SỐ 108 - THÁNG 10 NĂM 2025

 

Ngàn ánh dương rực rỡ

A Thousand Splendid SunsKhaled Hosseini
Trúc Hà dịch

Chương 50 (tiếp)

Các cuộc chiến đã tàn phá những con đường nối liền Kabul, Herat, và Kandahar. Giờ đây, cách dễ nhất để đến Herat là thông qua Mashad bên Iran. Laila và gia đình chỉ ở đó qua đêm. Họ nghỉ đêm trong một khách sạn rồi sáng hôm sau đón xe buýt đi tiếp.

Mashad là một thành phố đông đúc, nhộn nhịp. Laila nhìn theo những công viên, những ngọn tháp giáo đường Hồi và những quán cơm thịt nướng lướt qua hai bên đường. Khi xe buýt ngang qua đền thờ Iman Reza, vị lãnh đạo thứ tám của giáo phái Shi’a (Hồi giáo có hai giáo phái chính: Sunni và Shi’a - người dịch), Laila nghểnh cổ để nhìn cho rõ những viên gạch ngói lấp lánh, các tháp giáo đường, mái tròn thép vàng tuyệt đẹp, tất cả được bảo quản nguyên vẹn và trân quý. Laila nghĩ dến các tượng Phật ở xứ nàng, giờ chỉ còn là những hạt bụi theo gió bay khắp thung lũng Bamiyan.

Chuyến xe buýt đến biên giới Iran-A Phú Hãn mất gần mười tiếng đồng hồ. Ɖến gần A Phú Hãn, địa hình trở nên hoang vắng, cằn cỗi. Trước khi xe qua biên giới để vào Herat, họ đi ngang qua một trại tị nạn. Trong mắt Laila, đó là một vệt mờ tạo thành bởi bụi vàng khè và các túp lều màu đen cùng với vài cấu trúc mỏng manh bằng tôn. Laila với tay qua ghế và nắm lấy bàn tay của Tariq.

Ở Herat, phần lớn những con đường đều trải nhựa và trồng những cây thông thơm hai bên. Có những công viên và thư viện công cộng đang xây dở dang, những khoảng sân chăm sóc rất tỉ mỉ, những tòa cao ốc nước sơn còn mới. Ɖèn lưu thông họat động tốt và bất ngờ nhất đối với Laila là điện luôn luôn có. Laila có nghe nói là Ismail Khan, lãnh chúa phong kiến của Herat, đã giúp xây dựng lại thành phố với số tiền thuế đáng kể ông đã thu được nơi biên giới A Phú Hãn-Iran, tiền mà Kabul nói không thuộc về ông mà về chính phủ trung ương. Trong giọng nói của người tài xế taxi chở họ đến khách sạn Muwaffaq có cả vẻ tôn kính lẫn e sợ khi nhắc đến tên Ismail Khan.

Hai đêm ở khách sạn tốn gần một phần năm số tiền tiết kiệm của họ, tuy nhiên cuộc hành trình từ Mashad quá dài và mệt nhọc, và hai đứa nhỏ đã kiệt sức. Khi Tariq nhận chìa khóa phòng, người nhân viên lớn tuổi ở quầy tiếp tân nói khách sạn Mawaffaq rất được các nhà báo và những người làm việc cho các tổ chức vô chính phủ ưa chuộng.

“Bin Laden đã có lần ngủ ở đây,” ông ta tự hào.

Phòng có hai giường và phòng tắm có vòi nước lạnh. Trên tường giữa hai giường treo bức tranh của nhà thơ Khaja Abdullah Ansary. Từ cửa sổ, Laila nhìn ra con đường nhộn nhịp bên dưới và công viên bên kia đường với những lối đi lát gạch màu nhạt cắt ngang qua những cụm hoa to. Hai đứa nhỏ đã quen có truyền hình, lấy làm thất vọng vì phòng này không có. Nhưng chẳng bao lâu chúng đã ngủ. Chẳng bao lâu, Tariq và Laila cũng thiếp đi. Laila ngủ say trong vòng tay của Tariq, ngoại trừ một lần thức giấc nửa đêm vì một giấc mơ mà nàng không còn nhớ.

Sáng hôm sau, sau bữa điểm tâm với trà và bánh mì nóng, mứt cam quýt và trứng luộc, Tariq kêu xe taxi cho Laila.

“Em có chắc em không muốn anh đi với em?” Tariq bảo. Aziza đang nắm tay Tariq. Zalmai thì đứng sát bên, một vai tựa vô hông Tariq.

“Em chắc.”
“Anh lo lắm.”
“Không sao đâu,” Laila nói. “Thật mà. Anh dẫn con đi chợ chơi, mua gì đó cho con.”

Zalmai bắt đầu khóc khi xe taxi chạy, và khi Laila nhìn lại, nàng thấy nó đưa tay đòi Tariq bế. Việc thằng Zalmai bắt đầu chấp nhận Tariq làm cho Laila vừa mừng vừa buồn.

“Cô không phải người ở đây,” người tài xế nói.

Tóc anh ta đen, dài tới vai – Laila khám phá ra đây là một cách được người ta dùng để tỏ sự coi thường đối với quân Taliban đang rút đi – và anh ta có vết sẹo cắt ngang bộ ria phía bên trái. Trên tấm kính chắn gió bên phía anh có dán tấm hình một cô gái trẻ với đôi má hồng và tóc chẻ giữa thắt thành hai bím.

Laila nói với anh ta là năm ngoái nàng sống ở Pakistan, bây giờ trở lại Kabul. “Khu Deh-Mazang.”

Qua kính xe, Laila nhìn thấy những người thợ đồng đang hàn quai vô các bình đựng nước, những người thợ làm yên xe đang trải các miếng da ra phơi nắng.

“Ông sống ở đây lâu chưa?” nàng hỏi.
“Cả đời rồi. Tui sanh ra ở đây mà. Tui đã chứng kiến hết mọi thứ. Cô còn nhớ cuộc nổi dậy không?”

Laila nói nhớ, nhưng anh ta vẫn tiếp tục.

“Lúc đó là tháng ba năm 1979, chừng chín tháng trước khi quân Liên Xô đến chiếm đóng. Một số dân ở Herat nổi giận đã giết một số tên cố vấn Liên Xô, thế là Liên Xô cho xe tăng và máy bay trực thăng phá nát chỗ này. Suốt ba ngày, cô biết không, họ bắn vô thành phố này. Họ bắn sụp các cao ốc, phá hủy một tháp giáo đường Hồi, giết chết hàng ngàn người. Hàng ngàn người. Tui  bị mất hai đứa em gái trong ba ngày đó. Một đứa mới 12 tuổi.” Anh ta vỗ nhẹ tấm hình trên tấm kính chắn gió. “Nó đó.”

“Xin chia buồn,” Laila nói và lấy làm lạ sao câu chuyện nào ở A Phú Hãn cũng mang dấu chết chóc, mất mát và đau khổ không thể tưởng. Vậy mà Laila thấy người ta vẫn có cách để vượt qua, để tiếp tục sống. Laila nghĩ đến cuộc đời của chính nàng, và tất cả những gì đã xảy ra cho nàng, và nàng ngạc nhiên thấy nàng cũng đã sống sót, nàng vẫn còn sống và ngồi đây trong chiếc xe taxi này, nghe người đàn ông này kể chuyện.

Gul Daman là một ngôi làng với vài căn nhà có tường bao bọc, còn lại chung quanh là những căn chòi thấp tè làm bằng bùn và rơm. Bên ngoài những căn chòi, Laila thấy mấy người đàn bà da sạm nắng đang nấu cơm, mặt mũi họ nhễ nhại mồ hôi vì hơi nước bốc lên từ những chiếc nồi lớn  đen thui đặt trên những bếp lò chụm củi tạm bợ. Mấy con lừa cắm đầu vô máng ăn. Ɖám con nít chạy đuổi gà bắt đầu đuổi theo xe taxi. Laila trông thấy mấy người đàn ông đẩy xe cút kít chất đầy đá. Họ dừng lại, nhìn theo xe. Anh tài xế quẹo cua, và xe đi ngang qua một nghĩa trang có cái lăng mộ thật xưa ở giữa. Anh tài xế bảo đó là lăng của vị giáo sĩ Hồi tu khổ hạnh trong làng.

Có cái cối xay gió nữa. Trong bóng mát của những cánh quạt không hoạt động và rỉ sét, ba thằng nhỏ ngồi xổm dọc bùn. Anh tài xế dừng xe lại và thò đầu ra cửa. Thằng nhỏ có vẻ lớn tuổi nhất trong ba đứa là đứa trả lời. Nó chỉ một ngôi nhà xa xa trên đường. Anh tài xế nói cám ơn, rồi cho xe chạy tiếp.

Anh ta đậu xe bên ngoài ngôi nhà một tầng có tường bao bọc chung quanh. Laila nhìn thấy ngọn của những cây vả ở phía trên bức tường, vài nhánh cây de ra ngoài.

“Tôi đi không lâu đâu,” Laila nói với người tài xế.

Người đàn ông ra mở cửa tuổi trung tuần, thấp, ốm, tóc hoa râm, hàm râu là những sọc bạc song song. Ông mặc áo choàng cổ điển phía ngoài bộ đồ dài.

Họ chào nhau.

“Đây có phải nhà của Thầy Faizullah không ạ?” Laila hỏi.
“Phải, tôi là Hamza, con trai của ông. Tôi có thể giúp gì cho cô?”
“Tôi đến đây về việc một người bạn cũ của cha ông, bà Mariam.”

Hamza chớp mắt. Mặt ông thoáng vẻ bối rối.

“Mariam ...?”
“Con gái của ông Jalil Khan.”

Hamza lại chớp mắt. Rồi ông đưa tay lên má và mặt ông sáng lên vì ông nhoẻn miệng cười đưa mấy cái răng hư và sún. “Ồ!” ông kêu lên. Tiếng kêu nghe như âm thanh ôôô của hơi thở bị tống ra. “Ồ! Mariam! Cô là con gái của Mariam? Mariam có –“

Ông nghẹo cổ, nôn nóng nhìn tìm phía sau Laila. “Mariam có tới không? Trời ơi lâu quá rồi! Mariam có tới không?”

“Mariam đã qua đời.”

Nụ cười tắt trên gương mặt Hamza.

Họ đứng như thế một lúc lâu nơi ngưỡng cửa, Hamza mắt nhìn xuống đất. Có tiếng lừa hí đâu đó.

“Mời cô vào,” Hamza nói. Ông đẩy cửa mở ra. “Xin mời cô vào.”

Họ ngồi dưới đất trong căn phòng thưa thớt bàn ghế. Trên nền nhà có tấm thảm hoa, mấy cái gối kết cườm để khách ngồi lên, và tấm hình thánh địa Hồi giáo Mecca đóng khung treo trên vách. Họ đến ngồi bên cửa sổ mở, hai bên một vệt nắng dài. Laila nghe có tiếng đàn bà thì thầm từ một phòng khác. Một thằng nhỏ đi chân đất đem đặt trước mặt họ một mâm nước trà xanh và kẹo dẻo hột hồ trăn.

Hamza gật đầu về hướng thằng nhỏ.

“Con trai tôi.”

Thằng nhỏ lặng lẽ bỏ đi.

“Cô kể đi.” Hamza mệt mỏi nói. 

Laila kể hết mọi chuyện. Phải mất nhiều thời gian hơn nàng nghĩ. Gần cuối, nàng phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh. Một năm rồi mà vẫn cảm thấy khó khi nhắc tới Mariam.

Laila kể xong, Hamza ngồi im lặng một lúc lâu. Ông chầm chậm xoay tách trà trên chiếc đĩa lót tách, xoay qua rồi xoay lại.

“Cha tôi, cầu xin cho linh hồn ông được yên nghỉ, hồi đó thương cô ấy lắm.” Hamza cuối cùng cất tiếng. “Ông là người kề tai cô ấy để hát gọi cầu nguyện khi cô ấy chào đời, cô biết không. Tuần nào cha tôi cũng đến thăm cô ấy, không bao giờ bỏ sót. Đôi khi ông dẫn tôi theo. Cha tôi là gia sư của cô ấy, mà cũng là người bạn của cô ấy. Ông là một người nhân từ. Lúc ông Jalil Khan gả cô ấy đi, cha tôi buồn dữ lắm.”
“Xin chia buồn cùng ông. Xin Thiên Chúa tha thứ cho cha ông.”

Hamza gật đầu cám ơn. “Cha tôi rất thọ. Thực ra cha tôi sống lâu hơn ông Jalil Khan. Cha con tôi đã chôn ông ấy nơi nghĩa trang trong làng, không xa nơi chôn má của Mariam. Cha tôi là một người rất tốt, đáng được lên thiên đàng.”

Laila hạ tách xuống.

“Ông cho phép tôi hỏi một điều, có được không ạ?”
“Được chứ.”
“Có thể nào ông chỉ tôi chỗ chị Mariam đã sống? Có thể nào ông dẫn tôi tới đó?” Laila nói.

(còn tiếp)

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2025