu dần quay qua trái. Trên la bàn, các con số dịch chuyển. Khi đúng hướng, anh dõng dạc:

- Hướng 315.
- Lái thẳng!
- Lái thẳng, hướng 315!
- Tốt.

Võ Bằng gật đầu, ra hiệu cho Hạm phó:

- Gọi HQ 729 hỏi vị trí.

Tiến nói qua PRC-46:

- Hải Dương, Bắc Bình gọi.

Tiếng rè rè trước tiếng đáp:

- Hải Dương tôi nghe.
- Anh đến đâu rồi?
- Mới zulu!
- Nếu tới trước, gặp tàu thì chờ. Nếu là ghe, cứ xét.
- Nhận rõ, thẩm quyền.

Tiến cúp máy rồi nhìn Hạm trưởng:

- Tôi có linh cảm… đó là tàu tiếp tế cho Việt Cộng.
- Tôi cũng nghĩ vậy.
- Nhưng theo luật, lãnh hải là 12 hải lý từ bờ. Hai nước cách nhau dưới 24 thì chia đôi. Tàu kia cách bờ Miên 8, cách Phú Quốc 6. Như vậy… chưa vi phạm.

Võ Bằng mỉm cười:

- Chuyện này các sĩ quan cần hiểu rõ. Hãy nhìn vào hải đồ, các anh thấy vùng biển Bắc Đảo không hề có đường ranh. Nghĩa là, nếu phát hiện vũ khí hay hàng quốc cấm, chúng ta có quyền hành động, bất kể ở đâu.

Tiến do dự:

- Trước kia, cựu Hạm trưởng cũng nói vậy, nhưng không giải thích. Tôi muốn hỏi mà ngại.
- Với tôi, ai có gì thắc mắc cứ nêu. Tôi không hứa trả lời được hết, nhưng sẽ cố gắng.

Tiến ngập ngừng:

- Có thể nào… nhà in hải đồ sơ suất?
- Không thể. Hải đồ Mỹ chi tiết lắm. Đến cả đá ngầm, bãi cạn, xác tàu chìm cũng đánh dấu, thì làm sao lại quên đường biên?
- Nhưng nếu Miên kiện, mình có bị liên lụy?

Võ Bằng nghiêm giọng:

- Theo Công Pháp Quốc Tế, biên giới biển là đường kéo dài từ biên giới đất liền ra khơi. Đường ấy cắt ngang Phú Quốc, phía bắc rộng gấp đôi phía nam. Nên, theo lý, Phú Quốc là của Miên. Nhưng cũng theo Công Pháp, đảo này từ xưa có dân Việt ở, là một đơn vị hành chánh của Việt Nam nên thuộc Việt Nam. Nhưng chủ quyền hàng trăm đảo nhỏ quanh phía bắc thì vẫn còn tranh chấp.

Tiến sốt ruột:

- Vậy nên mới cần đường ranh giới biển!
- Năm 1939, quan Toàn quyền Brévié vẽ một ranh giới gọi là đường Brévié, vòng quanh hai phần ba Bắc Phú Quốc, cách bờ 3 hải lý. Đảo nào trong đường đó thuộc Việt Nam, ngoài thì thuộc Cao Miên.
- Chỉ ba hải lý? Thiệt thòi cho mình quá!
- Có thể ông Brévié nhìn theo thực tế: Việt Nam giữ trọn Phú Quốc thì nên nhường Miên phần biển rộng hơn. Nhưng VN không đồng ý. Cuối cùng, ông xác định rõ: đường Brévié chỉ là ranh giới hành chánh, không phải biên giới quốc tế.

Tiến trầm ngâm:

- Tại sao không chia đôi theo đúng Công Pháp?
- Miên không chấp nhận, nhất định đòi ranh giới hành chánh là hải giới. Đến nay vẫn đang bàn cãi.
- Bàn… suốt 30 năm chưa xong!
- Vì chưa có đường ranh rõ ràng nên Miên thỉnh thoảng đổ quân chiếm các đảo như Kiến Vàng, Kèo Ngựa, Thổ Châu. Và chúng ta phải hành quân giải tỏa. Đó là một trong nhiều lý do cần chiến hạm tuần tiễu vùng này.

Tiến hỏi dồn:

- Trường hợp gặp tàu chở quân Miên, mình phản ứng thế nào?
- Nếu không có bằng chứng đổ quân, cứ theo dõi. Nếu xâm nhập trong 3 hải lý thì bắt, đưa về An Thới. Nếu chống cự – đánh chìm.

Cả đài chỉ huy im lặng. Mắt mọi người dõi về phía chân trời, như tìm tàu Miên đang đổ quân…

***

Võ Bằng chợt cau mày:

- Hạm phó, đã bao lâu rồi tàu mình chưa thực tập tác xạ?

Tiến lắc đầu:

- Thưa, khoảng nửa năm.
- Tôi muốn biết chắc các khẩu súng đều khiển dụng.

Hạm phó đáp vội:

- Để tôi ra lệnh ngay.
- Tốt. Cẩn tắc vô ưu. Cho bắn thử tất cả các ổ súng. Mục tiêu giả định cách 100 thước và 200. Quan sát kỹ. Phải chắc chắn khu vực không ghe tàu.

Tiến bảo sĩ quan đương phiên:

- Nhận còi nhiệm sở tác chiến!

Tiếng còi rú lên từng hồi, dội xuống lòng tàu, lan ra mũi, lái. Các nhân viên chạy vội vào các ổ súng. Tiếng đạn nạp vào nòng khua vang. Các ổ súng báo cáo sẵn sàng.

Võ Bằng đích thân chỉ thị tác xạ. Giọng anh mạnh, rõ ràng, dứt khoát:

- Đại bác 40 mũi. Các đại liên hữu hạm. Mục tiêu hướng 2 giờ, tầm xa 100 mét. Bắn!

Một loạt tiếng nổ giòn giã. Nước biển bắn tung tóe. Chớp sáng rạch qua không khí. Hơi thuốc súng thoảng theo gió.
Võ Bằng ra lệnh tiếp:

- 76 ly, đại liên tả hạm. Mục tiêu hướng 2 giờ. Cách 200 mét. Bắn.

Loạt đạn thứ nhì rung rinh cả tàu. Khói thuốc súng nồng nặc. Từng cột nước bung cao. Võ Bằng hài lòng và cảm thấy yên tâm:

- Giải tán nhiệm sở tác chiến.

Còi vang lên. Mọi người rời vị trí, gương mặt hớn hở. Võ Bằng trở về ghế tựa. Đại úy Cố vấn Mỹ đứng sẵn lúc nào:

- Good afternoon, Cap! Chào mọi người. What’s happening?
- Chào Bill. Just gun test!

Anh ra hiệu, cả hai cùng bước tới bàn hải đồ. Võ Bằng chỉ mục tiêu và mục đích đang hướng đến. Có thể có đụng độ.

Cố vấn gật đầu, vẻ quan tâm. Anh cúi xuống mở PRC 46, liên lạc nêu nhu cầu với Trung tâm yểm trợ phi pháo Mỹ.

Võ Bằng trở về ghế ngồi. Trong khi chờ kết quả, hai người trao đổi tâm tình. Cố vấn nói về gia đình: vợ và con gái bốn tuổi. Võ Bằng nửa đùa nửa thật: chưa vợ nhưng có thể có con trai 5 tuổi.

Cả hai đang cười thì máy PRC kêu “tách”. Cố vấn áp tai nghe rồi đưa ngón cái chỉ thiên:

- Phi pháo sẵn sàng. Dự trù 20 phút khi được yêu cầu.
- Tốt. Có thể không dùng đến, nhưng sẵn sàng vẫn hơn.

Cố vấn gật đầu, đứng bên hạm trưởng như một minh chứng đồng minh đáng tin cậy.

Biển vẫn yên, sóng lặng nhưng Võ Bằng bỗng mang một linh cảm bất an. Chuyện gì sắp xảy ra ở vùng biển phía trước?

***

Lúc 16 giờ, HQ 729 gọi vào hệ thống PRC:

- Trình Bắc Bình, đã tới điểm hẹn. Đó là một tàu đánh cá không treo cờ, mạn tàu có chữ ngoằn ngoèo. Có thể là tàu của Miên, Thái hoặc Mã Lai.

Võ Bằng đáp gọn:

- Theo dõi. Chờ phối hợp.

Một giờ sau, Võ Bằng cho lệnh ngưng máy, thả trôi, cách mục tiêu 1 hải lý. HQ 729 tiến đến, cập vào. Các sĩ quan họp nhanh đường lối hành động. Các bước được xác định:

1. HQ 729 sử dụng loa và cờ hiệu yêu cầu tàu nghi ngờ cho khám xét. Toán khám xét gồm sáu người: bốn từ HQ 266, hai từ HQ 729 – vũ trang đầy đủ, do Hạm phó Tiến chỉ huy.

2. Khi được đồng ý, HQ 729 cho toán khám xét lên tàu nghi ngờ.

3. Gom toàn bộ thủy thủ tàu nghi ngờ về boong trước, trừ thuyền trưởng phải đi cùng toán khám xét.

4. HQ 266 yểm trợ hỏa lực trong mọi tình huống xấu.

5. Nếu phát hiện vũ khí, ma túy, hoặc không có giấy tờ hợp lệ: lập biên bản, thu tang vật.

6. Nếu là tàu Miên chở quân: theo dõi sát. Khi có hành vi đổ quân, bắt giữ. Chống cự, tiêu diệt.

7. Nếu tàu nghi ngờ bỏ chạy: bắn cảnh cáo ba lần. Sau đó, trực xạ.

Kế hoạch thực hiện ngay sau phiên họp. HQ 729 rẽ sóng tiếp cận, mở loa gọi tàu nghi ngờ:

- Đây là Hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Tàu bạn đang ở khu vực giới hạn. Yêu cầu cho khám xét!

Tàu nghi ngờ im lặng, có dấu hiệu cho máy khởi động. HQ 729 lại kêu gọi, quơ cờ hiệu. Tàu nghi ngờ tăng tốc, đổi hướng, bỏ chạy.

Võ Bằng lạnh giọng:

- HQ 729 vòng mạn tả. HQ 266 giữ mạn hữu. Tạo thế gọng kềm.

Hai chiến hạm tăng máy tối đa, chia hai hướng khóa đuôi tàu lạ. Võ Bằng ra lệnh dứt khoát:

- Đại liên mạn tả. Tác xạ chỉ thiên!

Một loạt đạn nổ rền. Vệt khói vẽ thành vòng trên cao. Nhưng tàu nghi ngờ vẫn ngoan cố, tiếp tục zig-zag. Võ Bằng la to:

- Bắn một tràng ngay trước mũi!

Đạn đại liên gầm rít, nước tung trắng xóa. Sau lái khói đen cuộn lên

HQ 729 nêu yêu cầu:

- Trình Bắc Bình, xin cho trực xạ!

Võ Bằng dằn giọng:

- Chờ! 40 ly mũi. Bắn chặn đầu lần hai.

Tiếng nổ dội vang. Sóng biển văng cao như ngăn trở. Tàu lạ lắc mạnh, thân nghiêng nghiêng đổi hướng.

Võ Bằng chụp ống liên hợp:

- Hải Dương! Trực xạ vào hầm máy!

Loạt đạn rền vang như trút giận. Cùng lúc, đại liên của HQ 266 giội thêm một vào mũi.

Qua ống dòm, Võ Bằng thấy một cánh tay giơ lên, vải trắng đang phất loạn xạ. Tàu nghi ngờ giảm tốc, rồi dừng hẳn, lênh đênh.

Hai chiến hạm cùng áp sát. HQ 729 cặp vào mạn hữu. Toán khám xét súng lên đạn, nhảy lên boong. Võ Bằng dõi theo từng động tác, tim thình thịch đập.

***

45 phút sau, tiếng Hạm phó Tiến vang qua vô tuyến, dứt khoát mà dè dặt:

- Trình thẩm quyền. Tịch thu hàng trăm gói bột trắng trong tủ ngụy trang cùng một bọc tiền Miên. Giấy hành nghề do Miên cấp. Xin chờ chỉ thị.

Võ Bằng trầm ngâm trước khi quyết định:

- Chuyển toàn bộ tang vật sang HQ 729. Giữ nguyên hiện trường tàu phạm pháp. Sẽ có quyết định sau.
Anh bước nhanh về Phòng Truyền Tin, thảo công điện gửi Bộ Tư Lệnh Vùng:

“Trân trọng kính trình. HQ 266 và HQ 729 đã phối hợp khám xét tàu nghi ngờ. Tịch thu hàng trăm gói bột trắng, nghi là bạch phiến, cùng một bọc tiền Miên. Xin chỉ thị.”

Chưa đầy 20 phút sau, công điện chỉ thị:

“HQ 729 hộ tống tàu phạm pháp về An Thới. HQ 266 tiếp tục tuần tiễu trục Bắc Đảo – Hải Tặc.”

***

Khi Hạm phó Tiến trở lại tàu, các thủy thủ đón anh bằng ánh mắt rạng rỡ. Có lời hoan hô, có tiếng huýt sáo. Võ Bằng bắt tay chúc mừng.

Hạm phó trình lên Hạm trưởng hai tang vật lạ:

- Thưa Hạm trưởng, ngoài bạch phiến và tiền, còn hai vật lạ: một tượng cá bằng đồng và một khúc gỗ mun quấn vải đỏ. Tôi mang về tàu vì nghĩ Thượng sĩ Châu Lâm người Miên biết xuất xứ.

Cố vấn Mỹ ngắm nghía. Võ Bằng cầm tượng cá, nhìn kỹ từng đường nét tinh xảo. Rồi anh cầm khúc gỗ, ngón tay lướt nhẹ lớp vải đỏ sậm đã phai màu. Gỗ nặng, bóng lưỡng, như có tuổi đời hàng trăm năm. Hạm trưởng không ngăn được tò mò:

- Gọi Thượng sĩ Châu Lâm.

Một lát sau, Châu Lâm bước vào. Người đàn ông tuổi ngũ tuần, da sạm đen, ánh mắt điềm đạm. Anh cúi đầu, hai tay cẩn trọng nâng khúc gỗ, nói chậm rãi:

- Thưa Hạm trưởng, khúc gỗ này là vật linh thiêng của người Miên. Gọi là Neak Ta – người Việt gọi là Ông Tà. Không thờ cúng ở đình làng như Thần Hoàng, Ông Tà thờ ở miếu nhỏ, thường dưới gốc cây lớn hoặc nơi riêng rẽ giữa rừng.
- Lý do thờ cúng?
- Cùng lý do thờ Thần Hoàng: tín ngưỡng bảo vệ làng xã đất nước. Dân Phú Quốc, thờ nhiều ở Gành Dầu, Bãi Thơm, Hàm Ninh, Dương Đông.

Võ Bằng mỉm cười chỉ tượng cá:

- Còn cái này?
- Thưa người Miên gọi là Toh Tey – Cá Voi – vị thần che chở ghe thuyền giữa dông bão. Người Việt có thờ hay không tôi không rõ…

Hạm phó Tiến tiếp lời:

- Người Việt cũng thờ Cá Voi, gọi tôn kính là Cá Ông hay Ông Nam Hải. Suốt miền Trung cho đến miền Nam, các làng chài ven biển hay ven sông đều có lập lăng thờ Cá Ông.

Hạm trưởng lên tiếng:

- Tôi có đến viếng lăng thờ Cá Ông ở Dương Đông. Nghe nói quanh Phú Quốc còn nhiều lăng khác.

Hạm phó Tiến kể:

- Tôi đã có dịp viếng Đình Thần Thắng Tam ở Vũng Tàu, trong đó có Lăng Ông Nam Hải và Miếu Bà Ngũ Hành. Đền thờ trang trọng, uy nghi. Hàng năm đều có tổ chức lễ Nghinh Ông, rất trọng thể.

Thiếu úy Đức cũng chia sẻ:

- Tôi quê Bạc Liêu, đã từng dự lễ Nghinh Ông. Ngày đó trên sông ghe đông như trẩy hội. Trên bờ thì người Hoa, người Miên, người Việt tề tựu. Cả phố ngợp hoa đăng. Người ta còn truyền câu:
Vui gì bằng lễ Nghinh Ông
Đèn hoa, pháo nổ, ngập sông ánh trời

Võ Bằng chậm rãi nói:

- Sử truyền lại rằng khi Nguyễn Ánh bị Tây Sơn truy đuổi đến Soài Rạp, một đôi Cá Ông đã kẹp mạn, đưa thuyền chở ông đến nơi an toàn. Khi lên ngôi, vua Gia Long sắc phong Cá Ông là Nam Hải Đại Tướng Quân.

Thấy Cố vấn đứng ngẩn ngơ, Võ Bằng tóm lược câu chuyện. Đôi mắt Cố vấn mở to, thích thú.

Võ Bằng hỏi Hạm phó:

- Hai vật thiêng này Hạm phó tính sao? Chủ tàu bị đưa về An Thới rồi, chưa chắc gặp lại.
- Tôi tạm giữ. Gặp chủ tàu thì hoàn trả, bằng không, gửi vào biển cả.

Thượng sĩ Châu Lâm ngập ngừng:

- Trường hợp không gặp lại chủ tàu, tôi xin thỉnh về nhà thờ phượng.

Võ Bằng nhìn Hạm phó. Tiến gật đầu:

- Hoan nghênh!

Võ Bằng băn khoăn thầm nghĩ hai vật thiêng này, không biết mang đến cho tàu … may hay rủi! Nỗi băn khoăn biến thành lo lắng khi anh vô tuyến xuất hiện, tay cầm bảng kẹp công điện. Võ Bằng không đợi anh trình báo, cầm ngay đọc:

- “Yêu cầu quý chiến hạm trực chỉ Gành Dầu. Một tàu đang lảng vảng hải phận quốc tế, nghi ngờ chờ tối xâm nhập vùng bắc đảo. HQ 741 đang trên đường đến điểm hẹn. Phối hợp hoạt động ngăn chận, khám xét. Báo cáo nhận hành.”

Anh đưa công điện cho Hạm phó:

- Lại xuất hiện tàu khả nghi. Không chừng phải thức suốt đêm! Đánh công điện trả lời: “Đáp nhận hành”. Ghi dấu tọa độ. Kẻ hải trình ngắn nhất đến Gành Dầu. Tăng dần tốc độ đến tiến Full. Khi còn cách 2 hải lý, gọi tôi.

Trong dáng vẻ ưu tư, Võ Bằng bước khỏi đài chỉ huy. Cố vấn lặng lẽ theo sau.

 

Chương 6

CUỘC CHẠM SÚNG ĐẦU TIÊN

Võ Bằng tự pha ly cà phê rồi cầm lên đài chỉ huy. Trời đen đặc. Các nhân viên đương phiên chỉ là những bóng mờ trong ánh đèn đỏ lờ mờ từ vách. Không ai nhận ra Hạm trưởng hiện diện cho đến khi anh lên tiếng:

– Tới đâu rồi?

Trung úy Tài quay lui:

– Thưa, còn 5 hải lý nữa mới tới Gành Dầu.

Võ Bằng tiến tới bàn hải đồ, bật đèn ánh sáng hạn chế. Anh rà ngón tay trên bản đồ. Vị trí vừa ngang qua Rạch Vẹm, địa hình khá lý tưởng để đổ hàng. Nếu chiếc tàu nghi ngờ theo đường này, nó sẽ ủi bãi lúc nửa đêm, đủ thời gian tiếp tế và rút ra trước rạng sáng.

“Phải ra tay khi nó ủi bãi”, anh thầm nghĩ. “Lúc ấy, nó khó xoay trở”. Nhưng đấy chỉ là phỏng đoán. HQ 266 không thể chần chừ, thả trôi ở đây. Chỉ thị đưa ra là đến tọa độ đã cho. Không đến, để tàu nghi ngờ chạy thoát, biết ăn nói làm sao! Mà đến, gặp nó, liệu một mình có thể thực hiện việc khám xét? Giá như HQ 729 còn phối hợp.

Như đọc được suy tư của Võ Bằng, Bộ Tư Lệnh Vùng thông báo: Duyên tốc đỉnh HQ 3837 đang trực chỉ Gành Dầu, đặt dưới quyền điều động của HQ 266. Dự trù tới tọa độ khoảng 1 tiếng.

Gió đổi chiều, mát mà ẩm ướt. Sóng cũng bắt đầu ập vào mũi tàu. Tầm nhìn thu hẹp. Radar báo cáo bị nhiễu xạ. Rồi mưa như trút nước. Võ Bằng than thầm: “Không lẽ Trời che chở cho kẻ xấu?”

Anh nhớ lời của Tư Lệnh Hải Quân: “Chiến hạm là thế giới cô lập giữa đại dương. Hạm trưởng là người chịu toàn bộ trách nhiệm: sinh mạng thủy thủ và tài sản quốc gia. Thành công thì thăng tiến, thất bại thì có khi biển cả là mồ chôn tất cả.” Không! Không thể thất bại.

Một tia sét xé rách bầu trời. Tiếng sấm rền vang từ xa xăm. Võ Bằng châm điếu thuốc, rít sâu. Mùi khói thuốc, mùi khói tàu, mùi muối biển hòa trộn hăng hắc và khô gắt. Anh dụi thuốc vào gạt tàn gắn bên ghế.

Tiếng quan sát viên vang lên:

– Báo cáo. Có ánh sáng nhấp nháy tả hạm.

Võ Bằng đứng phắt dậy, chụp ống dòm, bước qua cánh trái. Anh đưa ống dòm lên mắt. Quả là có ánh sáng lập lòe như tín hiệu morse. Anh ra lệnh:

– Tay lái hết bên trái.

Anh cảm nhận được chiến hạm đang đổi hướng. Số độ trên la bàn giảm dần.

– Tay lái số không. Lái thẳng.

Thủy thủ Bảo đang giữ tay lái nói to:

– Lái thẳng. Hướng 190.

Mũi tàu hướng thẳng vào ánh đèn khả nghi.

Tiếng Võ Bằng:

– Radar báo cáo khoảng cách.
– Cách 1500 yard.* (gần 1400 mét)
– Chiều sâu?
– Chiều sâu 10 fathom.* (hơn 18 mét)

Gió rít và mưa tạt vào đài chỉ huy. Võ Bằng vừa mặc áo mưa vừa ra lệnh giảm dần tốc độ. Càng gần, hiện ra một chiếc ghe câu nhỏ. Anh ban các lệnh cần thiết để chiến hạm tiến sát ghe câu. Chiếc đèn măng-xông chao đảo theo sóng. Trên ghe, hai người đang thả lưới. Anh hỏi người giăng lưới:

– Bắt được nhiều cá không, các anh?
– Cũng khá rồi. Sáng mai về.

Không thấy gì khả nghi, Võ Bằng cho tiếp tục tiến về mục tiêu. Tiếng từ loa máy truyền tin PRC–46:

– Bắc Bình, đây Hồng Hải.

Sĩ quan đương phiên nhấc máy:

– Hồng Hải. Bắc Bình nghe.
– Tôi đang ngang qua Diên Hồng – Đồng Dao.* (Dương Đông)
– Đáp nhận. Hẹn gặp.

Võ Bằng cởi áo mưa, vào phòng radar. Màn hình rõ nét mũi Gành Dầu, đảo Koh Seh. Không thấy gì khả nghi. Lẽ ra ở vị trí này, radar đã ghi nhận tàu nghi ngờ. Hay nó đã bỏ đi? Không thể. Nó không thể đi qua HQ 266 mà không thấy. Nó đã đổi hướng? Hay đang ủi bãi. Đâu lẽ?

Khi Hạm phó xuất hiện, Võ Bằng dặn dò rồi trở lên đài chỉ huy. HQ 3736 báo cáo còn một tiếng nữa mới tới. Anh ngồi vào ghế, nhắm mắt, định thần mong quên đi các mối lo. Nhưng trong đầu lại hiện ra nụ cười tinh quái của Hoàng Như Oanh. Anh cố xua đi mà hình ảnh như sóng chập chờn.

Anh nhớ đến cựu Hạm trưởng Quang, đổi về làm Tham Mưu Phó Hành quân Vùng 4 Sông Ngòi. Ông vẫn hay thổ lộ: “Làm Hạm trưởng luôn là một vinh dự lớn.” Câu hỏi của Huỳnh Như Oanh hiện lên: “Nên chia vui hay chia buồn?”

Hạm phó báo cáo:

– Đài chỉ huy. Radar ghi nhận đối vật hướng 11 giờ, cách 8 hải lý.

Võ Bằng ngồi bật dậy:

– Cho biết hướng di chuyển.
– Hướng về Rạch Gầm.
– Máy tiến 3. Tắt hết đèn hải hành.

Mưa vừa tạnh. Mây che ánh trăng. Gió lành lạnh. Bóng tối phủ kín. Không gian lặng lẽ rợn người. Võ Bằng lại nhớ Thiếu tá Quang. Phải chi ông đang là Hạm trưởng của tàu thì anh đâu phải lo lắng thế này. Chỉ mới ngày đầu trở lại biển mà anh đã thấy uể oải. Cái phiền là uể oải không nhằm lúc nhằm chỗ. Bắc đảo chẳng khác gì vùng tự do, tàu đánh cá cả ba nước Miên, Thái, Mã Lai xuất hiện đều đều. Đuổi mệt… không nghỉ!

– Đài chỉ huy. Tàu nghi ngờ cách 6 hải lý. Tốc độ 18 gút.* (hải lý /giờ)

Võ Bằng hạ giọng:

– Cho máy tiến 3. Lái hướng 300.

Anh đứng nghiêng người, tựa vào thành đài chỉ huy, ống dòm ghì sát mắt. Linh tính báo tàu nghi ngờ chở vũ khí, đạn dược, lương khô. Sáng nay, Phòng nhì cho biết Phú Quốc có chừng một tiểu đoàn Việt Cộng. Bằng bất cứ giá nào chúng cũng phải xâm nhập tiếp tế.

– Đài chỉ huy. Cách 4 hải lý. Hướng 11 giờ. Tốc độ 16 gút.

Võ Bằng dán mắt vào ống dòm, chửi thầm: “Tổ cha nó! Cũng darken ship!”* (không đèn)

– Cách 3 hải lý. Hướng 10 giờ. Tốc độ 14 gút. Sâu 6 fathom.* (11 m)
– Cách 2 hải lý. Hướng 10 giờ. Tốc độ 14 gút.

Võ Bằng gằn giọng:

– Cho nhiệm sở tác chiến!

Tiếng còi rú vang dội. Tiếng chân dập dồn. Các ổ súng lao xao. Tiếng lạch cạch của đạn lên nòng. Vẫn giọng rắn rỏi của Hạm trưởng:

– Các trưởng khẩu kiểm soát nhân viên đầy đủ áo giáp nón sắt.

Mọi người trên đài chỉ huy tự động răm rắp tuân hành. Võ Bằng bước đến bàn hải đồ, mở đèn, xem xét thủy đạo địa thế.

Cố vấn bước vào, hỏi khẽ:

– Hi Cap. Xin cho hỏi…

Võ Bằng cho Cố vấn biết chiến hạm đang chận đầu một tàu nghi ngờ. Có thể có chạm súng, HQ 3736 sẽ đến trợ lực. Cố vấn vội về phòng mặc áo giáp…

– Cách 900 feet. Hướng 9 giờ. Tốc độ 14 gút. Đối vật đổi hướng vào bờ.
– Lái hướng 180.

Mũi chiến hạm hướng về tàu nghi ngờ. Võ Bằng cố đoán ý định của địch. Với bờ biển nhiều san hô thế này, hoặc là nó đang liều đổ bộ hoặc đang quay đầu, bỏ chạy.

Anh ra lệnh:

– Giám lộ. Đánh đèn hỏi nó là ai? Đi đâu?

Ánh đèn chớp tắt phóng đi. Ba lần liên tiếp. Không một đáp trả. Rồi bất ngờ vô số tia chớp lóe lên từ tàu nghi ngờ. Một tràng đốm lửa vụt xé màn đêm, lao thẳng về hướng chiến hạm. Những tiếng lốp bốp từ thành đài chỉ huy. Có tiếng la ở khẩu đại liên 50 tả hạm. “Ối, tôi bị rồi!”. Võ Bằng la to:

– Trừ 76 ly, tất cả phản pháo. Toán cứu cấp. Có người bị thương mạn tả.

Khẩu 40 ly mũi, các khẩu đại và tiểu liên tuôn ra những làn đạn lửa đáp trả. Tàu nghi ngờ tiếp tục bắn. Hai làn đạn giao nhau như hoa đăng.

Tiếng của Hạm phó:

– Nó quay ngược ra khơi. Cách 1200 feet. Hướng 11 giờ.

Hạm trưởng cao giọng:

– Ngưng bắn. Tay lái hết bên phải. Lái hướng 340. Hỏi HQ 3736 đến đâu rồi?
– Hồng Hải, đây Bắc Bình. Đến đâu rồi?
– Ba hải lý nữa mới tới điểm hẹn.
– Tàu địch đang chạy ngược về Gành Dầu. Cẩn thận! Hỏa lực địch khá mạnh.
– Đáp nhận.
– Radar báo cáo. Cách 0,8 hải lý. Hướng 11 giờ. Vận tốc 16.
– Độ sâu?
– Sáu fathom!

Võ Bằng ra lệnh:

– Máy tiến full.

Tiếng Hạm phó từ phòng radar:

– Đài chỉ huy. Đối vật cách 1 hải lý. Vận tốc 16.

Võ Bằng vươn người ra ngoài nhìn xuống mạn tả:

– Nhân viên bị thương ra sao?
– Trình Hạm trưởng, đạn trúng đùi. Y tá đang băng bó.

Anh nhìn vào hải đồ:

– Lái hướng 310.

Tiếng hối hả từ phòng radar:

– Đài chỉ huy. Đối vật cách 2 hải lý. Tăng tốc 20 gút. Hướng 10 giờ!

Võ Bằng rít qua kẽ răng:

– Máy tiến Flank!* (Tốc độ tối đa)

Chiến hạm run lên bần bật. Hai chân Võ Bằng bám chặt sàn sắt, mắt ghì vào ống dòm. Trên làn sóng nhá nhem, vệt nước trắng xóa mờ dần. Anh tiếc cơ hội lỡ mất. Nếu tàu anh có tốc độ cao, dễ gì nó chạy thoát. Anh bấm bộ liên hợp:

– Hồng Hải, đây Bắc Bình! Đó là tàu Bắc Cộng. Nó khai hỏa và bỏ chạy. Cố gắng truy cản. Tác xạ tự do.
– Đã thấy nó trên radar. Cách 2 hải lý. Đang tăng tốc đón đầu.
– Trung úy Tài. Ra lệnh khẩu 76 ly sẵn sàng.

Võ Bằng nói vào loa dẫn đến phòng radar:

– Radar. Cho khoảng cách và hướng độ tàu địch.

Có lời đáp từ loa. Giọng Võ Bằng khô khan:

– 76 ly 2. Tác xạ 1 đạn soi sáng, tầm xa 3.000 mét, hướng 010.

Tiếng nổ chát chúa vang lên. Chiến hạm rùng mình. Mùi khói tạt vào đài chỉ huy khét nghẹt. Võ Bằng dán mắt vào ống dòm. Một đốm lửa bùng lên lộ dạng tàu địch.

– HQ 3736 báo cáo. Thấy tàu địch. Điều chỉnh qua phải.

Võ Bằng nói to:

– Radar. Cho khoảng cách, hướng độ đối vật.

Hạm phó đáp ứng yêu cầu. Giọng Hạm trưởng rắn rỏi:

– 76 ly 2. Tác xạ hai đạn nổ. Tầm xa 3500 mét. Hướng 015.

Hai tiếng nổ vọng về, mơ hồ.

– Bắc Bình. Đây Hồng Hải. Xin ngưng bắn. Tôi đang tiến chận đầu nó.
– Đáp nhận.

Tất cả yên lặng. Võ Bằng hy vọng HQ 3736 chận được và tàu anh sẽ tiến tới, phối hợp tóm gọn địch.

– Đài chỉ huy. Đối vật cách 4 hải lý. Vận tốc 28 gút.

Mười phút sau, duyên tốc đỉnh báo cáo:

– Bắc Bình. Đây Hồng Hải. Tàu địch đổi hướng về Sihanoukville. Không đuổi kịp. Xin cho chỉ thị.

Võ Bằng siết chặt tay ghế, mắt đăm đăm về hướng 1 giờ. Chúng chạy thoát thì thật đáng buồn. Nỗi thất vọng đưa Võ Bằng vào chút hy vọng. Tàu địch cách 4 hải lý vẫn còn trong tầm đạn. Anh hỏi phòng radar vị trí mới nhất rồi gằn giọng:

– 76 ly 2. Bắn 4 quả đạn nổ. Tầm xa 7 ngàn mét. Hướng 015.

Bốn tiếng nổ vang rền không xóa tan được nỗi thất vọng. Nhưng bất ngờ một tiếng nổ lớn vọng lại. Và một cụm lửa bùng cao theo nhiều tiếng nổ phụ. Không lẽ tàu địch trúng đạn?

Cố Vấn Mỹ đặt ống dòm rồi bắt tay Võ Bằng:

– Congratulations! You got it!
– Hồng Hải gọi Bắc Bình. Dường như tàu địch trúng đạn, bốc cháy. Xin cho đến kiểm soát.

Võ Bằng mỉm cười, bóp ống liên hợp:

– Hồng Hải. Đây Bắc Bình. Nó đã vào lãnh hải Miên. Tránh rắc rối. Tôi rất cần bạn. Đến tôi ngay, giúp đưa một nhân viên bị thương về An Thới.
– Đáp nhận hành.

Võ Bằng cho lệnh giảm máy tiến 3 rồi giao đài chỉ huy cho sĩ quan đương phiên. Anh hối hả xuống boong hỏi han nhân viên bị thương. Cố vấn đứng cạnh. Viên đạn xuyên qua đùi, đã được băng bó. Anh nắm tay Hạ sĩ trọng pháo Lưu văn Nghĩa, giọng thân mật:

– Em yên tâm, vết thương không trầm trọng. Ít phút nữa duyên tốc đỉnh sẽ đưa em về bệnh xá. Em xứng đáng được Chiến Thương Bội Tinh.

Nói xong, Võ Bằng và Cố vấn xuống phòng sĩ quan thảo công điện báo cáo diễn tiến tình hình cuộc chạm súng…

* Những đơn vị đo lường hoặc cụm từ được dùng trong ngành Hàng hải.

 

Chương 7

TÌNH DUYÊN HẢI

Đúng 11 giờ trưa, phái đoàn chiến hạm Rạch Gầm gồm Hạm trưởng Võ Bằng, Hạm phó, sĩ quan chiến tranh chính trị và ba đoàn viên bước vào bệnh xá.

Mùi thuốc sát trùng hăng hắc quyện với hương trái cây từ giỏ quà đầu giường. Hạ sĩ Nghĩa bắp đùi quấn băng trắng cố ngồi dậy bắt tay từng người. Đôi mắt sáng rỡ, giọng đầy xúc động:

– Xin cám ơn hạm trưởng, quý vị và các bạn.

Võ Bằng tươi cười:

– Mừng em chóng bình phục. Cả tàu gửi lời thăm em.

Hạ sĩ Nghĩa hỏi thăm hoạt động chiến hạm sau ngày anh bị thương. Tiếng cười đùa rôm rả qua lời kể của mọi người. Không còn tàu địch xâm nhập tiếp tế, chỉ bận rộn xua đuổi các tàu đánh cá của các nước láng giềng vi phạm lãnh hải.

Đến trưa, Võ Bằng vỗ vai Nghĩa:

– Hãy an tâm dưỡng thương. Đừng lo nghĩ cho chiến hạm.
– Nhưng em muốn dự chuyến công tác tới.

***

Rời bệnh xá, cả đoàn kéo đi ăn trưa. Hạm phó giới thiệu quán Hải Âu nổi tiếng. Quán nằm cuối con đường độc nhất đầy sỏi đá của khu phố. Thực khách phần lớn là quân nhân. Mùi cá nướng thơm lừng.

Võ Bằng đảo mắt tìm bàn trống, chợt thấy hai bàn tay vẫy ngoắt. Anh vẫy tay đáp lại hai chị em Như Oanh.

Hạm phó khẽ nói:

– Xin Hạm trưởng tự nhiên.

Bà chủ quán dẫn khách đến bàn trống gần đó. Võ Bằng dừng bên bàn hai chị em:

– Chào chị, chào Như Oanh.

Nàng nghiêng đầu, ánh mắt tinh nghịch:

– Chào Hạm trưởng. Mời Hạm trưởng ngồi.

Võ Bằng ngần ngừ. Như Oanh và chị đã ăn xong. Anh nhìn về bàn hạm phó. Trung úy Tiến đưa ngón cái lên trời. Anh miễn cưỡng kéo ghế ngồi xuống. Như Oanh trêu ghẹo:

– Biển chắc hành hạ Hạm trưởng dữ lắm, ăn cá mú nướng bồi bổ nghen.

Giọng nàng mềm như gió biển. Võ Bằng bật cười:

– Cám ơn Như Oanh. Nhưng cá mú nướng phải ăn hai người mới đúng điệu. Hẹn ngày mai.

Nàng cười khúc khích:

– Rất tán thành. Hôm nay thì ăn bún cá đi.

Khi anh gọi bia Budweiser, Như Oanh thoáng sững người. Budweiser cũng là bia của Vinh, bia của mỗi tối hẹn hò. Ở đây, cả hai cùng thay thế bằng bia quân tiếp vụ. Chút xót xa chạm tim.

Lương phu nhân lên tiếng:

– Hôm HQ 3736 chở Hạ sĩ Nghĩa về bệnh xá, chúng tôi có tháp tùng Tư lệnh đi thăm. Mừng là viên đạn không chạm xương.
– Chúng tôi vừa thăm Nghĩa. Thấy đã khỏe nhiều.

Lương phu nhân góp thêm vài câu rồi đứng lên:

– Em ở lại trò chuyện với Đại úy Bằng. Chị phải về trước.

Như Oanh gật nhẹ, tim rộn lên theo nhịp hân hoan.

Tô bún cá và chai bia được đặt lên bàn. Võ Bằng khui bia uống vài ngụm. Như Oanh nhắc:

– Anh Bằng ăn đi, nguội mất ngon.

Theo kiểu nhà binh, Võ Bằng thanh toán nhanh tô bún. Nàng lặng thinh nghĩ về một địa điểm chị nàng hứa sẽ đưa nàng đến mà chưa có dịp. Nàng nói:

– Mình ra biển đi.

Võ Bằng bước qua dặn Hạm phó:

– Tìm tôi ở bãi biển, khi cần…

***

Quán Sóng nằm trên bãi cát, mái lợp cỏ tranh, bàn ghế đơn sơ, chỉ bán nước dừa và cà phê. Võ Bằng gọi cà phê phin, Như Oanh chọn nước dừa. Gió biển ùa qua rừng dừa thưa, qua tán dù che bóng mát hai chiếc ghế tựa đặt cạnh nhau. Trước mặt họ là biển xanh bát ngát, hàng chục chiếc ghe câu bồng bềnh, dăm ba người đùa giỡn sóng nước.

Họ im lặng rất lâu, như chờ người kia mở lời trước. Võ Bằng khẽ hỏi, giọng bâng quơ:

– Người ấy đã từng đến quán này chưa?

Như Oanh khẽ nhíu mày:

– Người ấy?
– Ừ… người ấy.

Nàng bật cười khi hiểu ra:

– Chưa. Đây là lần đầu Như Oanh đến.

Thật may. Nàng nghĩ. Nếu hôm nay vào đúng cái quán hôm trước đi với Vinh, thì không biết trả lời sao! Nàng nhìn quanh. Cái quán đó cách không xa.

– Chỗ này đẹp thật. Lại rất hữu tình.

Nàng đưa mắt nhìn xa khơi, giọng thầm thì:

– Trời cao, biển rộng… tình người có bao la không anh?”

Họ nhìn nhau. Gió biển làm những sợi tóc nàng lòa xòa trước trán. Nàng đưa tay vén. Khuôn mặt như nàng tiên. Anh chàng nào được nàng yêu thương hẳn là kẻ may mắn nhất trần đời. Tiếng Võ Bằng trầm buồn:

– Người ấy… thế nào?
– Thế nào là thế nào?
– Thế nào cũng được. Hỏi để hỏi!

Trả lời sao đây? Không lẽ thẳng thừng đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu? Bốn câu thơ của T.T. Kh. bất ngờ hiện ra. Nàng vui vẻ đọc:

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi…

Võ Bằng nhỏm người quay sang Như Oanh:

– Sao người ấy lại sợ như vậy?
– Tại Như Oanh có hơi lạng quạng!
– Lạng quạng thế nào?

Thế nào ư? Như Oanh tự hỏi. Vì sao một chàng đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu lại không chiếm trọn trái tim nàng? Vì sao một nét mặt hiền hòa, một tia nhìn bình thản, một lối nói không ồn ào lại làm xao động tâm tư?

Như Oanh mỉm cười:

– Anh biết không, anh tò mò thật đấy. Như Oanh sẽ nói nếu anh cho biết tại sao anh thắc mắc!
– Lẽ thường, quen với người nào, người ta đều mong được biết ít nhiều về người đó.
– À, vậy thì xin nói ít nhiều về Như Oanh. Tuổi 22, nghề dạy học, đang sống chung với cha mẹ.
– Sắp đám hỏi thật sao?
– Như Oanh chỉ đồng ý sau khi nhận được sự vụ lệnh đi dạy.
– Chỉ có thế mà “Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”?
– Lẽ thường ai đang yêu mà không sợ tan vỡ!
– Như Oanh đánh trống lảng tài thật!

Như Oanh nâng ly nước dừa uống một hơi. Trong đầu nàng trôi về hai ngày đi chơi với Vinh. Chỉ hai ngày đủ cho Vinh nhận ra sóng gió trong lòng nàng. Nàng trầm buồn:

– Khi biết Như Oanh lạng quạng, người ấy đã buông một câu vừa trách móc vừa lo lắng: “Đừng có khùng!”
– Lạ quá! Tôi cũng từng nói câu đó với người tôi yêu.
– Trường hợp nào?

Võ Bằng khuấy tách cà phê, uống vài hớp:

– Do hoàn cảnh đẩy đưa nàng nhận làm vợ một trung úy Mỹ. Trước ngày lên máy bay theo chồng, nàng khóc, nói chỉ cần tôi mở lời, nàng sẽ ở lại. Tôi muốn lắm, nhưng tự xét lương thiếu úy chưa kham nổi một gia đình nên bảo: “Đừng có khùng!”

Như Oanh lặng đi. Sóng vẫn xô bờ mà lòng nàng vỡ òa một nỗi buồn. Nàng nghe tâm hồn chùng xuống, như tấm lụa mong manh giữa gió. Có lẽ Vinh nói đúng. Chẳng qua chỉ là tình cảm nhất thời, như những mối tình mong manh thời trung học. Lãng mạn chỉ khổ thân…

Như Oanh hít một hơi thật sâu, quyết định:

– Sự việc thế này. Hôm anh Bằng rời đi công tác, người ấy tới An Thới. Thấy Như Oanh đón tiếp thiếu nồng nhiệt, không như ở Sài Gòn, nên khi chia tay người ấy khuyên: “Đừng có khùng”. Anh Bằng thấy… đúng phải không?

Võ Bằng trầm ngâm phút giây rồi chậm rãi đáp:

– Câu trả lời là thế này. Ngay đêm đầu tiên gặp Như Oanh, tình cảm tôi đè nén bấy lâu bỗng bùng vỡ. Trí óc tôi bảo không nên, nhưng trái tim lại khuyên: “Đừng có khùng!”

Một làn sóng xúc động ập vào tâm hồn Như Oanh. Nàng cúi mặt, lặng lẽ cân nhắc lòng mình. Một cơn gió mạnh thổi qua, chiếc nón của nàng bay tạt về phía anh. Võ Bằng đưa tay giữ lại đúng lúc nàng vói sang. Các đầu ngón tay như dòng điện chạm nhau. Cả hai lặng người, nghe rõ nhịp tim hòa nhịp sóng.

Võ Bằng nghiêng người nhìn khuôn mặt nàng, khuôn mặt đã ám ảnh anh suốt chuyến công tác. Khuôn mặt thiên thần đó, những nét mềm mại vương vài sợi tóc lòa xòa. Đôi mắt hút hồn. Đôi môi gợi cảm.

Như Oanh cầm về chiếc nón, giọng nói như gió thoảng:

- Anh Bằng gắn bó với biển từ bao giờ?
- Từ năm thứ nhất đại học. Tôi không chọn biển mà biển chọn tôi.
– Là sao?
– Thằng bạn học muốn gia nhập Hải Quân, rủ rê tôi đi cùng. Đi rồi mới… mê biển!

Oanh gật đầu, nâng ly uống ừng ực. Nước dịu ngọt giúp nàng ngọt lời hơn:

- Trường hợp Như Oanh cũng vậy. Bà chị rủ rê ra Phú Quốc, bảo bốn bề là biển, sóng vỗ về ngày đêm. Thế rồi đâm ra yêu biển, yêu sóng gió và khùng nhất là yêu luôn… chiến hạm! Yêu mà sợ!
- Sợ nhớ hay sợ… phải quên?
- Cả hai.

Võ Bằng nhìn nàng, ánh mắt dò xét:

- Tôi không biết chừng nào Như Oanh về Sài Gòn, nhưng nếu tôi nói tôi muốn Như Oanh ở lại, liệu tôi có bị cho là… khùng?

Nàng làm mặt giận:

– Đâu dám!
– Vậy Như Oanh ở lại?
– Có muốn cũng không thể. Như Oanh phải về đi dạy. Người ấy ra đây để trao lệnh bổ nhiệm. Như Oanh phải về chuyến bay sớm nhất.

Họ im lặng rất lâu. Biển mênh mông như hòa chung nỗi buồn. Võ Bằng trầm giọng:

– Tám ngày qua, hẳn Như Oanh dành hết cho người ấy?

Nàng mỉm cười, thoáng bối rối:

– Phần nào thôi!
– Phần còn lại?
– Trông ngóng… Rạch Gầm!

Như Oanh giận cho mồm miệng nhanh nhẩu đoảng. Nhưng Võ Bằng như không quan tâm, tiếp tục thắc mắc:

– Hôm nay Như Oanh thảnh thơi thế này chắc người ấy đã rời An Thới?
– Người ấy mới ở hai ngày thì Sài Gòn triệu hồi về gấp!
– Nếu cho là tôi quá tò mò, thì miễn trả lời: hai ngày đó… thế nào?
– Rất vui. Nhưng sau khi người ấy đi rồi thì không nhớ lắm!
– Nghĩa là có nhớ?
– Có chứ, bốn năm yêu nhau mà!

Võ Bằng lặng thinh. Nàng không hối hận. Sự việc rõ ràng, nàng nói khác, anh biết ngay nàng nói dối! Một đám mây trôi qua mặt trời. Gió mát hơn giúp nàng dễ thở hơn. Nàng đổi giọng vui vẻ:

– Ngày mai anh Thám đưa tụi em đi Dương Đông mua vé máy bay. Khi về, Như Oanh sẽ xuống Rạch Gầm…

Nói xong, nàng nghe mặt nóng bừng. Võ Bằng hân hoan gật đầu:

– Tôi sẽ chờ…

Như Oanh nghiêng người tránh tia nhìn đam mê. Rặng dừa ôm lấy các tán dù trên bãi cát trải dài. Nàng quay lại, mỉm cười:

– Ai đặt cái từ “duyên hải” nghe hay thật. Duyên là duyên gặp gỡ. Hải là biển. Gặp nhau ở biển.

Võ Bằng bật cười thích thú:

– Sáng tác nghĩa mới thật tuyệt. Đúng là giáo sư Việt văn!

Như Oanh mỉm cười, như trêu chọc:

– Cho nên về đất liền là hết duyên hải!

Võ Bằng choáng váng. Như Oanh tàn nhẫn quá. Niềm vui trao chưa kịp nhận đã vứt bỏ. Số mình sao cứ là số… vô duyên! Đụng cô nào là cô nấy đi lấy chồng!

Hai người nằm lặng im bên nhau rất lâu, như đã nói hết với nhau lần cuối.

Rồi họ rời quán, đi dọc theo bãi. Như Oanh nhớ lần đi với Vinh vui thích đuổi còng, nhặt vỏ sò dọc bãi Chướng, Hòn Thơm. Lần đó, mới tuần rồi… Thế mà hôm nay, đi với người mới quen, nàng chỉ lo ngăn cản những cảm giác lạ lùng.

Rồi một lần, bàn tay Võ Bằng chạm tay nàng và nắm chặt. Nàng không rút lại. Không ai nói gì. Tiếng sóng ập vào ghềnh, tiếng gió len qua cành lá hòa với nhịp đập rộn ràng của hai con tim.

Giọng trầm buồn của Võ Bằng:

– Có thật rồi mình sẽ không còn gặp nhau?
– Em không biết. Em cần thời gian xét lại lòng mình. Khi mãn công tác, trước khi về Sài Gòn, anh hãy gặp chị em. Nếu chị chuyển lời, tức là em đã chọn…

Họ dừng lại nơi mép sóng. Như Oanh khẽ choàng tay qua lưng anh, cúi mặt nhìn nước tràn vào chân rồi rút đi như cuộc tình đến rồi rời xa.

Anh đứng lặng, mắt dán vào đường chân trời, nơi biển và trời hòa làm một. Thì sao với anh và nàng, hai người sẽ mãi hai nơi? Chẳng lẽ đời anh bao giờ cũng vẫn chỉ có biển và con tàu?

Và sẽ buồn hay vui khi mang thêm dư âm cuộc tình… duyên hải?

 

Chương 8

TỪ AN THỚI ĐẾN NAM DU

Khi Võ Bằng bước vào phòng họp, các sĩ quan đã tề tựu đông đủ, kể cả cố vấn. Tất cả đứng lên chào. Anh đáp lễ bằng một cái gật nhẹ rồi ra hiệu mời ngồi.

Từ ghế đầu bàn, anh nói chậm rãi đủ để cố vấn cũng theo kịp:

– Chúng ta sẽ đảm trách tuần tiễu trục Nam Du – Bà Lụa trong 8 ngày, ngăn chận Bắc Cộng tiếp tế người và vũ khí cho 2 sư đoàn của chúng hoạt động vùng Rạch Giá – Cà Mau, mà cũng có thể là cho cả miền Tây. Đây là vùng tiếp tế quan trọng và thuận lợi cho chúng vì ven bờ có nhiều cửa sông kín đáo, ngoài biển lại có nhiều đảo nhỏ trú ẩn. Tàu tiếp tế chỉ việc hoặc chạy thẳng vào bờ hoặc chuyển hàng lên đảo rồi từ từ đưa vào bằng ghe. Với ghe, chúng dễ phi tang bằng cách tuôn hàng xuống biển khi thấy tàu tuần tiến tới.

Võ Bằng tiếp tục sau khi nhìn cố vấn Mỹ tỏ dấu đã hiểu:

– Tàu Bắc Cộng có tốc độ cao, ngụy trang tàu đánh cá nhưng trang bị vũ khí. Khi bị chận xét, chúng chạy thoát ra hải phận quốc tế; nếu bị dồn vào thế cùng, chúng liều mạng nổ súng. Sĩ quan đương phiên không được tự tiện khám xét. Tùy tình hình, chúng ta tăng cường đơn vị bạn. Đơn vị bạn vùng này cũng đông hơn: chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội, các chiến đỉnh của Hải Đội 4, nhiều chiến thuyền của các Duyên Đoàn.

Anh trao bao thư mật cho sĩ quan truyền tin:

– Chuẩn bị sẵn sàng máy và tần số liên lạc.

Ánh mắt Võ Bằng lướt qua mọi người:

– Có trưởng ban nào gặp trở ngại?

Những cái lắc đầu. Vài tiếng “không” gọn lỏn.

Võ Bằng nhìn Hạm phó:

– Anh cho tập họp nhân viên thông báo mỗi ngày làm việc như thường lệ, trừ cuối tuần. Đặc biệt gõ sét, sơn lót, tu bổ súng và sẵn sàng đạn.

Võ Bằng đứng lên, giọng rắn rỏi:

– Hạm phó tập họp xong, chúng ta tách bến!

***

Trong tiếng động cơ rầm rì, tiếng leng keng đổi vận tốc, Trợ Chiến Hạm Rạch Gầm tách khỏi cầu, hướng ra biển. Võ Bằng quay nhìn ngôi nhà tiền chế trên đồi, nơi tiên nữ bất ngờ giáng trần đã “giáng” xuống anh một đòn ngơ ngẩn. Một chút bồi hồi nhớ nhung… Anh tự hỏi, giả sử Hoàng Như Oanh còn ở An Thới, nàng có ra bến tàu tiễn đưa? Tiếng xạc xào nhịp nhàng của mũi tàu chẻ nước gợi nhớ buổi chia tay nơi bãi biển chiều hôm trước. Anh như còn thấy bàn tay vẫy cùng nụ cười buồn của nàng.

Sáng hôm qua, anh bỏ tiền riêng nhờ nhà bếp nấu một bữa ăn tối tương đối thịnh soạn thết đãi Như Oanh, nhưng tiên nữ lại… bỏ “về trời”. Sáu giờ chiều, bàn ăn sẵn sàng thì một thủy thủ từ nhà Tư lệnh đến trao cho anh phong thư. Anh đã vội mở và thẫn thờ đọc mấy dòng chữ: “Như Oanh xin lỗi anh Bằng. Đến Dương Đông, máy bay có sẵn nên không thể trở lại An Thới viếng chiến hạm như đã hứa. Xin nhắc: trước khi anh về Sài Gòn đừng quên gặp chị của Oanh.”

Biển sáng nay thật êm, chỉ gợn sóng lăn tăn đủ để dâng nỗi buồn thêm da diết. Ánh xám của mây khiến màu biển thêm xanh. Vài chiếc ghe câu thả lưới thong thả. Dăm con hải âu chao lượn nhởn nhơ. Đài chỉ huy im lặng như đang chiêm ngưỡng vẻ đẹp ban mai trên Hòn Dừa.

Chiến hạm vừa qua khỏi đảo đổi hướng về Hòn Dăm Ngoài rồi trực chỉ quần đảo Nam Du, đoạn đường 30 hải lý, ba tiếng hải trình. Quá dài cho một vùng biển quang đãng, không đá ngầm, chỉ lác đác vài chiếc ghe nhỏ…

Chẳng lẽ cứ ngồi nhìn mây nước mà nhớ bóng dáng Như Oanh? Võ Bằng ngăn tiếng thở dài. Coi như hết rồi… Hãy quên đi như đã từng quên…

Nhưng làm gì để quên bây giờ? Một ý nghĩ vụt qua. Võ Bằng chợt nhớ môn học “Tổ Chức Chiến Hạm”. Đây chính thời điểm thích hợp để tìm hiểu từng sĩ quan thuộc quyền. Anh quay sang Hạm phó đang đứng bên cánh tả:

– Anh Tiến, thông báo cho tất cả sĩ quan: tôi muốn gặp riêng từng người, theo thâm niên. Quân phục làm việc. Trình diện ở phòng Hạm trưởng. Mười lăm phút nữa, bắt đầu là Hạm phó.

Võ Bằng đứng lên. Tiếng hô “Nghiêm” tiễn Hạm trưởng rời đài chỉ huy.

Về buồng, mở tủ lấy quân bạ sáu sĩ quan, anh ngồi vào bàn đọc nhanh từng hồ sơ. Đúng giờ, tiếng gõ cửa vang lên.

Hạm phó Tiến bước vào, chào kính, giọng rắn rỏi:

– Hải quân Trung úy Phạm Lê Tiến trình diện Hạm trưởng.

Anh nghe lòng bồi hồi chen lẫn hãnh diện. Mới đây thôi, anh trình diện Mặt Trời. Đó là lần chót chỉ chuyên làm thuộc cấp trình diện. Hôm nay lần đầu anh được lên hàng… thượng cấp! Võ Bằng thấy rộn ràng. Anh nhìn thẳng vào mắt người đối diện, tay chỉ ghế:

– Mời ngồi.

Khi thấy Trung úy Tiến đã an vị thoải mái, Võ Bằng tiếp:

– Anh quê quán Long An, còn tôi Châu Đốc, cùng là dân miền Tây. Tình cảm ra sao?

Tiến tỏ vẻ ngạc nhiên rồi mỉm cười:

– Thưa… đang yêu.

Võ Bằng nhớ đến tình cảm lang bang của mình, cười hỏi:

– Một hay nhiều?
– Một là quá đủ, thưa Hạm trưởng.
– Dự tính xây dựng gia đình?
– Thưa, chắc năm tới.

Võ Bằng gật đầu hài lòng:

– Nhớ mời tôi nghen!
– Chắc chắn, thưa Hạm trưởng.
– Anh tốt nghiệp khóa 12?
– Thưa phải.
– Theo quân bạ, anh đi biển từ ngày ra trường đến nay, liên tục 6 năm. Kinh nghiệm đi biển của anh tương đương tôi. Với anh, anh tin vào điều gì nhất?

Hạm phó Tiến nhíu mày:

– Xin Hạm trưởng giải thích rõ hơn!
– Tôi muốn hỏi, để thành công trong việc chỉ huy một chiến hạm, anh tin vào điều gì nhất?
– Thưa, kỷ luật và tình đồng đội.
– Đó là một phần trong các nhiệm vụ khó khăn của một Hạm trưởng. Ngoài ra, còn phải áp dụng mọi biện pháp để giữ an toàn cho thủy thủ đoàn và cho chiến hạm. Anh tin mình sẽ hoàn tất nhiệm vụ để sẵn sàng chức vụ mới?
– Thưa, tôi sẽ tận tâm tận lực thực hiện.
– Theo Huấn thị Điều hành Căn bản, Hạm phó là người kế nhiệm Hạm trưởng. Anh là người trực tiếp quản trị và điều hành các ban. Tôi sẽ thông báo cho anh mọi tin tức liên quan đến chiến hạm để anh thông suốt khi thi hành mọi mệnh lệnh của tôi.
– Tôi hiểu, thưa Hạm trưởng.
– Ngược lại, anh phải báo cáo cho tôi tất cả các vấn đề liên quan đến thủy thủ đoàn và chiến hạm. Phải luôn luôn cảnh giác, đừng chủ quan.
– Tôi hiểu, thưa Hạm trưởng.
– Tốt! Anh đã có một năm làm hạm phó tuần duyên hạm và một năm ở tàu này. Kỳ bình điểm cuối năm, tôi sẽ đề nghị anh đủ khả năng làm hạm trưởng.
– Xin cám ơn Hạm trưởng.
– Ngoài chức vụ Hạm phó, anh còn kiêm nhiệm sĩ quan chiến tranh chính trị. Nhớ duy trì lớp chính huấn hàng tháng. Phải luôn nâng cao tinh thần tích cực chống Cộng.
– Tuân lệnh.
– Tôi rất vững tâm nơi anh. Cám ơn anh.

Hạm trưởng chìa tay. Hạm phó đứng lên nghiêng người nắm bắt rồi xoay nửa vòng rời phòng.

***

Trung úy Đặng Thành Tài, Trưởng ban Hải hành bước vào. Võ Bằng hài lòng nhìn lối đi mạnh dạn, chào kính đúng quân cách, thân mật hỏi:

– Anh khóa 13, quê quán Nha Trang?
– Thưa phải.
– Tôi có nhiều kỷ niệm với Nha Trang. Thời đi học, lẫn thời quân trường. Còn anh, nơi nào tặng anh kỷ niệm sâu đậm nhất?
– Thưa, Mỹ Tho. Tôi ở đó liên tục 6 năm. Từ sĩ quan mới ra trường lên đến Giang đoàn trưởng.
– Vậy mà lại xuống chiến hạm làm sĩ quan đệ tam?
– Thưa, tôi tình nguyện xin được trở về với biển.
– Đã đi biển bao lâu?
– Thưa 8 tháng trên Hải vận hạm HQ 410.
– Trong 8 tháng ở biển, anh có kinh nghiệm nào đáng nhớ, đáng học?
– Thưa, trải qua hai trận bão. Cứ sợ tàu chìm.

Võ Bằng nhìn bộ mặt rắn rỏi của Tài:

– Vậy thật ra anh thích chiến hạm hay thích giang đoàn? Trong sông không sóng gió.

Tài nhìn huy hiệu “bánh xe nước mía” trên túi áo của Hạm trưởng:

– Thưa, dĩ nhiên là chiến hạm. Tôi lúc nào cũng mong tới ngày được đeo huy hiệu Hạm trưởng.

Võ Bằng mỉm cười:

– Đi biển, điểm mạnh nhất của anh là gì?
– Hải hành. Tôi có thể định vị chính xác chiến hạm ngày như đêm.
– Anh đã chứng tỏ qua chuyến công tác vừa rồi. Còn điểm yếu?
– Vẫn còn say sóng.
– Đa số mới đi biển đều say sóng. Rồi sẽ quen. Khi Hạm phó Tiến rời tàu, anh sẽ lên thay. Lúc đó anh sẽ quên ói mửa.

Cả hai cùng cười. Giọng Tài hân hoan:

– Cám ơn Hạm trưởng.
– Cám ơn anh.

***

Trung úy Bùi Anh Tuấn, Trưởng ban Truyền tin, An ninh trình diện đúng quân cách.

– Khóa 14 và quê quán Biên Hòa?
– Thưa phải.

Võ Bằng gục gặc đầu:

– Tôi rất thích bưởi Biên Hòa! Còn anh, vì sao bỏ Biên Hòa và chọn Hải Quân?
– Thưa Hạm trưởng, món nào ăn hoài rồi cũng ngán. Tôi gia nhập Hải Quân để đổi món.

Cả hai cười vang. Võ Bằng nói:

– Anh thấy sao về hai món Truyền tin và An ninh?
– Khó nuốt nhưng phải ráng!
– Anh học về an ninh ở trường Quân Báo Cây Mai?
– Thưa phải!
– Các chức năng chính về an ninh là gì?
– Thưa, thứ nhất thu thập tin tức về địch; thứ hai phân tích, tổng hợp, đánh giá; thứ ba khai thác, tức là suy đoán ý đồ và tiên đoán hành động của địch; thứ tư bảo vệ an ninh cơ sở; thứ năm đề phòng địch xâm nhập hệ thống truyền tin và thứ sáu, ngụy tạo tin tức đánh lừa địch.
– Trong chức năng an ninh chiến hạm, anh có những biện pháp nào? Đây là vấn đề tôi quan tâm hàng đầu.
– Thưa kiểm soát chặt chẽ xuất nhập. Khóa an toàn kho vũ khí. Bảo vệ tài liệu kín, mật. Sàng lọc nhân viên. Phân định khu vực cấm, hạn chế…
– Tôi hài lòng thấy anh rất thuộc bài. Điều quan trọng là anh phải thực hiện thật nghiêm chỉnh.
– Xin tuân lệnh.
– Còn truyền tin, cũng quan trọng không kém. Anh phải nắm vững các thiết bị, công suất, tần số và các đặc điểm của mọi máy phát, thu. Một chiến hạm tê liệt truyền tin giống như một người vừa câm vừa điếc. Anh phải thường xuyên đôn đốc nhân viên học hỏi, bảo trì. Cám ơn anh.

***

Một anh chàng trẻ trung, to con, quân phục chỉnh tề, khuôn mặt trẻ trung, nghiêm nghị đến chào kính rồi mạnh dạn lên tiếng:

– Hải Quân Thiếu úy Dương Công Đức. Khóa 15, quê Hố Nai. Hai chức vụ: Vận chuyển và Ẩm thực.
– Ra trường năm nào?
– Thưa, 1967.
– Đến hôm nay, anh đã đủ 2 năm lên Trung úy rồi. Chừng nào đeo lon mới?
– Thưa, nghe bạn ở Phòng Tổng quản trị nói đã có quyết định thăng cấp, sắp phổ biến.
– Khi nhận được quyết định, tôi sẽ tổ chức tiệc để cả tàu chia vui cùng anh.
– Xin cám ơn Hạm trưởng.
– Ba mẹ còn đủ?
– Thưa còn.
– Hôm tiệc thăng cấp, nhớ chuyển lời tôi mời ba mẹ anh tham dự.

Thiếu úy Đức nói với giọng xúc động:

– Xin cám ơn Hạm trưởng.
– Anh đang giữ cùng lúc hai chức vụ quan trọng: Vận chuyển và Ẩm thực. Có gì khó khăn cần giải quyết?
– Về Ẩm thực, hôm trước tôi đã trình Hạm trưởng là chợ An Thới thiếu rau thịt…
– Chuyến này tôi sẽ cho đi chợ Rạch Giá. Còn gì nữa?
– Thưa, chỉ có thế.
– Hãy cố gắng cho anh em ăn ngon, đầy đủ. Tôi không muốn nghe lời than phiền.
– Nhận rõ.
– Còn về ngành Vận chuyển. Hãy nhớ, có một sự việc hiếm khi xảy ra nhưng lại xảy ra bất ngờ cùng với tử thần. Phải sẵn sàng cho nhiệm sở đào thoát. Anh có thường xuyên kiểm tra ca-nô và lương khô?
– Thưa có. Ca-nô tình trạng khiển dụng. Lương khô đến năm tới mới hết hạn.
– Đầy đủ các phao cá nhân cho từng anh em?
– Thưa đầy đủ.
– Trái sáng? La bàn? Dụng cụ câu cá? Dụng cụ tạo nước, chứa nước?
– Thưa đầy đủ.
– Cám ơn anh.

Thiếu úy Đức vừa xoay người ra cửa thì tiếng điện thoại nội bộ reo vang. Võ Bằng nhấc máy:

– Hạm trưởng nghe đây.
– Thưa, có tàu xuất hiện và có đánh đèn “Chào Hạm trưởng Võ Bằng”.

Võ Bằng vội bước ra ngoài, báo hai sĩ quan còn lại trình diện dịp khác rồi bước nhanh lên đài chỉ huy. Qua ống dòm, Võ Bằng đọc trên mạn tả trước mũi các chữ số trắng nổi bật: HQ 015. Đó là chiến hạm rời vùng về nghỉ bến và tàu anh đến thay thế. Anh lật tập danh sách Hạm Trưởng đương nhiệm. Hạm trưởng HQ 015 là Hải Quân Thiếu tá Trần Văn Quý, khóa đàn anh. Võ Bằng ra lệnh:

– Thủ tục chào kính Hạm trưởng thâm niên.

Khi hai chiến hạm ngang nhau, một hồi còi dài lanh lảnh nổi lên. Mọi người trên đài chỉ huy đứng nghiêm. Võ Bằng đưa tay chào và nhận chào đáp của Hạm trưởng HQ 015. Qua tiếng còi vọng đến giữa trời biển bao la, anh chợt nghe lòng ấm lại: tình đoàn kết thương yêu giữa những người lính biển và những con tàu vẫn luôn bền chặt.

Chiếc HQ 015 vừa qua khỏi, Cố vấn Mỹ nói với Võ Bằng:

– Tôi vừa nhận tin, có một tàu khá lớn lảng vảng ngoài khơi, gần đảo Thổ Châu. Nghi ngờ đợi trời tối xâm nhập vùng Cà Mau, Rạch Giá. Sẽ có tin thêm.

Võ Bằng từng tuần tiễu vùng quần đảo Thổ Châu, là tiền đồn của lãnh hải Việt Nam trong vịnh Thái Lan, cách An Thới 100 cây số về phía tây nam. Tàu nghi ngờ còn trong vùng trách nhiệm của chiến hạm bạn. Tối xâm nhập thì tối tính. Bây giờ nghỉ ngơi lấy sức trước đã. Anh dợm bước đến cầu thang dẫn về phòng riêng thì máy PRC 46 phát thanh:

– Bắc Bình, đây Thái Dương.

Anh trở lui, mở danh sách truyền tin. Thái Dương là ám danh Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải. Anh bấm máy phát:

– Bắc Bình nghe Thái Dương.
– Không tuần cho biết có một tàu khả nghi đang ủi bãi Vàm Kim Qui. Yêu cầu quý đơn vị đến yểm trợ hỏa lực và phối hợp khám xét.
– Đáp nhận hành.

Võ Bằng gác máy, đo đạc. Cũng phải chiều tối mới đến vị trí chỉ định. Anh cho tăng tốc rồi vẩn vơ thầm nhủ:

– Tối nay lu bu lắm đây!

 

Chương 9

ĐÊM TRÊN QUẦN ĐẢO NAM DU

Chiều xuống, lúc 5 giờ, chiến hạm vừa đến Vàm Kim Quy thì công điện từ Vùng 4 chuyển đến ‘để thông báo’: “Phóng pháo cơ đã tiêu diệt tàu xâm nhập. Kết quả địch 2 chết, 3 bị thương. Súng đạn và thuốc men đã thu, chiến thuyền giải giao về Rạch Giá.”

Công điện thứ hai gửi trực tiếp cho Rạch Gầm: “Yêu cầu quý chiến hạm trở lại vùng trách nhiệm”.

Võ Bằng ngồi lặng thinh, ngước nhìn ra biển. Vẫn là trục quen thuộc mà đầy rẫy hiểm nguy. Anh tính nhẩm: ba ngày cho 20 đảo hoang Nam Du, rồi còn chuỗi ngày vất vả hơn ở Bà Lụa. Nhưng ít ra, Bà Lụa gần An Thới hơn. Gần hơn bóng dáng Như Oanh. Có lẽ giờ này nàng đã có tin nhắn cho chị mình…

Từ Vàm Kim Quy đến Nam Du cần 3 tiếng cho 30 hải lý. Võ Bằng thấy đủ thì giờ cho cơm chiều và tiếp tục cuộc gặp gỡ ban tham mưu.

Sau bữa ăn, Võ Bằng chỉ thị Thiếu úy Lũy, Thiếu úy Quang và Quản nội trưởng lần lượt trình diện vào lúc 7 giờ.

***

– Hải quân Thiếu úy Đỗ Văn Lũy trình diện Hạm trưởng.

Cách chào kính mạnh mẽ, khuôn mặt trang nghiêm, thế đứng cứng cỏi. Giọng Huế như lần mò vào tim óc gợi nhớ những mối tình xa xưa. Nào Tuyết, nào Hiền, nào Hồng. Võ Bằng mỉm cười:

– Nghỉ. Mời ngồi.

Anh mở sổ quân bạ:

– Anh ở đường Trần Hưng Đạo, đoạn nào?
– Thưa, ngang chợ Đông Ba.
– Tôi từng đến chợ Đông Ba ngay sau Tết Mậu Thân. Khi ấy, chợ xác xơ lắm!
– Thưa Hạm trưởng, bây giờ đông đúc như xưa rồi. Tôi vừa về thăm ba mạ trước khi tàu công tác.

“Ba mạ” – hai tiếng gợi nhớ Hồng và đứa con nuôi. Anh thoáng bâng khuâng, rồi hỏi tiếp:

– Anh khóa mấy?
– Khóa 16, thưa Hạm trưởng.
– Với chức vụ trưởng ban trọng pháo, anh hoàn thành thế nào?
– Thưa, rèn luyện nhân viên tác xạ chính xác. Bảo trì vũ khí các loại. Kiểm soát chặt chẽ xuất nhập. Tiếp nhận đạn dược, cất giữ, di chuyển an toàn. Bổ sung kịp thời súng hư hỏng và đạn tiêu thụ.

Võ Bằng mỉm cười:

– Riêng cá nhân anh, có tiêu thụ đạn bừa bãi không?

Thiếu úy Lũy cố giữ mặt nghiêm trang:

– Thưa không.
– Tốt. Giữ như vậy. Đừng để mang tai tiếng Hải Quân.
– Đáp nhận.
– Tôi rất hài lòng và tin tưởng ở anh. Cám ơn anh.

Cũng như khi đến, Lũy trịnh trọng chào rồi quay lui.

Sĩ quan Cơ điện và Phòng tai bước vào:

– Hải quân Thiếu úy Ngô Quang trình diện Hạm trưởng.

Võ Bằng chào đáp:

– Mời ngồi.

Quang ngồi, hai tay trên đùi. Các móng tay hơi đen, có lẽ do dầu mỡ.

– Vì sao anh chọn ngành máy móc mà không là chỉ huy?
– Thưa, tôi rất mê máy móc. Thích nghiên cứu cách nó vận hành.
– Chắc anh đồng ý: tàu hư máy thì coi như vừa đui vừa què. Chuyến vừa rồi, các máy chánh máy điện đều vận hành hoàn hảo. Anh rất đáng khen.
– Cám ơn Hạm trưởng.
– Còn về phương diện phòng tai. Hãy luôn giáo dục phòng ngừa tai nạn. Nhắc nhở nhân viên an toàn là trách nhiệm của mỗi người. Phổ biến các kinh nghiệm sai lầm của người khác để học hỏi cách phòng ngừa. Đặc biệt chú tâm phát hiện hỏa hoạn, phá hoại, tấn công…
– Nhận rõ, thưa Hạm trưởng.
– Anh có nguyện vọng gì không?
– Thưa không!
– Cám ơn anh.

Cuối cùng, một chàng trung niên cao ráo, rắn rỏi, quần áo thẳng nếp, ngực đeo nhiều huy chương với ba anh dũng bội tinh bước vào:

– Thượng sĩ Trọng pháo Lâm Văn Minh trình diện Hạm trưởng.
– Mời ngồi.

Anh ngập ngừng ngồi lên nửa ghế. Võ Bằng niềm nở giúp anh bớt ái ngại:

– Nhìn huy chương là biết anh gan dạ, gương mẫu. Thời gian ngắn vừa qua đã đủ cho tôi thấy thấy thủy thủ đoàn đối với nhau bằng tình huynh đệ. Đó là công lao lớn của anh. Tôi hoàn toàn tán thành việc cựu Hạm trưởng chỉ định anh làm Quản nội trưởng và tôi mong anh vẫn tiếp tục chức vụ này.
– Rất hân hạnh, thưa Hạm trưởng.
– Tôi biết anh rất hiểu nhiệm vụ của mình. Tôi chỉ muốn nhắc nhở vài điểm quan trọng.

Chờ Thượng sĩ Minh chăm chú lắng nghe, Võ Bằng tiếp:

– Chức vụ quản nội trưởng là cầu nối giữa đoàn viên và sĩ quan, dĩ nhiên rất tế nhị, khó khăn. Hãy cố gắng duy trì tinh thần đoàn kết. Đôn đốc nhân viên làm việc với nhiệt tình. Đồng thời nắm vững mọi sinh hoạt và báo cho hạm phó hoặc trực tiếp gặp tôi trình bày mọi sự kiện có thể gây ra hiệu quả xấu cho chiến hạm. Nhiệt thành tiếp nhận và đạo đạt mọi nguyện vọng nhân viên.
– Nhận rõ, thưa Hạm trưởng
– Cám ơn anh.

Khi Võ Bằng lên đài chỉ huy, cả quần đảo đã chìm vào bóng tối. Chiến hạm sắp sửa ngang qua Hòn Mấu tiến đến Hòn Nồm, cực nam của quần đảo Nam Du. Dự tính là sau khi qua Hòn Mấu, sẽ đổi hướng đi vào vùng trong của quần đảo, từ đó len lỏi tuần tra lần lượt 20 đảo kết hợp thành vòng tròn. Thế nhưng thời tiết không còn thuận lợi. Gió giật, rít qua đài chỉ huy. Sóng bắt đầu rung lắc con tàu. Mây đen chớp giật, tung cơn mưa rào xối xả. Hạt to nặng bay lộp bộp vào kính chắn gió…

Võ Bằng lầm bầm kêu than. Ông Trời đúng là giở chứng. Gần qua tháng 11 rồi. Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 mà còn mưa cái nỗi gì!

– Đài chỉ huy. Radar bị nhiễu xạ, không thấy đối vật.

Võ Bằng bước đến bàn hải đồ xem xét vị trí sau cùng. Với tình trạng radar có như không, với dòng hải lưu chảy từ tây-nam lên đông-bắc, cách an toàn nhất là giữ chiến hạm dọc phía đông quần đảo. Nếu có bị dòng hải lưu tác động thì chiến hạm càng tách xa. Anh kẻ hải trình mới rồi ban lệnh:

– Lái hướng 020.

Anh mặc áo mưa, trùm kín đầu, bước qua cánh tả, mắt dõi tìm Hòn Mấu. Anh từng tuần tra quanh đảo này. Đảo dài, không mấy cao nhưng cây xanh um toàn đảo. Quanh bờ, đa phần là đá tảng. Vài bờ cát trắng nhưng hoang sơ. Chỉ một nơi có rừng dừa với dăm ba nóc nhà tranh. Nhưng đêm nay, cả dạng đảo cũng không thấy dù vị trí tàu cách không xa hơn hai hải lý. Trước mặt chỉ là đại dương tăm tối, gió dập sóng dồi.

Nước bắn túa vào mặt mùi tanh tưởi, môi măn mẳn. Nước mưa thành giọt trên lưng, lành lạnh. Tim anh như đập nhanh hơn…

Anh nhớ những đêm mang tàu từ Mỹ vượt Thái Bình Dương. Hàng chục đêm mưa gió còn tơi bời hơn thế này và con tàu lầm lũi hải hành phỏng định. Anh tưởng đã quá quen cảnh mưa xối xả trong bóng đêm mênh mông, hãi hùng. Thế mà đêm nay lòng vẫn dậy lên nỗi ưu tư. Liệu trên 60 sinh mạng và con tàu bình an qua đêm nay?

Anh chợt nhớ Hòn Nam Du có đài kiểm báo theo dõi tàu thuyền. Anh chỉ thị sĩ quan đương phiên liên lạc xin vị trí chiến hạm nhưng đài kiểm báo cho biết cũng đang trở ngại gió mưa.

Anh thấy đã đến lúc phải áp dụng một phương pháp hải hành hiếm khi dùng đến để ít nhất giúp phần nào an tâm. Đây cũng chính là dịp cho sĩ quan thực tập, nên nói với sĩ quan đương phiên:

– Trung úy Tuấn, anh còn nhớ hải hành bằng chiều sâu?

Tuấn ấp úng:

– Thưa, có học nhưng chưa có dịp thực hành.
– Theo anh, hải hành bằng chiều sâu ví như ở đời thường, nó giống trường hợp nào?

Tuấn ngẫm nghĩ rồi đáp:

– Như người mù đi đường, thưa Hạm trưởng.
– Rất đúng. Người mù nhờ cây gậy dò đường. Với ta, cây gậy chính là máy đo chiều sâu. Bây giờ anh bắt đầu thực hành.

Võ Bằng bước tới bàn hải đồ. Trung úy Tuấn đứng bên cạnh. Võ Bằng hỏi:

– Trên hải đồ, anh cần chú ý những gì?
– Trước nhất, số đo chiều sâu đáy biển. Kế đến các đường đồng chiều sâu.
– Đúng. Còn cần gì nữa?
– Thưa, bảng thủy triều.
– Và?
– Máy đo chiều sâu.
– Chiều sâu tính theo đơn vị đo lường nào?
– Thưa, fathom. Máy đo gọi Fathometer.
– Khá lắm! Đúng là anh còn nhớ. Thế còn đo chiều cao?
– Tính bằng foot.
– Khi tác xạ hải pháo, tính bằng gì?
– Thưa bằng yard.
– Còn về hải lý và dặm, khác nhau thế nào?

Tuấn hít sâu, trả lời rành rọt:

– Thưa, cùng gọi là mile, nhưng đo hải trình thì gọi hải lý (nautical mile), bằng 1.852 mét. Còn đo trên lộ trình, gọi là dặm (mile), bằng 1.609 mét.

Võ Bằng cười khích lệ, vỗ vai:

– Giỏi! Mỹ rắc rối thế mà vẫn rành sáu câu. Người mình quen xài giản dị theo lối Tây là mét, ki-lô-mét. Nhưng dùng đồ Mỹ viện trợ thì phải rành lối Mỹ.

Anh nói chậm rãi, như cũng để nhắc cả đài chỉ huy:

– Hãy nhớ kỹ: Fathom để đo sâu. Foot cho chiều cao. Yard cho tầm bắn. Nautical mile cho hải trình. Và Knot, mình gọi là gút – hải lý/giờ – cho tốc độ. Nào! Bắt đầu định vị trí chiến hạm bằng fathom đi.

Hạm trưởng trở về ghế. Cả đài chỉ huy lặng đi giây lát, chỉ còn tiếng mưa quất ràn rạt vào kính.

Trung úy Tuấn nói vào loa đến phòng chiến báo:

– Thám xuất. Cho tôi chiều sâu mỗi hai phút.

Anh cúi xuống ghi chép, lật bảng thủy triều mỗi khi được báo con số, rồi tính toán, đánh dấu trên hải đồ. Mười phút sau, anh trình Võ Bằng hải trình theo chiều sâu. Võ Bằng rất hài lòng:

– Tốt lắm. Anh ghi tất cả vào nhật ký hải hành.

Vị trí mới nhất của chiến hạm cách Hòn Mấu 10 hải lý về phía đông, trên hải trình 020 anh vừa kẻ.
Chợt có tiếng hốt hoảng từ hạ sĩ quan đương phiên:

– Thưa Hạm trưởng, có đối vật hướng 10 giờ. Rất gần chiến hạm.

Võ Bằng chụp ống dòm. Một chiếc tàu đánh cá lớn hiện ra trong ánh chớp. Anh ra lệnh:

– Còi nhiệm sở tác chiến. Tắt hết đèn hải hành. Các khẩu 40, 50 sẵn sàng!

Tiếng còi dồn dập. Những bóng đen lao vào vị trí. Đài chỉ huy lặng im. Chỉ còn tiếng lên đạn, tiếng máy rền và tiếng sóng ập mạn tàu. Mưa như được khẩu lệnh riêng, lại ập xuống xối xả. Hạt to như đá vụn quất vào mặt rát buốt còn nước thì chảy lạnh sống lưng.

Tàu đánh cá hiện rõ ngay trước mũi. Võ Bằng ban lệnh tránh va chạm:

– Máy tiến 1. Tay lái hết bên mặt.

Chiến hạm xoay qua bên mặt.

– Tay lái số không. Lái thẳng

Hai chiếc chạy cặp kè. Võ Bằng nói lớn:

– Giám lộ. Rọi đèn pha.

Ánh đèn xuyên thủng gió mưa rọi lên một chiếc tàu đối diện. Trên boong, vài ba bóng người đang cố căng tấm bạt một cách mờ ám. Võ Bằng có thừa kinh nghiệm địch lợi dụng đêm tối và trời mưa để chuyển vũ khí. Giọng anh vang lên qua ống loa, khàn đục, lạnh lùng:

– Tàu đánh cá! Yêu cầu ngưng máy ngay lập tức. Chúng tôi tiến hành khám xét.

Lặng im. Chỉ có tiếng máy khục khặc đáp lời.

Võ Bằng lên giọng, đầy đe dọa:

– Lệnh cuối cùng: Tắt máy. Mọi người ở yên vị trí. Bất tuân, chúng tôi nổ súng.

Các nòng súng ghim vào chiếc tàu đang nhồi lên hụp xuống. Tàu đánh cá ngưng máy. Võ Bằng cũng cho máy ngưng. Anh nói vào loa nội bộ:

– Hạm phó và toán khám xét có mặt ngay bên tả hạm.

Cả hai tàu đều nhấp nhô. Võ Bằng thấy rõ nếu cặp vào, vỏ tàu cả hai đều móp méo, hư hỏng. Nhưng tàu này đang ở vùng cảnh giác. Toán khám xét đang nắm dây an toàn chờ lệnh. Tàu hư thì sửa, quan trọng là súng đạn gây rối miền Nam.

Nhưng Võ Bằng vẫn ngần ngừ. Trời quá tối, lại đang mưa, ánh đèn pha không đủ sáng. Nhảy qua rất nguy hiểm; và trong thế thiếu vững vàng, sẽ khó trở tay khi bị phục kích.

Có tiếng van xin từ tàu đánh cá:

– Xin các quan tránh xa giùm. Đụng hư tàu chúng tôi. Chỉ mới ra khơi. Chưa đánh được con cá nào!

Võ Bằng mở to mắt. Họ xin xỏ thật hay giả vờ? Mà quả đúng, nếu hai tàu va vào nhau, tàu kia mỏng manh hơn chắc chắn thiệt hại nặng hơn. Tàu anh hư thì có Hải quân công xưởng. Còn tàu kia nếu thật đánh cá, họ phải bỏ tiền túi vốn eo hẹp.

Chợt có tiếng hạ sĩ quan đương phiên kêu to:

– Thưa Hạm trưởng, có một tàu khác phía trước mũi.

Võ Bằng hướng ống dòm tìm kiếm. Một chiếc tàu ẩn hiện trong màn mưa như tàu ma. Khá gần…

Anh dùng dằng, bất định. Rạch Gầm chỉ một mình mà hai tàu xuất hiện. Gọi Duyên đoàn đảo Nam Du thì thời tiết thế này, ghe yabuta cũng khó ra khơi. Nếu hai tàu địch tập trung hỏa lực tấn công bất thần thì Rạch Gầm khó chống trả. Còn nếu anh quyết định tiên hạ thủ vi cường mà nhằm tàu của dân lành thì tòa quân sự sẵn chờ! Không khám xét được dịp này thì dịp khác. Cách hay nhất là lần quần theo dõi, chờ sáng rồi tính. Anh nói vào loa:

– Ngày mai mưa thuận gió hòa, chúc đánh được nhiều cá.
– Đội ơn các quan.

Anh thở ra một hơi dài như trút bỏ mọi thắc mắc lo âu. Rồi nói với sĩ quan đương phiên:

– Cho giải tán nhiệm sở tác chiến. Giải tán toán khám xét.

Tiếng còi dài vang lên. Ai cũng nhẹ người. Võ Bằng vừa cho máy tiến thì lại nghe tiếng kêu hốt hoảng:

– Thưa, có tàu ngay trước mũi!

Võ Bằng nghiêng người nhìn rồi hối hả ra lệnh:

– Phòng máy. Hai máy lùi full.

Tiếng động cơ kêu rền. Con tàu run rẩy dữ dội. Võ Bằng cũng lạnh người. Nó tính gì mà đâm thẳng vào chiến hạm? Anh cho ngưng máy và ra lệnh rọi đèn. Trên boong, dưới cơn mưa, ba người nằm la liệt. Người thứ tư ngồi vẫy hai tay, nói yếu ớt:

– Cứu! Cứu! Cứu chúng tôi. Tàu chết máy 10 ngày. Đói lắm. Cứu với.

Võ Bằng khựng lại. Có thật bị trôi giạt hay gài bẫy? Mà sóng gió thế này, làm sao cứu? Anh ra lệnh rọi đèn khắp tàu. Một chồng lưới giăng cá chất ở mũi. Ba thân người rời rã dưới mưa. Người đang ngồi chắp tay van lạy. Tim anh se thắt. Bỏ mặc thì không đành. Nhưng giúp bằng cách nào? Tàu anh cũng đang dọ dẫm đường đi…

 

Chương 10

THUỞ ẤY CÓ EM

Như Oanh và Ngọc Lan ngỡ mình đến sớm, nào ngờ thiên hạ còn sớm hơn. Các bàn ăn gần sân khấu đã đầy chỗ. Hai cô đành chọn một bàn khá xa nhưng vẫn nhìn thẳng lên sân khấu đúng ý Như Oanh. Trên sân khấu, dàn nhạc cụ đã bày biện đẹp mắt nhưng các nhạc công chưa xuất hiện. Từ loa phóng thanh, bản “Summer Time” trỗi lên da diết, điệu jazz nhẹ nhàng lan khắp gian phòng trang trí theo lối Tàu.

Nàng nhận lời đi với bạn chỉ vì muốn được nghe Nàng nhận lời đi với bạn chỉ vì muốn được xem tay trống Huỳnh Anh biểu diễn trong đêm khai trương nhà hàng Đông Phương.

Một chàng thanh niên tiến đến, dừng bước trước chiếc ghế đối diện Như Oanh. Nàng tưởng chàng ta sẽ ngồi xuống, nhưng anh lại tiếp tục vòng sang bên nàng, cất giọng lễ độ:

– Ghế này có người ngồi chưa, thưa cô?
– Chưa. Mời anh tự nhiên.

Anh chàng trông quen quen, dáng vẻ khiến tim Như Oanh bỗng rộn rã. Quần kaki xanh hải quân, áo sơ mi Hawaii hoa lá, mái tóc cắt ngắn gọn, nét mặt phảng phất hình bóng Võ Bằng. Anh chàng từ tốn ngồi xuống rồi quay ngang:

– Thiện, tên tôi.

Như Oanh cố giữ nét mặt bình thản, mỉm cười:

– Chào anh. Bạn tôi Ngọc Lan, và tôi, Như Oanh.

Thiện cười tươi:

– Một người quyền quý như hoa lan, một người thanh nhã như chim oanh. Hân hạnh được làm quen.

Nàng thầm nghĩ: “Lối nói có phần khách sáo nhưng không đến nỗi vô duyên. Ta cứ xử sự như… người Sài Gòn cho qua thì giờ. Xong ca nhạc là… đường ai nấy đi.” Nàng tinh nghịch hỏi:

– Tên Thiện, chắc hẳn người cũng… thiện?
– Trăm phần trăm!
– Có gì chứng tỏ?
– Cô hứa không giận khi tôi nói điều tôi đang nghĩ…

Như Oanh nhìn Ngọc Lan. Cô bạn nháy mắt khích lệ. Như Oanh nói cứng cỏi:

– Tôi hứa!

Thiện làm bộ mặt nghiêm trang, ánh mắt nhìn sâu vào mắt Như Oanh, giọng trịnh trọng:

– Thưa cô Như Oanh, nếu cô chưa lập gia đình, tôi xin ngỏ lời cầu hôn ngay lúc này.

Như Oanh và Ngọc Lan đều sững sờ. Anh chàng này bạo miệng quá! Nhưng đã hứa không giận nên đành nhỏ nhẹ:

– Tôi không giận, có điều anh bước… quá nhanh.
– Nhà binh mà. Đánh nhanh thắng nhanh!

Như Oanh còn đang lựa lời thích đáng thì người bồi đã lên tiếng:

– Thưa hai cô, dùng gì ạ?

Như Oanh nhớ lại ly nước dừa thật ngon bên Võ Bằng ở quán Sóng. Nàng định gọi thì Thiện đã nói:

– Tôi đề nghị chúng ta dùng champagne để mừng buổi gặp gỡ thân ái này.

Nàng thoáng bâng khuâng. Ở nhà, ba nàng thỉnh thoảng đãi tiệc và nàng từng thích thú nhấm nháp vị rượu ấy. Vả lại anh chàng mạnh miệng thì mình cũng nên … mạnh tay cho anh chàng tốn kém chơi. Nàng nhìn bạn. Ngọc Lan gật đầu. Nàng nói:

– Chúng tôi thích hương vị của Blanc de Blancs

Thiện quay sang người bồi:

– Cho một chai Blanc de Blancs.

***

Bàn ăn dần đầy tám người. Tình cờ, đúng bốn trai bốn gái, đều cùng trang lứa. Như Oanh thầm mừng khi thấy Ngọc Lan đã có người chuyện trò rôm rả.

Hai cô kết thân từ khi cùng học Đại học Sư phạm. Tuần trước, Ngọc Lan nhận giấy bổ nhiệm về Long An. Còn Như Oanh thì ở lại Sài Gòn. Từ tuần tới, cả hai sẽ bắt đầu đi dạy. Đêm nay là đêm tự do cuối cùng trước khi bước vào đời sống mô phạm…

Các nhạc công đã vào vị trí, mở màn bằng bản Ly Rượu Mừng rộn rã. Món đầu tiên – súp hải sâm – vừa mang ra, ai nấy đều thanh toán nhanh, có lẽ vì bụng đói.

Giữa lúc chờ món tiếp theo – salad hoàng đế – Thiện lại nghiêng sang Như Oanh:

– Tôi nóng lòng chờ câu trả lời.

Như Oanh bật cười:

– Anh đùa dai thật! Chọn đề tài khác đi.
– Chính cô bảo tôi phải chứng tỏ tôi là người thiện mà.

Nàng bắt đầu cảm thấy bực mình, định nói dối rằng đã có chồng, thì một chàng trai khác chạy đến:

– Ông Thầy! Không ngờ gặp ông Thầy ở đây. Qua nhậu với tụi em vài ly!

Thiện nhìn sang bàn bên. Đúng là toàn đệ tử của mình. Chẳng đặng đừng, anh quay sang Như Oanh:

– Xin lỗi cô vài phút.

Thiện bước theo chàng thanh niên. Như Oanh thở phào, hớp từng ngụm champagne, gắp thử món salad vừa được mang ra. Ngọc Lan vẫn ríu rít cười nói với người bên cạnh.

Ban nhạc chuyển sang “Đời tôi chỉ một người”. Tiếng trống Huỳnh Anh quyện giọng hát Giao Linh nồng nàn: “Đời tôi chỉ yêu một người. Mà một hình bóng đã ăn sâu lòng tôi…”

Như Oanh nghe mà xao xuyến, mỉa mai. Nàng từng yêu Vinh, tưởng đời mình chỉ một người. Nhưng rồi hôm nay… “Lạ quá! Sao ở đâu cũng có bóng dáng Võ Bằng!” – nàng thầm thì.

Thiện trở lại, mặt đỏ gay, phân trần:

– Điều kiện để tôi được trở lại đây là phải uống với mỗi đứa một ly!

Nhớ lại chàng trai gọi Thiện bằng “ông Thầy”, Như Oanh tò mò:

– Các học trò của anh hả? Anh dạy trường nào?

Thiện cười:

– Trường huấn luyện ngoài khơi!
– Lần đầu nghe tên! Ở đâu vậy?
– Đùa thôi. Chúng tôi cùng phục vụ trên một chiến hạm.

Như Oanh kêu lên:

– Anh là Hải quân?

Thiện gật đầu, ánh mắt nghiêm trang:

– Phải. Và xin nhắc về lời cầu hôn…

Như Oanh khoát tay:

– Anh chưa biết gì về tôi, tôi cũng chưa biết gì về anh…
– Người ta gọi là tiếng sét ái tình.

Nàng chợt nhớ: “Mình cũng vậy thôi. Nào biết gì về Võ Bằng, ngoài cái chức Hạm trưởng vốn chẳng liên quan gì đến tình yêu.” Nàng nổi máu tinh nghịch:

– Đồng ý là có tiếng sét ái tình. Tuy nhiên phải thỏa mãn một điều kiện.
– Đang nghe!
– Người đó phải là Hạm trưởng!

Thiện phá lên cười, át cả tiếng nhạc:

– Điều kiện cũng dễ thỏa mãn. Năm năm nữa tôi thành Hạm trưởng, chúng ta vẫn còn trẻ.
– Rất tiếc, anh đã chậm một bước.

Thiện mở to mắt:

– Lúc thì cô bảo tôi bước nhanh, lúc thì bảo tôi chậm một bước. Khéo từ chối thật!

Như Oanh nâng ly champagne nhấp thêm vài ngụm, mỉm cười:

– Không! Tôi nói thật. Hôm nay anh cầu hôn thì quá sớm, mà năm năm nữa thì quá muộn. Bởi vì hiện tại, tôi đang chờ một vị đương kim Hạm trưởng ngỏ lời!
– Tôi xin được phép hỏi thêm một câu.
– Anh hỏi bao nhiêu câu cũng được. Đồng nghiệp với vị Hạm trưởng của lòng tôi mà!
– Vị Hạm trưởng nào may mắn vậy?

Như Oanh nhăn mặt:

– Câu hỏi quá khó, không thể trả lời.
– Ông ấy chỉ huy tàu nào?
– Cùng ý câu hỏi như trước!

Thiện lặng lẽ gắp con tôm càng rang muối đặt vào đĩa nàng. Trên sân khấu Thái Châu cất giọng: “Thuở ấy có em anh yêu cuộc đời. Yêu đôi môi hồng điểm nét son tươi. Yêu đôi tay ngà làn má thắm. Tóc xanh buông lả lơi. Nhớ em nhớ bao thuở ấy”. Như Oanh lặng người, tưởng như chính Võ Bằng đang hát cho mình.

Cuộc sống của nàng từ ngày gặp Võ Bằng như treo lơ lửng. Ngày nào cũng nhớ, ngay cả lúc Vinh đến thăm. Trái tim nghiêng hẳn về Võ Bằng nhưng ân tình với Vinh vẫn nặng nề. Những săn sóc, cả ân huệ – nhờ ba của Vinh mà nàng mới được nơi dạy học như ý. Một tiếng thở dài hòa theo tiếng nhạc.

Thiện cắt ngang:

– Cô học trường nào?

Như Oanh giật mình, mỉm cười:

– Trông tôi giống học trò lắm hả?
– Cô còn quá trẻ để nghĩ rằng cô đã đi làm.
– Cám ơn anh, nhưng anh nghĩ sai rồi.
– Vậy cô làm ở đâu?

Như Oanh nghĩ đến chỗ làm của Vinh:

– Bộ Thương Mại.
– Thế mà tôi tưởng cô vẫn còn là sinh viên.

Như Oanh đổi giọng buồn buồn:

– Con nhà nghèo mà!

Thiện cười:

– Con nhà nghèo mà đi nghe ca nhạc và biết uống champagne?

Nàng nhìn qua Ngọc Lan:

– Bạn tôi đài thọ.
– Tôi không tin. Cô vừa xinh đẹp vừa cao sang…
– Anh quá lời. Ngay cả vị Hạm trưởng kia còn chê…
– Ông ta khùng!

Nàng bật cười thành tiếng. Ngọc Lan ngạc nhiên:

– Chuyện gì vui thế?
– Chuyện dài lắm, để kể sau.

Thiện nghiêng chai rượu vào ly của Như Oanh. Rượu đã ngấm. Mặt nóng bừng. Đầu chếnh choáng. Nàng nói:

– Đủ rồi anh Thiện, đừng rót nữa…

Thiện vội gọi trà nóng. Các món ăn tiếp tục dọn ra. Nàng chỉ gắp lấy lệ.

Đến món tráng miệng, tiếng nhạc lại vang lên. Điệu pasodoble dồn dập, thúc giục. Các thực khách lần lượt ra sàn nhảy. Thiện ngập ngừng:

– Cho phép tôi mời cô một bài.

Như Oanh đứng dậy, thầm nhủ: “Thì đêm vui cuối cùng mà. Cứ tưởng tượng đang khiêu vũ với Võ Bằng.”

Thiện nhảy điệu nghệ, không thua kém gì Vinh. Nhũng bước chân, vòng tay, nhún nhảy khiến nàng bất giác nhớ lại bốn năm yêu đương đã qua. Nàng từ chỗ không biết nhảy nay rành mọi thể điệu. Tuần trước, vừa về tới Sài Gòn, Vinh đã đến rủ đi Mỹ Phụng, vũ trường ưa thích nhất của nàng. Thế nhưng nàng từ chối, viện lý do còn mệt…

Điệu nhạc chậm dần, chuyển sang nhịp buồn. Thiện đưa Như Oanh trở về bàn. Ngọc Lan còn mải mê với bạn mới.
Khi Như Oanh và Thiện đã an vị, Thiện nói:

– Cô nhảy đẹp lắm. Tôi đã định giữ cô thêm …

Lệ Thu đang thổn thức Tình Khúc Thứ Nhất. Nàng dứt khoát đứng lên:

– Chúng ta tiếp tục…

Thiện thoáng ngạc nhiên rồi mỉm cười đưa nàng vào điệu Boston. Lời nhạc như hớp hồn: “Tình vui trong phút giây thôi, ý sầu nuôi suốt đời. Thì xin giữ lấy niềm tin dẫu mộng không thành. Dù trời đem cay đắng gieo thêm, cũng xin đón chờ bình yên. Vì còn đây câu nói yêu em, âm thầm soi lối vui tìm đến.”

Như Oanh khiêu vũ như người mộng du. Bắt gặp ánh mắt chăm chú của Thiện, nàng buông lời:

– Xin đừng hiểu lầm. Chỉ vì tôi rất quý Hải quân các anh.

Thiện cười, nheo mắt:

– Nhất là với Hạm trưởng.
– Anh Thiện nói đúng.
– Và càng đặc biệt hơn là với… Hạm trưởng Võ Bằng.

Như Oanh sững người, đứng khựng lại. Nàng mở to mắt nhìn xoáy vào Thiện, lắp bắp:

– Anh biết Võ Bằng? Sao… sao anh biết?

Chương 11

ĐƯỜNG VỀ HÒN TRE

Cơn mưa đã bớt hạt nhưng lá cờ còn phần phật gió. Võ Bằng đăm chiêu nhìn chiếc ngư thuyền dập dềnh như một bóng ma giữa biển đêm. Trên sân trước, mấy thân người lờ mờ khi ánh chớp lóe lên. Anh nhìn quanh tìm chiếc không khám xét được. Nó đã mất dạng.

Anh hít một hơi dài. Điều hẳn nhiên: bằng mọi giá phải cứu họ. Nhưng cách nào? Nhờ cố vấn gửi trực thăng thì chiến hạm không sân đáp. Trời đang mưa, hẳn nhiên họ không cần nước. Chỉ cần thức ăn. Giải pháp tạm thời là tiếp tế thức ăn và dòng tàu họ vào bờ.

Anh hỏi Hạm phó:

– Anh Tiến, tàu mình còn bánh mì không?
– Thưa Hạm trưởng, tôi tin là còn.
– Vậy chuẩn bị bốn ổ, mỗi ổ rắc vài muỗng đường, bọc kín bằng bao nylon. Đồng thời bảo nhà bếp nấu nồi cháo thịt.
– Nhận rõ.
– Tàu mình có súng bắn dây?
– Thưa có.
– Sẵn sàng súng rồi soạn công điện: “Một tàu đánh cá hư máy, trôi giạt mười ngày. Ba ngư dân bất tỉnh, một kiệt sức, cần cứu cấp. Xin chỉ thị.”
– Rõ.

Hạm phó rời đài chỉ huy. Võ Bằng nhìn đồng hồ, 23:05. Còn ít nhất sáu tiếng nữa trời mới sáng. Anh nói lớn với giám lộ giữ đèn pha đặt cao bên ngoài đài chỉ huy:

– Đạt, em đi thay quần áo, mặc áo mưa rồi trở lên đây.
– Cám ơn Hạm trưởng.

Võ Bằng đứng khoanh tay, nghe tiếng sóng vỗ mạn tàu mà nhớ tiếng sóng vỗ bờ An Thới. Như Oanh về Sài Gòn gặp lại Vinh, chắc đã quên anh, quên duyên hải. Nhưng sao giờ chót nàng xưng “em”?

Anh vô tuyến trao Võ Bằng công điện Vùng 4: “Quý chiến hạm cứu cấp và đưa tàu đánh cá về Hòn Tre bàn giao cho Duyên Đoàn. Xong, trực chỉ Bà Lụa. Báo cáo nhận hành.”

Tiếng còi nhiệm sở vận chuyển nổi lên. Các nhân viên túa lên boong. Giám lộ viên bật đèn pha, luồng sáng đâm thủng màn mưa, soi rõ chiếc ngư thuyền vẫn với bốn người bất động. Võ Bằng nói với hạ sĩ quan đương phiên:

– Anh Vạn thủ khẩu đại liên, phản pháo tức khắc khi bị bắn.
– Nhận rõ.

Võ Bằng cho lệnh vận chuyển chiến hạm tiến gần tàu đánh cá. Anh cầm loa:

– Tàu đánh cá. Chúng tôi tiếp tế thức ăn. Sẵn sàng tiếp nhận.

Một người lồm cồm ngồi dậy. Võ Bằng ra lệnh:

– Hạm phó cho bắn dây.

Sau tiếng nổ nhỏ, đầu dây và bọc bánh mì vụt qua ngư thuyền. Võ Bằng nói vào loa:

– Tàu đánh cá. Sau khi nhận thức ăn, hãy kéo dây nylon buộc chặt vào trụ. Chúng tôi sẽ dòng tàu các anh về Rạch Giá.
– Đội ơn các ông.
– Cố gắng ăn để lấy sức. Sáng mai tới Hòn Tre sẽ có thêm.

Khi được báo dây đã buộc chắc chắn và ngư thuyền lềnh bềnh sau lái chiến hạm, Võ Bằng cho tiến về hướng Đông. Anh thảo công điện: “Trân trọng báo cáo. Bắt đầu kéo ngư thuyền về Hòn Tre.”

Anh trở lại ghế ngồi. Từng cơn gió tạt qua, mang theo sương khuya và mùi biển. Anh nhắm mắt, hít thở thật sâu. Cơn mỏi mệt dịu đi phần nào. Anh nhìn quanh. Cố vấn Mỹ vẫn âm thầm đứng bên anh, mà vì bận rộn anh quên phứt. Cố vấn nói tiếng Việt pha Mỹ:

– Sir, tôi có tin thêm về fishing boat ngoài Hòn Thổ Châu.

Võ Bằng nghiêng đầu:

– Tôi đang nghe.

Cố vấn xổ một tràng tiếng Mỹ:

– Không tuần cho biết suốt tuần qua nó lẩn quẩn ngoài khơi lãnh hải quốc tế. Nghi ngờ nó chờ dịp thuận tiện để xâm nhập vùng Cà Mau, như chiếc vừa bị tiêu diệt ở Vàm Kim Quy. Đệ thất Hạm đội đã thông báo Vùng 4 Duyên hải. Được biết chiếc tuần dương hạm HQ 004 đang trên đường đến Thổ Châu. Hạm trưởng có nhận lệnh gì không?

Võ Bằng đáp chầm chậm tiếng Việt:

– Không. Theo tôi đoán, Bộ Tư Lệnh không muốn tôi bỏ trống vùng trách nhiệm. Họ tin một mình HQ 004 cũng đủ sức đối phó.

Cố vấn Mỹ gật đầu, không nói gì thêm. Võ Bằng dựa lưng vào ghế, nhắm mắt định thần. Anh cần một giấc ngủ ngắn nhưng giấc ngủ không đến. Ba ngư dân nằm sóng soải chập chờn trong tâm não. Anh hy vọng họ còn đủ sức về đến bờ, vào bệnh viện. Anh cũng hy vọng biển sớm lặng êm để có thể chuyển họ sang chiến hạm, đưa vào lòng tàu cho y tá săn sóc.

Ước vọng của anh dường như thấu đến Ngọc Hoàng, trời đột ngột ngưng mưa. Sóng gió dịu dần. Không gian sáng đủ trông thấy nửa vầng trăng. Nhưng mãi hai tiếng sau gió mới lặn và biển mới êm hẳn.

Nhiệm sở vớt người ban hành. Võ Bằng ra lệnh tháo dây kéo và các lệnh cần thiết đưa chiến hạm cặp vào ngư thuyền. Giám lộ viên rọi đèn pha. Cả bốn ngư dân đều nằm trên sàn. Võ Bằng không hiểu vì sao họ phải nằm dưới mưa mà không ở trong lòng tàu. Tàu chìm, ở đâu, đằng nào cũng chết. Anh đoán chừng họ ở ngoài để kêu cứu đến kiệt sức. Không biết bên trong có còn ai khác?

Toán vớt người thả các trái độn dọc theo hữu hạm để giảm sức va chạm. Bốn nhân viên mang băng ca nhảy qua ngư thuyền chuyển ba ngư dân về chiến hạm. Xong xuôi, chiến hạm tách ra và tiếp tục kéo ngư thuyền. Võ Bằng ghi tóm tắt sự việc vào Nhật ký Hải hành rồi giao quyền chỉ huy cho sĩ quan đương phiên.

Anh rời đài chỉ huy cùng cố vấn xuống thăm hỏi ngư dân. Họ còn quá yếu để trả lời các câu hỏi. Một người cố nắm tay Võ Bằng, thì thào không thành lời. Anh thông báo là họ đang được đưa về đất liền. Cháo thịt sẽ cung cấp nếu họ có thể ăn. Ánh mắt họ lấp lánh như tỏ niềm biết ơn.

Anh về buồng riêng, tắm rửa, thay bộ quân phục rồi… ngả lên giường. Từ khi đảm nhận chức vụ Hạm trưởng, Võ Bằng không dám thay đồ ngủ. Khi bị đánh thức, có nghĩa là anh không đủ thì giờ mặc lại quân phục. Bắn chậm thì chết mà! Quá mỏi mệt, anh thiếp đi cùng hình bóng Huỳnh Như Oanh…

* * *

Cửa đổ bộ hải vận hạm mở ra. Trung đội địa phương quân túa lên đảo Hòn Lớn – Nam Du mở cuộc lục soát du kích Việt cộng. Anh và nàng tiếp bước. Rừng dừa xanh ngút ẩn hiện vài chục mái tranh. Nối với rừng dừa là rừng xanh phủ kín như ở An Thới. Hai đứa trẻ chơi cát đứng lên, khoanh tay cúi chào. Như Oanh xoa đầu, khen ngợi.

Hai người dừng trước gian nhà tỏa mùi nước mắm thơm lừng. Cụ già râu dài bạc phơ niềm nở mời vào. Nhà ba gian rộng rãi. Bàn thờ Phật trang nghiêm ở gian giữa. Họ được thết đãi nước dừa. Cũng lạ, dừa ven biển mà ngọt lịm.

Như Oanh nói:

– Thưa cụ, cụ ở đây chắc lâu lắm rồi?
– Từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ.
– Thưa cụ, cháu thắc mắc về tên đảo Nam Du, do đâu mà có?
– Ông nội tôi kể, xưa Nguyễn Ánh bôn tẩu, từng ghé đây và khen: “Nam du sơn thủy tuyệt mỹ”. Từ đó đảo mang tên Nam Du. Có một truyền thuyết kể một nàng tiên từ trên thiên đình du hành trần gian rồi đem lòng yêu một chàng chài lưới đảo này. Họ hạnh phúc sống bên nhau…

Không hẹn, Võ Bằng và Như Oanh nhìn nhau, mỉm cười. Anh nói:

– Hay là chúng ta ở lại đây luôn. Không về tàu nữa?

Nàng nguýt anh rồi quay lại cụ già:

– Thưa cụ, có phải sau một thời gian, nàng tiên đưa chàng trai về thiên đình trình diện Ngọc Hoàng?
– Được vậy còn nói gì! Một ngày nọ một con rồng biển nổi lên quấy phá dân đảo. Nàng tiên hóa thành rồng đánh lại.

Hai con rồng đánh nhau mấy ngày đêm, cuối cùng nàng tiên thua, hóa thành đá. Đến nay vẫn còn tảng đá mặt người nhìn ra biển.

Như Oanh thích thú uống cạn nửa ly nước dừa rồi hỏi thêm:

– Thưa cụ, ngoài Hòn Lớn, các đảo khác đều có tên kèm theo truyền thuyết hay huyền thoại như Hòn Lớn?

Cụ già vuốt râu cười vang:

– Lâu lắm mới gặp một người tò mò giống tôi thuở nhỏ. Đúng! Các đảo đều có tên. Dân gian có bài vè về tên các quần đảo Nam Du.

Rồi cụ cất giọng ngâm nga:

Hòn Mấu đâm thấu Đô Nai
Đô Nai quay sang Bờ Đập
Bờ Đập tấp lại Hòn Lò
Hòn Lò mò đến Hòn Ngang
Hòn Ngang tạt sang Hòn Đụng
Hòn Đụng cụng vào Hòn Dầu

Cụ dừng lại hớp trà. Như Oanh khen giọng cụ ấm. Cụ thích chí ngâm tiếp:

Hòn Dầu nằm chầu Bỏ Áo
Bỏ Áo tháo ngược Hòn Ông
Hòn Ông dông đến Hòn Dâm
Hòn Dâm đâm thẳng Hòn Tre
Hòn Tre te đến Hòn Mốc
Hòn Mốc xốc lại Hòn Nhàn
Hòn Nhàn tràn thẳng hòn Hàn
Hòn Hàn quàng cổ Hòn Nồm
Hòn Nồm chồm lên Hòn Khô
Hòn Khô nhào vô bãi Chệt
Bãi Chệt lết lên Hòn Lớn..
.

Cụ dừng lại vấn thuốc hút, uống ngụm trà. Như Oanh mắt long lanh:

– Xin cụ vui lòng ghi lại cho cháu bài vè này.

Cụ già nói “được” rồi từ tốn tiếp:

– Còn về giai thoại các đảo, nhiều quá nên tôi nhớ không hết. Cho nên biết gì nói nấy. Ngày xưa có một ông già nghèo dắt bốn đứa con ra Hòn Mấu lập nghiệp. Lớn lên các con lần lượt ra riêng ở trên bốn đảo vây quanh Hòn Mấu, như là con cháu quây quần. Vì vậy nhóm đảo có tên Đảo Con Cháu.

Võ Bằng lên tiếng:

– Tên nghe thật ý nghĩa.
– Truyện kể có một bà ôm con xuống ghe ra đảo trốn bọn cướp. Bọn cướp đuổi theo. Ghe bà đến Hòn Ngang thì va vào đá bị chìm. Ngư dân vớt được hai mẹ con nhưng đứa bé sống, bà thì chết. Dân chài lập miếu thờ cầu an, nhang khói không dứt.

Cụ rót trà vào tách, hớp vài hớp rồi tiếp:

– Hòn Lớn còn một tên khác là Hòn Củ Tròn đặt tên theo hình dạng. Đảo có huyền thoại Cổng Trời, nơi giao tiếp giữa người và tiên. Vào những đêm trăng sáng, ngư dân thấy những bóng dáng bước ra từ một vách đá nứt đôi đi thăm dân đảo. Tôi chỉ nhớ bao nhiêu đó. Tuy nhiên nếu cô cậu muốn nghe chuyện ma…

Như Oanh nhanh nhẩu:

– Cháu rất thích.

Võ Bằng gật đầu:

– Mời cụ kể
– Hòn Mấu là đảo hoang, không người ở, dân đánh cá vẫn đồn đại rằng đêm đêm vẫn thấy ánh đèn lập lòe. Họ tin rằng đó là hồn những thuyền viên bị đắm tàu về thắp đèn dẫn đường cho tàu thuyền. Ngư dân còn kể chuyện, có những chiếc “ghe âm phủ” sơn đen không số thường xuất hiện khi có sương mù chở linh hồn ngư dân mất tích…

Như Oanh kêu lên:

– Xin ngưng. Nghe ghê quá.

Cụ già lại vuốt râu:

– Sợ chuyện ma thì kể chuyện thần biển. Truyện Kiều có câu: “Mụ nghe nàng nói hay tình. Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên”. “Tam Bành” của dân gian là Hỷ Bành: vui quá mức, Nộ Bành: giận mất lý trí, Ai Bành: u sầu mê muội. “Tam Bành” của ngư dân Nam Du là ba vị thần biển. Bành Cấm: nguyền rủa những ai đánh bắt cá vào mùa sinh sản; Bành Hại: trừng trị kẻ giết cá voi, rùa biển, phá rạn san hô; Bành Tận: ám hại người đánh bắt cá bằng mìn, thuốc độc. Nhờ ai nấy đều tin tưởng nên hải sản vùng này dồi dào.

Võ Bằng chắp tay:

– Cụ chắc đã trên 70 mà còn nhớ được vậy là đáng nể lắm. Sau này, cháu chỉ mong được như cụ.

Hai người từ giã nhưng ông cụ mời sang khu làm nước mắm. Gian nhà khá rộng, chứa bốn thùng gỗ thật lớn có dây thừng ràng chung quanh để ủ cá. Ngoài sân, cá cơm phơi khô trên các nong tre. Cụ kể tiến trình thực hiện gồm nhiều giai đoạn xem ra tốn quá nhiều công sức. Cụ còn vui vẻ tặng mỗi người một chai nước mắm nhỉ mang nhãn hãng sản xuất Nam Du của gia đình cụ.

Hai người cám ơn, hẹn trở lại lấy luôn bài vè. Họ bước dọc theo bãi. Cát ở đây không trắng bằng cát An Thới nhưng có nhiều mảnh vỏ ốc lóng lánh hơn. Vô số viên sỏi lạ và đẹp. Như Oanh chọn hai vỏ sò và hai viên sỏi đẹp nhất. Nàng thì thầm: “Em sẽ lộng kính để đầu giường.” Võ Bằng định thưởng nàng nụ hôn lên má thì tiếng chuông reo vang.

Mãi đến đợt reo thứ ba, Võ Bằng mới nhận ra là từ điện thoại nội bộ. Anh bật dậy, chụp máy, tỉnh hẳn giấc mơ:

– Tôi nghe đây.
– Trình Hạm trưởng, phòng radar báo cáo chiếc tàu đánh cá đang xa dần chiến hạm.
– Tôi lên ngay….

Anh lao vào phòng tắm, mở nước xoa lên mặt cho tỉnh hẳn. Trên cầu thang dẫn lên đài chỉ huy, óc anh vụt sáng một ý nghĩ: không chừng đây là đòn nghi binh. Hai tàu đánh cá cùng xuất hiện. Một tàu giả vờ trôi giạt xin cứu giúp, trong khi tàu kia chạy thoát mang vũ khí vào bờ. Bây giờ lại “tuột dây” để chiến hạm bận rộn, không thể đuổi theo…

Võ Bằng nghe trái tim đập thình thịch, vừa tức giận, vừa lo âu…

 

 Chương 12

ĐƯỜNG VỀ HÒN TRE (Tiếp Theo)

Vừa lên đến đài chỉ huy, Võ Bằng ra lệnh dứt khoát:

– Hai máy ngưng.

Tiếng leng keng truyền lệnh vừa vang lên, tiếng rầm rì quen thuộc của máy tắt ngang. Chiến hạm khựng lại, thả trôi theo trớn.

Võ Bằng bước đến miệng loa dẫn xuống phòng chiến báo:

– Radar, khoảng cách với tàu đánh cá bao xa?
– Thưa, nửa hải lý.
– Có đối vật gì gần không?
– Hoàn toàn không, thưa Hạm trưởng.
– Báo cáo ngay khi có đối vật xuất hiện.
– Đáp nhận.

Anh dặn sĩ quan trực phiên:

– Cứ thả trôi. Quan sát kỹ. Giám lộ, rọi đèn sau lái.

Võ Bằng cùng hai nhân viên xuống sân lái. Họ thu hồi dây kéo về tàu. Anh cúi xem: dây không bị đứt, chỉ có thể là bị tháo hay bị tuột. Nếu bị tháo? Tại sao? Anh thoáng rùng mình.

Anh bước nhanh về phòng y tế. Ba người nằm im, mền len xám phủ kín, mắt nhắm nghiền, mặt trắng bệt như xác chết. Hai người tuổi trung niên, một thanh niên – trẻ nhất nhưng hôn mê nặng nhất. Cả ba đang được truyền nước biển.

Trung sĩ Y tá Lê Văn Ngọc trình báo:

– Thưa Hạm trưởng, lúc đưa qua, họ đã trong tình trạng hấp hối. Hạm phó cho phép truyền nước biển. Xin lỗi đã không kịp xin phép Hạm trưởng.

Võ Bằng cau mày:

– Có đúng là họ đói khát thực sự chớ không phải… đóng kịch?

Y tá Ngọc ngẩn ngơ:

– Ý của Hạm trưởng là…

Nhận ra mình nghi ngờ quá mức, Võ Bằng dịu giọng:

– Theo anh, nếu không cứu, họ chắc chắn không qua khỏi?
– Thưa chắc chắn, họ đã đến lằn ranh sinh tử. Ngay lúc này, tôi vẫn e họ khó thoát!

Võ Bằng gật đầu, nhưng lòng còn lởn vởn hồ nghi. Liệu đây có phải là một kịch bản dàn dựng tinh vi đến mức không để lại sơ hở?

Anh lại nhìn ba ngư dân. Họ vẫn thiêm thiếp, lớp mền trên ngực lên xuống ngắn, không đều, thỉnh thoảng rên hừ hừ. Anh lắc đầu: không thể là đòn nghi binh. Từ mười ngày trước, làm sao họ biết được là sẽ gặp Rạch Gầm để bắt đầu nhịn đói? Rồi làm sao mà biết thời tiết lúc gặp Rạch Gầm trời sẽ mưa to sóng lớn cản trở việc bị khám xét? Không thể nào! Chỉ là một hội ngộ tình cờ!

– Khi họ khá hơn, xin Hạm trưởng cho phép truyền thêm dinh dưỡng.
– Chấp thuận. Bằng mọi cách, anh cứu sống họ.
– Xin hứa, thưa Hạm trưởng.

Võ Bằng thở phào nhẹ nhõm nhưng quyết chắc ăn: đích thân khám xét ngư thuyền. Anh phóng nhanh trở lên đài chỉ huy, cho chiến hạm cập vào ngư thuyền. Rồi cùng hai thủy thủ nhảy qua, mang theo tô cháo thịt. Chủ ngư thuyền chắp tay cám ơn, vừa run vừa húp lấy húp để.

Võ Bằng nhìn quanh. Lưới cá bung rộng rối ren, nhiều xác cá thối rữa. Sàn la liệt xương cá. Anh và thủy thủ hộ tống bước đến phòng lái. Chưa đến cửa mà mùi dầu mỡ, mùi ươn thối nồng nặc. Không ai có thể sống lâu trong đó. Anh đã hiểu lý do bốn ngư dân nằm ngoài mưa.

Võ Bằng đi về sân mũi. Thủy thủ đang trổ tài chuyên nghiệp, thắt nút “clove hitch” đầu dây nylon vào trụ, chắc chắn không tuột lần nữa.

Anh dặn chủ ngư thuyền:

– Ba người của anh đã tỉnh lại. Đừng lo. Chúng tôi kéo tàu anh vào Rạch Giá. Có đèn pin chứ?
– Dạ có.
– Vậy cần gì thì chớp đèn.
– Cám ơn mấy anh.

Võ Bằng trở về chiến hạm, khen Hạm phó đã tích cực rồi lên đài chỉ huy. Lệnh tiến máy. Chiếc ngư thuyền ngoan ngoãn theo sau. Nửa vầng trăng soi một vệt sáng bạc trên mặt biển âm u. Chỉ một ít vì sao bơ vơ trên bầu trời thăm thẳm. Anh nhắm mắt, tự trấn an: không, chắc chắn không thể là trò đánh lừa.

* * *

Ba giờ sáng. Trừ tiếng máy tàu, đài chỉ huy thật tĩnh lặng. Mỗi người một vị trí, bất động như các pho tượng. Anh lên tiếng:

– Thiếu úy Đức, cho biết vị trí chiến hạm mới nhất.
– Thưa Hạm trưởng, tàu sắp ngang qua đảo Tamassu, cách ba hải lý.

Tamassu! Cái tên gợi anh nhớ chuyện tình người bạn cùng khóa. Chuyện tình đó có đăng trên nguyệt san Lướt Sóng hai năm trước: Hạm trưởng một tuần duyên hạm, trong lần ghé đảo, được chúa đảo mời rượu. Người mang mồi nhậu là tiểu thư của chúa đảo. Sau năm tuần rượu, chàng đứng dõng dạc thưa: “Cháu muốn cưới con gái bác.” Chúa đảo cười: “Đây là rượu nói hay đại úy nói?” Chàng lại dõng dạc: “Cháu nói bằng danh dự một Hải Quân”. Ông hỏi ý con. Nàng e thẹn đáp: “Ai khác thì con từ chối, nhưng với hải quân thì con ưng!” Và đám cưới rực rỡ ba tháng sau đã làm sáng bừng cả đảo. Đàng trai đến bằng đường biển gồm chiến hạm, chiến đỉnh lẫn chiến thuyền. Người chủ hôn là Tư lệnh Vùng 4 Duyên hải!

Võ Bằng khẽ thở dài: bạn thiệt có phước. Cũng ông Tư lệnh đó, cũng tiệc nhậu tới bến, cũng gặp gỡ người nhà mà đời anh cứ nổi trôi. Phải chăng vì thiếu… rượu nói!

Anh siết chặt tay trên bệ sắt, nhìn khung trời mông lung. Lại hiện bóng hình Như Oanh với giọng nói nghịch ngợm, nụ cười cướp mất hồn. Từng đêm anh dỗ giấc ngủ, đếm đến số mười ngàn mà hình bóng nàng vẫn đeo đẳng.

Ngả lưng trên ghế tựa, mặc cho mùi khói tàu, mùi muối biển quyện sương đêm ngai ngái. Mỗi cơn gió mát lại như mang đến nhớ thương…

* * *

Sáu giờ, núi đảo Hòn Tre hiện ra cùng ánh bình minh. Đảo mang tên Hòn Tre vì có nhiều tre mọc nhưng hình dạng thì trông như con rùa. Những cánh hải âu chao lượn, hót vang như chào đón Rạch Gầm. Võ Bằng rời ghế chỉ huy, bước sang đứng tỳ tay lên bệ cánh hữu đón gió mát lành cuối thu. Cuộc hành trình qua đêm suôn sẻ, lòng anh cũng êm ả theo.

Bảy giờ, chiến hạm neo sát Hòn Tre. Chiếc ngư thuyền được kéo cập bên hông chiến hạm. Hạm phó cho nhân viên trực nhật xịt nước rửa sạch khắp sàn ngư thuyền. Ba nạn nhân đã tươi tỉnh, nhưng sức chưa hồi phục, được các nhân viên dìu trở về ngư thuyền. Võ Bằng chỉ thị cung cấp thêm cháo thịt.

Chỉ huy trưởng Duyên Đoàn 43 đích thân đến nhận bàn giao, tay bắt mặt mừng. Anh mời Võ Bằng cơm trưa Rạch Giá. Trung úy Tuấn nhắc lại lời mời đến nhà.

Võ Bằng chỉ thị Hạm phó trông coi tàu. Ban ẩm thực tháp tùng đi chợ, nhân viên không trực được phép đi bờ. Chiếc chiến thuyền Thiên Nga tuy nhỏ mà mã lực cao dư sức dòng ngư thuyền. Nhưng với số người đi bờ khá đông, Duyên đoàn trưởng cho tăng cường thêm hai ghe chủ lực.

* * *

Bến sông Cái Lớn nhộn nhịp. Chợ còn rộn rã dù đã trưa. Võ Bằng thuê xe lôi. Y tá và hai nhân viên đưa ba ngư dân vào bệnh viện. Anh chúc từng người chóng phục hồi. Những bàn tay chai sạn run run nắm tay Võ Bằng. Anh nghe lòng ấm áp.

Nhà ba má Tuấn tường vôi trắng, khang trang, nhìn ra cửa sông Cái Lớn. Giàn hoa giấy đỏ rực bên hiên. Ông cụ tóc bạc vồn vã chào đón. Tuấn giới thiệu. Ông hết nắm tay Duyên đoàn trưởng lại đến Võ Bằng:

– Quý hóa quá! Từ ngày thằng con tôi đi Hải Quân, nay mới được hân hạnh đón tiếp nhị vị chỉ huy!

Gian nhà rộng rãi, bày biện gọn gàng. Hương trà xanh thoảng nhẹ. Một bên vách, treo các bức ảnh gia đình. Trên vách đối diện là các bức tranh quê thật đẹp.

Mẹ và em gái Tuấn ra chào. Vừa thấy nàng, tim Võ Bằng bỗng xao xuyến lạc nhịp, không khác gì phút đầu gặp Như Oanh. Anh thông cảm cho con tim hai năm cô đơn, bây giờ gặp người đẹp là rung động đền bù. Ba Tuấn hối làm cơm thết đãi. Duyên đoàn trưởng cáo lỗi, nhưng ông nhất quyết không cho từ chối.

Ba Tuấn hút vài hơi thuốc vấn, khoan thai nói:

– Nhị vị chỉ huy thấy đó, ghe thương hồ đậu đầy bến sông. Mùa gió chướng, ghe bầu từ miền Trung ghé vô, chở đường, chở muối. Mùa gió nồm, ghe cá từ Hà Tiên, Nam Du đổ về cá tôm. Bến sông lúc nào cũng đông vui như hội. Nhờ vậy mà mắm cá lóc, mắm thái của nhà tôi sản xuất cũng đắt hàng…

Mắt mẹ Tuấn vui vẻ tiếp lời:

– Xin mời hai vị ở lại nếm thử. Con gái tôi làm đó.

Một niềm vui nhẹ nhàng chiếm hồn Võ Bằng. Ba mẹ anh cũng có sự vồn vã tương tự với khách tới nhà. Lời của ba mẹ anh bỗng đâu chợt đến: “Cưới vợ đi con, để ba má còn thấy mặt cháu chắt!” Anh nghĩ thầm: “Hay mình cưới cô này? Như Oanh đã xa rời duyên hải!”

Anh lại nhớ câu chuyện người bạn cùng khóa cưới vợ Tamassu. Không lẽ trời cũng run rủi mình đến đây gặp nàng? Chỉ sợ hôm nay rượu không vào lời không ra!

Ba Tuấn hỏi về công tác tuần tiễu vùng vịnh Thái Lan. Võ Bằng nói mới đến khu vực Nam Du, chưa chận xét tàu nào thì gặp ngư thuyền trôi giạt…

Em gái Tuấn rụt rè mà giọng ngọt ngào:

– Tụi em nghe bạn bè kể nhiều chuyện ma ở các đảo Nam Du, Bà Lụa. Hai anh có gặp ma không?

Câu hỏi bất ngờ làm cả bàn lặng đi. Võ Bằng mỉm cười nhìn Duyên đoàn trưởng:

– Đại diện vùng trả lời đi!

Duyên đoàn trưởng cười nói:

– Chúng tôi cũng có nghe. Nào là chuyện chiếc ghe câu không người mà có tiếng cô gái hát hò. Nào là có bóng người áo trắng hiện trong sương mù trên đỉnh Nam Du. Ngay trên chiến hạm, có một thủy thủ kể, một đêm anh đi tuần, thấy ở lái tàu có người đứng hút thuốc, anh lại gần người đó biến mất…

Em gái Tuấn la lên:

– Anh đừng kể nữa, sởn gai ốc rồi!

Tất cả bật cười. Võ Bằng không cười, lòng bâng khuâng: “Sao cô nàng sợ ma giống Như Oanh quá!”

Bữa cơm được dọn ra. Vài món đơn giản. Võ Bằng gắp mắm thái và với cơm. Anh khen:

– Xem chừng ngon hơn mắm thái Châu Đốc.

Mẹ Tuấn mỉm cười:

– Không dám! Được bằng đã là niềm vui lớn rồi! Đại úy quê Châu Đốc?

Anh gật. Bà cười:

– Thôi rồi! Múa rìu qua mắt thợ!

Tiếng cười rôm rả. Võ Bằng hỏi sao có địa danh Rạch Giá. Ba Tuấn cho biết ngày xưa vùng này có nhiều cây giá mọc ven bờ các con rạch. Anh định hỏi thêm về lịch sử nhưng thấy đã đến giờ hẹn trở về, nên đành cùng Duyên đoàn trưởng cảm tạ và giã từ. Ba Tuấn tiễn ra cửa, giọng ân cần:

– Cám ơn các cháu giữ biển, nhờ đó mà Rạch Giá được bình an.

Em gái Tuấn mang ra hai bọc trao cho Võ Bằng và Duyên đoàn trưởng. Cô e ấp, ngọt ngào:

– Mẹ em gửi, nói hai anh bảo trọng.

Võ Bằng buột miệng:

– Còn cô, nói sao?

Em gái Tuấn khẽ đáp:

– Nếu có dịp… xin ghé lại.

Võ Bằng bước ra đường. Gió sông mát nhưng tâm hồn đong đưa sóng gió…

 

CHƯƠNG 13

 AI NHỚ CHĂNG AI?

Chiếc váy màu kem ôm lấy dáng người thanh mảnh, điểm bằng chiếc sơ-mi xanh nhạt ngắn tay. Mái tóc đen búi cao để lộ đôi gò má thanh tú; vài lọn tóc mai rơi nhẹ bên đuôi mắt. Một chút phấn hồng, chút son nhạt. Như Oanh soi mình trong gương lần cuối, sẵn sàng ra Khai Trí mua ít sách cần cho việc giảng dạy tuần tới bắt đầu.

Tiếng chuông cửa vang lên đúng lúc nàng vừa xuống bậc cuối cùng. Mở cửa, nàng ngỡ ngàng. Vinh đứng đó, tay ôm chậu lan hồ điệp trắng tinh khôi, áo thể thao trắng ngà phẳng phiu, mùi nước hoa dìu dịu. Nàng theo thói quen, mở vòng tay. Lần này vẫn thân mật mà bỗng dưng thêm chút ngượng ngùng.

Nàng mỉm cười:

- Sao anh không báo trước?
- Vậy từ kiếp nào ta đã hẹn nhau mỗi chiều thứ bảy?

Vinh trao nàng chậu lan, ánh mắt lấp lánh:

- Em đẹp quá! Anh chọn loài lan đẹp nhất mà vẫn thua em xa.

Trong phòng khách, nàng đặt chậu lan lên bàn ngay trước sofa Vinh vừa ngồi, lấy cho anh lon Budweiser và ly nước lọc cho mình. Quạt trần quay lặng lẽ chứng kiến cử chỉ nàng thiếu nhiệt tình. Tuy vậy nàng vẫn ngồi cạnh anh.

Vinh xoa tay, vui vẻ:

- Đi dạy thế nào, người đẹp?

Nàng cười, giọng hào hứng:

- Em phụ trách ba lớp đệ tứ, hai lớp đệ tam. Giảng văn, văn học sử…
- Trông em như học trò. Có cậu đệ tam nào tán tỉnh không?

Nàng khẽ gắt:

- Đứng đắn chút, anh Vinh.

Vinh bật cười:

- Ờ thì… xin lỗi.

Nàng chậm rãi:

- Khi đứng trên bảng, em nhớ thuở đi học. Ngày ấy, mỗi lần bị kêu lên bảng là run. Giờ đâm ra thương học trò.
- Cho anh xin làm học trò của em.

Như Oanh háy mắt:

- Anh thăng bậc… yêu rồi còn gì nữa!
- Vậy thì để anh thưởng cô giáo một chầu ăn uống, rồi nghe ca nhạc tối nay. Phòng trà mới, rất hay.
- Cám ơn anh, để dịp khác. Em cần ra Khai Trí, rồi còn phải soạn bài dạy tuần tới…

Vinh sầm mặt:

- Tuần rồi em nói mệt, tuần này bận. Trước đâu có thế.
- Em nói thật mà.
- Anh lỡ đến đây rồi, về không thì quê một cục! Để anh đưa em đi mua sách, rồi mình đi ăn, đi phòng trà Đêm Màu Hồng.
- Đêm Màu Hồng, nghe như tựa bản nhạc của Phạm Đình Chương.
- Thì chính nhạc sĩ ta làm chủ, lấy tựa bản nhạc đặt tên cho phòng trà.

Như Oanh soi mói nhìn Vinh:

- Chà, anh rành quá hén!

Anh cười, giả lả:

- Báo nào chẳng đăng tin. Em đi nghen?

Nàng nhớ tuần rồi nghe nhạc sống ban Huỳnh Anh quá hấp dẫn. Giờ được thưởng thức nhạc sống ban Thăng Long hẳn tuyệt vời hơn. Thì đi. Ta còn trọn ngày chủ nhật soạn bài mà. Hơn nữa, đền bù cho Vinh tuần rồi… từ chối.

Chiếc Peugeot 404 lướt khỏi cổng biệt thự, quẹo vào đường Đoàn Thị Điểm. Xe đi chậm trong dòng phố đông chiều thứ bảy. Như Oanh ngả lưng ghế, nhắm mắt, nhớ ngày quen Vinh…

* * *

Bốn năm trước, một đêm Giáng Sinh. Gia đình nàng bày tiệc thiết đãi vợ chồng Thứ trưởng Bộ Thương Mại. Ông bà là đối tác làm ăn thân tín. Lần đó, tháp tùng họ là một chàng trai trẻ trung, đẹp người, lịch lãm.

Ngay cái nhìn đầu tiên, ánh mắt anh đã dành cho nàng sự chú ý. Lời chào càng làm nàng thêm cảm tình:

- Hân hạnh được gặp cô Như Oanh. Mẹ tôi bảo cô rất thông minh, mà lại quên thêm… rất xinh đẹp.

Trong bữa ăn, ba nàng hỏi chuyện: Vinh tốt nghiệp đại học Hoa Kỳ, đang giữ chức Chánh sự vụ Sở Thuế Quan, một vị trí đáng ngưỡng mộ. Sau bữa tiệc, anh ở lại rất khuya. Tiếp đó, những cuộc gặp cuối tuần, buổi chiều xem phim đi ăn, buổi tối phòng trà, khiêu vũ. Cứ thế kéo dài bốn năm. Tình yêu đôi khi sóng gió vì quan điểm trái chiều nhưng Vinh lần nào cũng xin lỗi, làm lành nên vẫn êm đềm. Ba tháng trước, tốt nghiệp đại học sư phạm, nàng đã nôn nao chờ ngày nhận được sự vụ lệnh đi dạy. Rồi càng háo hức hơn khi được Vinh hứa lo cho nàng dạy gần nhà. Họ đã đồng ý rằng, ngay sau khi nàng đi dạy là lúc tính chuyện hôn nhân.

Thế rồi… chuyến đi nghỉ ngơi ở An Thới. Và sự xuất hiện của Võ Bằng. Chỉ một thời gian ngắn, không khí vùng biển và con người hải quân ấy đã khiến nàng nhìn lại cuộc sống đời mình, nhìn lại cuộc tình nàng và Vinh…

* * *

Vinh thả Như Oanh trước nhà sách Khai Trí và vì không chỗ đậu, anh hẹn nửa giờ quay lại. Khi ôm bọc sách bước ra, nàng gặp lại anh đúng hẹn. Xe men qua Pasteur, dọc Bạch Đằng, rồi dừng ở nhà hàng Mỹ Cảnh.

Vinh chọn chỗ ngồi nhìn ra dòng sông lấp lánh ánh đèn. Bàn ăn phủ khăn trắng muốt, muỗng nĩa bạc và ly pha lê trong vắt. Họ ngồi đối diện. Vinh nắm nhẹ bàn tay Như Oanh:

- Sài Gòn đêm trên sông… khó ai chê được. Hy vọng em thích.
- Em thích những quán ven ngoại ô hơn. Ở đó, có gió đồng nội và thanh tịnh.
- Anh biết, nhưng hôm nay còn đi nghe nhạc, sợ trở về trễ, hết chỗ.

Vinh mở bản thực đơn đưa cho nàng. Như Oanh lắc đầu:

– Anh chọn cho em đi. Em không quen ăn nhà hàng.
– Khó tin quá. Ba má em giàu quá mà!

Như Oanh lắc đầu:

– Em có đi ăn với ông bà vài lần nhưng không thích. Thường ngày, em là thân chủ của các hàng ăn lề đường khu nước mía Viễn Đông, Pasteur. Còn đi với anh, có bao giờ em không đòi về vùng quê.

Vinh vẫy tay gọi cô hầu bàn:

– Cho chúng tôi một chai Château Margaux 1961. Khai vị chạo tôm. Hai phần striploin và khoai tây nướng.

Người hầu bàn hân hoan ghi nhanh. Như Oanh lơ đãng nhìn xuôi về khu vực Hải Quân. Một chiếc thương thuyền cập cầu án ngữ tầm nhìn. “Chừng nào anh về Sài Gòn? Có nên gặp lại không?” Nàng nhớ trước khi rời Phú Quốc đã viết vội mấy dòng cho Võ Bằng. Nghĩ lại nàng thấy mình quá lãng mạn. Mới quen vài ngày đã vội hứa hẹn sẽ nhắn tin. Nàng quả có nhớ anh nhưng yêu thì chưa rõ. Nàng cũng thấy tình yêu vốn dành cho Vinh dường như vơi dần, không còn nhớ nhiều, không mong đợi gặp…

Giọng Vinh nhiệt thành:

– Tuần tới anh sẽ rất bận. Tổng Nha Thuế Vụ mở đại hội để duyệt lại các sắc thuế. Anh sẽ phải trình bày lý do cần tăng thuế, phải nghiên cứu sâu…

Bất kể hương vị thịt bò và rượu đắt tiền, Vinh say sưa khoe khoang nhiệm vụ quan trọng của mình, sự rành rẽ về thuế má. Nàng chầm chậm nhai, mắt nhìn Vinh, làm như đang lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu lấy lệ trước khi hớp rượu. Mỗi lời nói của Vinh nàng thấy sao nhạt nhẽo, rỗng tuếch. Nàng cứ mong chấm dứt bữa ăn, một bữa ăn xa hoa mà không ngon bằng tô hủ tiếu Thanh Xuân với ly cà phê đá.

* * *

Chín giờ, trước Đêm Màu Hồng đã đầy xe đậu. Vinh phải đậu khá xa. Hai người sánh bước dưới các đèn đủ màu dọc lề Tự Do như đôi nhân tình hạnh phúc nhất.

Ngay bậc thang đầu, mùi thuốc lá nồng nặc hòa mùi nước hoa đắt tiền. Gian phòng mờ ảo ánh đèn hồng: lãng mạn, nhưng ngột ngạt. Trên sân khấu, Phương Hoài Tâm đang hát Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc.

Họ chọn bàn nhỏ gần sân khấu. Vinh gọi champagne Blanc de Blancs cho nàng, Budweiser cho anh. Đậu phộng, khô mực bày ra. Nàng hỏi

- Anh đến đây thường à?
- Chỉ đôi lần, khi không thể từ chối. Cuối tuần luôn dành cho em mà.

Như Oanh nhìn dàn nhạc. Bốn nhạc công: tay trống, guitar lead, guitar bass, saxophone. Và nhạc sĩ thủ piano: Phạm Đình Chương. So với ban Huỳnh Anh nàng thưởng thức tuần rồi thì chỉ bằng nửa.

Giọng Phương Hoài Tâm thật ngọt mà cũng lắm ngậm ngùi: “Chiều nao anh đi, anh về đất. Chiều nao anh đi, anh về nước.” Lời ca gợi nàng nhớ hai lần cùng anh rể và chị đi ủy lạo thương binh. Bệnh xá An Thới đơn sơ, còn nhiều thiếu thốn. Bác sĩ chỉ một. Y tá chỉ ba. Thân nhân thì xa xôi, phương tiện di chuyển hạn chế, hiếm khi đến thăm. Khi đến được thì chỉ còn viếng mộ.

Sự tương phản giữa Vinh và Bằng hiện lên rõ rệt: Một bên ồn ào, phô trương; một bên trầm lặng, chân thành. Một bên vũ trường, ca nhạc; một bên đầu sóng ngọn gió.

Nàng cố xét lại lòng mình. Tình yêu dành cho Vinh suốt bốn năm có thật là tình yêu hay chỉ là một thỏa mãn tình cảm của tuổi khát khao? Nàng đã từng hãnh diện với bạn bè có được một người yêu đẹp trai học giỏi, có chức quyền. Nhưng An Thới đã lột trần Vinh: một kẻ ba hoa, thích ăn chơi, không lý tưởng. Làm vợ Vinh chẳng khác nào sống trong biệt thự sang trọng mà không có cửa sổ. Nàng đã nghĩ cách rút lui nhưng xem ra chẳng dễ dàng gì!

Nàng nhấp một ngụm champagne. Ánh mắt dừng lại nơi Phương Dung đang hát Ai Nhớ Chăng Ai. Cái tựa lại gợi nhớ Võ Bằng. Giọng ca da diết như nói hộ lòng nàng: “Những gì tha thiết nhất trong đời. Những gì không nói nên bằng lời. Mà tim ta thì chơi vơi. Ai nhớ chăng ai…”

Vinh nghiêng người thì thầm:

- Em biết không, bên em, anh thấy thiên hạ đều thiếu may mắn!

Nàng im lặng. Chàng tiếp:

- Anh nghĩ, đời anh không em, chắc không sống nổi.

Nàng ngăn lại:

- Hãy để em thưởng thức. Toàn bản nhạc em thích.

Vinh nhìn lên sân khấu nhưng cử chỉ bực bội. Anh uống cạn bia, gọi thêm.

Ngọc Minh xuất hiện, giọng tươi vui mà xoáy vào nỗi niềm của Như Oanh: “Nếu anh về bên em, những năm sầu thương sẽ không còn…”

Hoài Bắc giới thiệu tiếng hát Thái Thanh. Như Oanh nắm bàn tay Vinh:

- Thần tượng của anh. Vui hén!

Giọng Thái Thanh vút cao: “Người đi qua đời tôi, không nhớ gì sao người…” Vinh bóp tay nàng, giọng run run:

- Đó cũng là điều anh muốn nói.
- Em hiểu mà. Nghe đi.

Vinh miễn cưỡng nhìn sân khấu, miệng lại khe khẽ hát: “Em đi qua đời anh, không nhớ gì sao em?”

Anh khui lon mới, uống chầm chậm, rồi đặt lon xuống bàn. Anh lấy một hôp nhỏ từ túi quần, mở nắp đưa trước Như Oanh, giọng trịnh trọng:

- Như Oanh thương yêu. Em làm vợ anh nghen.

Chiếc nhẫn hột xoàn lấp lánh gọi mời. Nàng giật nẩy, sượng sùng cứng cả người. Nàng ôm mặt, lắp bắp:

- Bất ngờ quá, em không biết nói sao?

Vinh mỉm cười, khuyến khích:

- Chỉ cần nói “Ừ”.
- Cho em thêm thời gian suy nghĩ.
- Em đã hứa sau ngày đi dạy.
- Nhưng… em cần thêm thời gian.
- Thời gian gì nữa? Em đã đi dạy một tuần rồi.

Giọng Vinh cao dần, vài người khách ngoái nhìn:

- Em có nghe anh nói không?

Như Oanh đứng dậy, nói khẽ:

- Ra ban công đi.

* * *

Ngoài trời, gió đêm Sài Gòn ùa tới, mát lạnh. Thành phố lấp lánh như tranh sơn dầu. Vinh khoanh tay, sốt ruột:

- Chuyện gì? Anh đang nghe.

Nàng hít sâu, tay bấu lan can, mắt nhìn thẳng vào mắt anh, giọng bình thản mà cương quyết:

- Hãy cho em thêm thời gian. Còn anh bắt em trả lời ngay…
- Rất dễ. Chỉ cần một tiếng: “Ừ”.

Nàng lặng thinh ngỡ ngàng. Từ chối thì không nỡ mà ừ càng khó khăn. Nàng chợt nhớ lời của chị: ‘Làm vợ lính biển lúc xa lúc gần, chia tay rồi tái hợp, tình yêu lúc nào cũng mới.” Nàng cũng đã chứng kiến hạnh phúc tuyệt vời của anh chị.

Nàng buột miệng:

- Anh Vinh, em trân trọng tất cả những gì anh đã dành cho em bốn năm qua. Bốn năm hoàn toàn hạnh phúc. Nhưng… giờ nghĩ lại, em thấy rõ không thể làm vợ anh. Em thành thật xin lỗi.

Mặt Vinh biến sắc, giọng lạc đi:

- Em nói giỡn chăng?
- Em lặp lại. Em không thể làm vợ anh.
- Không thể? Vì sao? Chúng ta đã đồng ý…
- Em từng đồng ý, nhưng em nhận ra mình không thuộc về thế giới xô bồ này. Em khao khát cuộc sống bình yên, chân thành hơn. Em sẽ xin đi dạy ở vùng biển nào đó…

Vinh nhìn nàng, lắc đầu:

- Anh nghĩ là em quá nông nổi. Chỉ là một ý nghĩ nhất thời!

Nước mắt nàng ứa ra:

- Không! Không phải nhất thời. Nó là tiếng gọi sâu thẳm từ trái tim. Em xin lỗi.

Vinh gằn giọng, lớn tiếng:

- Có phải vì ai khác không? Một tên hải quân nào đó ở An Thới? Sau bốn năm, em vứt bỏ chỉ vì một kẻ không danh phận? Sao không nghĩ, một ngày nào đó, người ta gọi em “Bà Bộ trưởng”?

Nàng quay đi, nước mắt tuôn dài nhưng lòng nhẹ dần. Ba nàng chưa từng lớn tiếng với nàng. Câu nói của Vinh đủ cho thấy con người thật của anh.

Nàng bước nhanh đến cầu thang. Lời ca tiếng nhạc rộn rã vui tươi của bản Tiếng Dân Chài đưa nàng bước từng bậc chua xót xuống dần. Từng ô gạch vuông trên lề đường Tự Do lùi dưới chân nàng. Tiếng Vinh gọi với theo:

- Như Oanh! Như Oanh! Dừng lại!

Những ô vuông tiếp tục lùi, nhanh hơn.

Vũ Thất
(Còn tiếp)

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2025