SỐ 108 - THÁNG 10 NĂM 2025

 

TỔ QUỐC TRĂM NĂM

Trại Trung Chuyển Thủ Đức

Tiếng mở khóa cửa lạch cạch làm Hảo thức dậy. Bóng nắng hơi xiên ngoài sân cho biết trời đã khá trưa tuy nhiên đa số tù cải tạo mới chuyển đến đêm rồi còn say ngủ vì mệt mỏi. Ba người công an bước lên tam cấp vào bên trong, một người gọi lớn ra lệnh mọi người thức dậy vì một giờ nữa ban giám thị sẽ tập họp nói chuyện, rồi yêu cầu ba trại viên theo họ xuống bếp lấy nước trà và thức ăn sáng.

Nước trà nóng làm Hảo tỉnh táo. Anh húp vội chén cháo loãng vừa nhớ lại chén cháo ốm ngày còn bé, rồi chén cháo đặc ăn với đường tán ở Long Thành. Cháo trại Thủ Đức loãng như nước cơm vo nhưng phảng phất có vị béo của nước vôi trong nấu theo kiểu miền Trung. Anh lại nghĩ đến ông nội giờ đang sống với mẹ anh ngoài Nha Trang.

Gia đình Hảo ly tán ba nơi trong khi đất nước thống nhất. Miền Nam giải phóng, Nam Bắc một nhà. Người cộng sản đoàn tụ và người quốc gia tan tác chia lìa. Không có gì hoàn hảo đâu, chiến tranh có hệ quả của nó! Với bao tưởng tượng phong phú sau ngày Ba mươi tháng Tư của đám người chiến bại là ước mơ tội nghiệp, là ánh sáng le lói của niềm tin trong cơn bão tố lịch sử phũ phàng.

Ông Toản ngồi bó gối nhìn đăm đăm qua hàng song sắt. Chấn chậm rãi uống trà và hút thuốc lào. Hoa đang nằm cạnh khều Hảo nói nhỏ, lúc xuống lãnh nước trà đi qua nhiều phòng thấy Dương, Vinh đang ở nhà sau. Có lẽ nơi này là trạm trung chuyển. Hoa nhận định như thế Hảo nghĩ có lẽ đúng, và anh nghĩ làm thế nào có thể liên lạc được với các bạn thì có lệnh tất cả ra sân lên hội trường.

Hội trường tuy nhỏ nhưng vẫn rộng thênh thanh cho tám mươi người tù cải tạo vừa từ Long Thành đến. Giám thị là một cán bộ lớn tuổi tóc bạc phơ, nhưng có vẻ khoẻ mạnh bước lên trên bục nói chuyện về nội qui kỷ luật của trại Thủ Đức. Lại giọng Nghệ An khó nghe và nội dung tình hình không có gì thay đổi. Vẫn những từ như Cách Mạng khoan hồng, Thống nhất Bắc Nam, cải tạo tư tưởng, lao động vinh quang, lập công chuộc tội ... lập đi lập lại không khác chiếc máy hát đĩa mòn kim không vượt sang được rãnh mới.

Trong khi chờ đợi biên chế, trại viên cải tạo sẽ được sinh hoạt đọc báo. Viên giám thị nhắc đi nhắc lại rằng mỗi ngày mọi người sẽ được mở cửa ra sân đi bộ và tập thể dục một giờ đồng hồ, nhưng tuyệt đối không được vượt qua khu vực giới hạn và đi lại lung tung. Vi phạm sẽ bị kỷ luật biệt giam.

Về phòng đã đến giờ lấy cơm. Hảo xung phong đi lãnh thức ăn và nước trà. Ba trại viên mới đến đi theo người cán bộ công an trại giam hơi lớn tuổi nhưng cao to lực lưỡng nói giọng Nam tuy thỉnh thoảng vẫn có một số âm pha Bắc. Ông ta nói:

“Gọi tôi là anh Ba cho tiện, Ba Răng vàng càng tốt vì ở đây mọi người quen gọi như thế. Việc vi phạm nội qui thường xuyên của trại là trại viên các nhà tìm cách liên lạc với nhau. Tôi nhắc cho các anh cảnh giác vì tôi không muốn ai bị cùm cả. Thấy gì ở đây đừng thắc mắc vì là trại giam chứ không phải trại tạm trú. Ở cho hết hạn rồi trở về. Học tập tốt tính từng ngày chứ không thể hớ hênh vì bạn bè mà chuyển thư từ tin tức khiến công lao học tập đổ sông đổ biển hết...”

Anh Ba nói chưa hết câu thì mọi người đi qua một ngã tư. Bên kia là một nhà giam hai tầng bọc kín trong lớp kẻm gai dày phía sau một cây móng bò cao đang trổ hoa đỏ rực. Có tiếng khóc của trẻ con và tiếng phụ nữ nói chuyện. Con đường xuống bếp rẽ trái. Một số người từ dãy nhà trệt trước mặt ló đầu ra và có tiếng gọi của anh Tấn. Hảo đi sau Ba Răng vàng nên đưa tay ra dấu cho anh Tấn thấy rồi đi xuống bếp.

Lãnh cơm trở về Hảo cố chậm chân đi sau chót gần đến ngã tư có cây hoa móng bò, anh thấy Dương, Tấn, Bửu Uy chen chúc bên trong song sắt cửa sổ đưa tay vẫy. Hảo làm dấu anh ở căn nhà bát giác sau cổng trại rồi trở về buồng. Lần này anh thấy thấp thoáng sau khe hở của cánh cửa sắt dầy một số phụ nữ mặc quần áo tù như anh. Hảo tự nghĩ những chuyến chuyển trại viên phụ nữ trước kia có thể đưa về đây và chưa phân phối đi các trại khác.

Buổi chiều Ba Răng vàng xuống mở cửa lúc ba giờ. Lại nhắc nhở nội qui trại trước khi cánh cửa sắt mở tung. Tù nhân cải tạo ào ra sân như học trò đến giờ ra chơi. Sân gạch tròn còn ẩm nóng. Mọi người tản ra tứ phía tránh nắng và hít thở chút không khí tự do. Hảo nhìn chung quanh, căn nhà phía tây nằm giữa hai lối đi mở cửa khác giờ. Tù nhân bên trong lố nhố sau song sắt. Toàn mặt lạ, có lẽ thuộc nhiều trại khác chuyển đến. Vài người nói với nhau, đa số ở tỉnh vì tôi thấy một số tai to mặt lớn ở Vĩnh Long. Một thiếu tá cảnh sát nói nhỏ, tôi thấy đại tá Trịnh Tiếu trưởng phòng nhì quân đoàn hai trước kia, trung tá Duyệt cảnh sát vùng một. Những người này không hề có mặt ở Long Thành. Có thể họ bị bắt.

Theo cách nói của một số người thì cái phòng giam trước mặt nhốt người chế độ cũ có thể bị bắt trước hoặc sau ngày ba mươi tháng Tư. Lại có thêm chi tiết về một số tù dân sự bị bắt vì tham gia các tổ chức phản động. Hảo đi lòng vòng trong sân cho giãn gân cốt. Anh không thấy thoải mái vì sự chật chội của trại tù Thủ Đức. Ngày xưa nơi này cũng đã từng giam biết bao thành phần thân cộng. Đám sinh viên cộng sản dấu mặt dưới sự yểm trợ của Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao Tù đã từng tuyệt thực phản đối chế độ ẩm thực của trại giam mà người cầm đầu xách động là bà luật sư Ngô Bá Thành, các linh mục Chân Tín, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Nguyễn Ngọc Lan và không thiếu các khuôn mặt sư sãi quen thuộc của Phật giáo Ấn Quang ủng hộ hết mình; rồi thành phần trí thức tả phái hoặc cộng sản dấu mặt như Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Châu Tâm Luân... và đám Ký giả Ăn mày làm đủ trò trong những tháng ngày cuối cùng của chế độ miền Nam. Phải nói ngày ấy chính phủ Việt Nam Cộng hòa không những lưỡng đầu thọ địch mà ngay trong nội bộ cũng bị lũng đoạn vì nhiều thế lực thao túng. Cảnh sát đàn áp thành phần đối lập bị cộng sản giật dây và bắt đi giam giữ tại trại tạm giam Thủ Đức. Chính phủ Hoa Kỳ cùng đám ký giả ngoại quốc lên tiếng kêu gọi trả tự do cho đám trí thức thân cộng hoạt động dưới cái vỏ thành phần thứ ba, và yêu cầu phải có đủ ba món cho bữa ăn của người tù chính trị tại trại Thủ Đức.

Người ta thường bảo trò hề chính trị không phải không có lý. Đòi ba món cho một bữa ăn của người tù ngày nọ dưới chế độ tự do miền Nam, và sự im lặng là vàng hôm nay của đám tù cải tạo trước nước muối và cơm độn khoai sắn dưới ánh sáng của cách mạng xã hội chủ nghĩa có phải là chuyện dở khóc dở cười hay không? Hảo rùng mình nhớ lại chuyện cũ như có ai dội gáo nước lạnh lên người. Có ân hận, có tiếc nuối nhưng lịch sử đã sang trang. Anh nhìn chung quanh như muốn ghi nhận cái thực tế trước mắt mà phút hồi tưởng đã qua như muốn phủ nhận xóa nhoà đi. Hảo đi về phía ông Toản hút điếu thuốc lào dưới gốc cây mận già. Hoa mận trắng rụng đầy mặt đất, và rồi trong tâm hồn anh như vẳng lại một khúc nhạc xa xưa.

Sau khi nhà một bát giác đóng cửa, căn nhà phía dưới mở ra. Mọi người lại túa ra sân tập thể dục. Rất nhiều người già tóc bạc. Hảo nhận ra một số khuôn mặt quen thuộc của trại Long Thành đã ra đi theo những chuyến xe “đêm màu hồng”. Họ chậm rãi bách bộ trên sân hình tròn. Có người đi ngược lại và đa số không ai chú ý ai như bức tranh “Trong sân tù” của Van Gogh. Đám tù nhân này hình như an phận hơn nên bất cần đời hơn. Họ mạnh ai nấy theo đuổi ý nghĩ riêng tư trong đầu. Một vài người ngồi với nhau nhưng hình như không trò chuyện. Họ đeo đuổi cái ý nghĩ mà ra ngoài sân nó tự do tuôn trào hơn là trong phòng tù trần có mắt vách có tai. Có người mang thức ăn ra nhấm nháp hết sức thanh cảnh. Nhìn chung sinh hoạt của họ bình thản dường như đã sống ở đây lâu lắm, và mọi thứ đã thành nền nếp do đó trong đám người này có một số mang dáng dấp tâm thần.

Căn nhà mà Hảo ở mang tên nhà A, ở đầu trại Thủ Đức nghĩa là nếu nhập trại bước vào cổng gặp nhà A bên tay trái trước tiên. Nhà A chia tổ lần nữa, và Hảo thuộc tổ của Hóa nhân viên cùng sở thuộc ban R nghiên cứu ngày xưa. Buổi sinh hoạt tổ hằng ngày không khác trước kia bao nhiêu. Cũng ghi chép và phát biểu. Ghi chép là thủ tục còn phát biểu là xác minh mình đang ở tù, và an tâm với số phận cho đến khi được trả tự do. Trại sinh hoạt lao động mỗi tuần một lần, thêm phê bình và tự phê để thi đua lao động sản xuất. Hai bên đều có lợi là đạt yêu cầu của trại cải tạo.

Hóa lớn hơn Hảo ba tuổi, khuôn mặt tinh anh lanh lợi. Nói ít hiểu nhiều, Hoá thường nhắc với mọi người trong tổ với ý lo thủ thân là hơn. Về đến trại Thủ Đức ai cũng biết chặng đường đi còn dài nên luôn luôn trong tư thế chuẩn bị lên đường. Gọn ghẽ và sẵn sàng, Hảo tâm niệm như thế. Anh học hỏi nhiều nơi người lớn tuổi kinh nghiệm mà anh cho rằng ở lứa tuổi anh chưa từng trải qua.

Hơn ba tuần lễ sinh hoạt đều đặn với đọc báo, ra sân tắm nắng, đi bộ lòng vòng rồi vô chuồng nằm theo cách nói của Chấn thì được lệnh dọn nhà lần nữa. Dọn nhà ở đây có nghĩa di chuyển chổ ở trong trại. Toàn thể nhà A dọn xuống khu B. Nhà tám của Hảo dài chỉ đủ sức chứa năm tổ. Phần còn lại phân chia tứ tán khắp nơi. Lần này Hảo, Chấn và ông Toản mỗi người mỗi nơi. Lúc khuân vác đồ đạc không ai nói với nhau lời nào, chỉ nhìn nhau thở dài rồi chia tay.

Nhà tám dựa lưng vào tấm vách dài và cao. Tuy nhiên đứng bên ngoài có thể nhìn thấy chấn song cửa sổ của căn nhà bên trên, và những cánh tay đen đủi khẳng khiu thò ra ngoài như hóng gió báo nhà phía dưới biết có sự hiện diện của họ. Hảo cùng các bạn vào buồng sau khi cánh cửa sắt đóng sầm một tiếng, ai nấy trải chiếu lên bục xi măng thoai thoải hai bên đường đi rồi kẻ ngồi người nằm thở phào như trút gánh nặng. Gánh nặng nhà tù thường gặp là dời chỗ, trong khi tâm trạng mọi người là muốn yên một chỗ ra sao thì ra.

Hảo nằm vắt tay trên trán nhìn qua kệ xi măng đối diện. Trên kệ dù tẩy xóa rất kỹ nhưng vẫn còn lờ mờ hàng khẩu hiệu “Đả đảo Hồ chí Minh tên tay sai cộng sản quốc tế”. Ai cũng thấy hàng chữ ấy nhưng không ai nói gì. Cuộc cờ xoay chuyển và bàn cờ bây giờ cũng đổi thay. Những quân cờ ngày xưa không phải không biết thân phận của mình, nhưng có lẽ họ thấm thía hơn khi biết mình là quân cờ thí trong tay những kẻ cơ hội. Và cờ thí thì phải chịu hi sinh vì điều ấy không thể nào khác hơn được. Hảo ngẫm nghĩ lại cuộc đời mình, tuổi trẻ ngắn ngủi với những khát vọng không hề thực hiện được. Nhưng nhìn chung quanh anh lại thấy rõ hơn nữa bài học lịch sử của đất nước mình, và những gì mình đã đóng góp cho miền Nam suốt thời kỳ làm việc. Không có gì cả. Ngay đến một niềm an ủi cũng không. Anh trắng tay và trần trụi trong canh bạc lịch sử nhưng nỗi đau khổ nhất có lẽ là cái quá dễ hiểu của một thất bại đắng cay. Giản dị chứ không xa xôi phức tạp như đa số mọi người nghĩ. Anh thiếp đi trong nỗi mệt nhọc của lần di chuyển, và thức giấc khi Hoa khều chân gọi dậy lãnh thức ăn trưa.

Mang phần cơm trắng lưng hai chén và một chén canh bí đỏ nấu với mỡ heo vào chỗ nằm, Hảo lắng tai nghe các bạn đi lãnh cơm về nói chuyện. Trại Thủ Đức rộng lắm vì có chứa cả tù hình sự. Thì ra đám người ló những cánh tay đen đúa khẳng khiu phía bên trên là tù hình sự. Họ đa phần còn quá trẻ, có đứa chỉ khoảng mười ba, mười bốn. Anh bạn lãnh cơm nói thêm:

“Bọn họ như bị bỏ đói, có đứa chỉ còn da bọc xương. Lúc gặp chúng ta tụi nó mừng gọi ông thầy. Họ còn cho biết đã chuyển từ Trảng Lớn trở về.”

Như thế trại Thủ Đức giam đủ loại thành phần và có lẽ đối với tù chính trị miền Nam là trạm trung chuyển. Tám mươi người của Hảo chuyển xuống dưới nhường nhà A cho đám tù sắp đến nhưng không ai biết là thành phần nào.

Buổi chiều Hảo xung phong đi chẻ củi. Ban đầu ai cũng tưởng là nhà bếp yêu cầu nhưng lúc đến nơi Hảo, Kỷ, và Vân mới biết là mình đi làm tạp dịch. Ba người ra khỏi khu trại tù và đến khu nhà ở của cán bộ. Cũng chẻ củi nhưng làm việc ấy cho gia đình giám thị. Giống như ngày xưa. Kỷ nói, chúng ta về trại Thủ Đức có hơi hướm của thị thành.

Kỷ nói không sai, tiếng xe gắn máy chạy bên ngoài xen lẫn tiếng nói chuyện râm ran của người đi đường, Hảo thấy lòng bùi ngùi tưởng mình đã bị đày đi đâu xa lắm mới về. Cô con gái của viên giám thị còn trẻ và đẹp. Nét đẹp miền Bắc thô sơ trong bộ quần áo bà ba màu xanh dương. Cô mang cho mỗi người một tách trà lúc giữa buổi tạp dịch. Trà đắng nhưng ngọt ở cổ họng. Trà móc câu đấy. Vợ của viên giám thị nói rặt giọng miền Bắc. Bà ta bảo:

“Trà này là loại thượng hạng của miền Bắc, phải sao đến bảy lần. Tuy không có hương như trà miền Nam nhưng lại có vị. Các anh có lẽ chưa quen với trà Bắc nhưng nếu uống thường xuyên các anh sẽ nghiện và khó mà bỏ được.”

Nói xong bà xuống bếp lấy cho mỗi người hai viên kẹo bột. Ăn kẹo bột uống trà làm Hảo nhớ đến những nhân vật trong truyện Tự Lực Văn đoàn ngày xưa. Những con người xa xăm ấy bây giờ hiện diện ở đây. Anh nhìn ra sân trước. Hơn nửa mảnh sân rộng phơi đầy vỏ dừa làm chất đốt. Qua khỏi sân mới đến cổng trại với dây kẻm gai trên đầu tường cao. Trên hai vọng gác là hai chiếc nón cối vàng công an và hai đầu súng AK đậm nét trên khoảng trời xanh. Bên ngoài tự do bên trong tù tội. Có thật như thế hay bên ngoài cũng là một trại tập trung khổng lồ? Hảo thoáng nghĩ đến vượt ngục. Lúc còn ở Long Thành, Long trước kia thuộc toán an ninh nội bộ nói với anh. “Khi nào tao thấy không còn cần ở trong trại nữa, tao sẽ vượt tù.” Long nói quả quyết như có tính toán từ trước cho cái ước muốn của mình, nhưng Hảo không tin rằng vượt ngục dễ dàng trong xã hội cộng sản dù ý niệm tự do lúc nào cũng bức thiết cho những con người đang ở trong trại tập trung.

Sự thất bại chớp nhoáng của miền Nam làm cho những người có niềm tin tưởng vào lập trường của mình, và chính phủ chấp nhận ở lại ngỡ ngàng dù sự thật hết sức hiển nhiên. Bằng chứng còn rất nhiều người dù bản lĩnh chính trị không phải kém cỏi vẫn ngờ rằng sự thật không phải thế. Còn có giải pháp, còn nhiều mưu đồ chính trị bên trong nên phải chờ đợi. Thái độ ấy phơi bày sự ngụy tín để rồi trở thành ấu trĩ với những câu phê phán kẻ thù khôi hài. Chúng ta thơ ngây xây dựng niềm tin trên một ảo tưởng có thật do chính chúng ta và đồng minh của mình tạo ra. Vinh nói không ngoa chút nào. Ngày hôm nay trong chúng ta vẫn có một số người còn vẩn vơ tin rằng có một giải pháp để giải quyết bài toán miền Nam, trong khi đó khắp cả nước chỉ có một lá cờ máu cộng sản. Chúng ta tránh nói đến thất bại vì đề cập đến là phơi bày ngay ra sự thua kém của mình trên mọi mặt, và lờ đi sự thật là trong chiến tranh chỉ có thắng hay bại mà thôi. Phê bình chiến tranh là phê bình bản lĩnh của đôi bên lâm chiến chứ không có chuyện bên này nhân đạo hay tàn bạo hơn bên kia. Bản lĩnh ấy hàm chứa chiến lược và chiến thuật có nghĩa bao gồm cả hai mặt chính trị lẫn quân sự và đi vào lịch sử. Lý do đi vào lịch sử là cuộc chiến ấy được đặt cạnh các cuộc chiến tranh khác mà có một kết luận rút ra từ một thời điểm của dân tộc. Có như thế nó có thể có được chút tính khách quan và khoa học. Vinh quang không có trong lý luận phê bình chiến tranh. Vinh quang chỉ có trong tay của kẻ chiến thắng, và vinh quang ấy lâu bền hay không là liệu phe chiến thắng có bảo vệ được hào quang của mình lâu hay mau trong dòng lịch sử dân tộc. Đã không thiếu những trang sử trĩu nặng lời nguyền rủa và mỉa mai vì cái sai lầm của những kẻ nắm giữ vận mệnh đất nước.

Hảo suy nghĩ mãi trên con đường về buồng sau buổi tạp dịch. Anh nhìn xuống chân mình và bạn bè. Tất cả đều mang dép lốp minh chứng cho một con đường đi mới của miền Nam sau hai mươi mốt năm dệt mộng không thành. Bây giờ chúng ta tập tễnh từng bước trên con đường tù tội gập ghềnh mà kẻ thù đang vạch cho chúng ta đi. Chúng ta làm chúng ta chịu là qui luật muôn đời và có thật như thế hay không?

Mùa đông năm 1976 đến chầm chậm theo nhịp đón đưa đám tù mới đến và đám tù ra đi. Cứ hai tuần một lần lên xe ra đi vào lúc nửa đêm. Xen kẽ vào đó trại lại bổ sung đám tù mới không biết từ nơi nào đến cũng vào lúc nửa đêm về sáng. Trại Thủ Đức không lúc nào thiếu tù. Đám tù cải tạo trại Long Thành bị chia năm xẻ bảy sau nhiều đợt biên chế và một số đã ra đi. Hảo chuyển nhà ba lần và mỗi lần theo anh là một lần thanh lọc thành phần. Anh dần dần trôi dạt xuống những lán trại phía sau, nơi ngày xưa là những phòng huấn nghiệp cho tù lâu năm. Kẻ không may mắn đi ngược lên trên để rồi chờ đọc tên danh sách chuyển trại. Hơn chín mươi phần trăm tù tại trại Thủ Đức quả quyết nơi này là trạm trung chuyển ra Bắc. Họ sẽ được đưa đi Cao Bằng Lạng Sơn bằng cả hai phương tiện xe lửa lẫn tàu thủy, và hai cái bến ra đi là Ga xe lửa Sóng Thần Thủ Đức và bến tàu Tân Cảng Hàng Xanh. Càng nói nhiều đến chuyện ra đi, trại viên càng lo lắng đến viễn ảnh mờ mịt của thân phận người tù khổ sai biệt xứ. Tuy nhiên, ai cũng đều chuẩn bị cho mình một số hành trang gọn nhẹ để khi cần thiết lên đường.

Đợt biên chế thứ tư chuyển Hảo xuống căn nhà tận cùng của Trại Thủ Đức mang số hai mươi ba. Nơi này trước kia là xưởng học may của tù chính trị miền Nam Việt Nam Cộng hòa. Rộng thênh thang với mười hai mét dài sáu mét ngang chứa tám tổ gần chín mươi người. Anh Tấn gặp Hảo cười vỗ vai nói, “Châu về hiệp phố mà!” Trong đám bạn thân ăn uống chung của trại Long Thành chỉ có Dương là đã ra đi. Anh Tấn nhắc, “Lúc đi tôi có đưa thêm cho anh ấy cái áo ấm vì sợ ngoài bắc lạnh lắm. Phải thêm một tuần nữa là tôi may xong đôi bao tay.”

Anh Tấn tỉ mỉ lo cho bạn bè. Sợ khí hậu miền Bắc lạnh anh may thêm nón nỉ có hai miếng che tai và găng tay cắt từ tấm mền rách. Anh may khéo dấu cả đường chỉ bên trong như găng, nón bán ngoài chợ. Sau buổi đọc báo nhìn anh cặm cụi may đồ lạnh với chiếc kim tự chế bằng kẻm gai mài nhọn, Hảo buồn bã thương cảm cho anh cũng như cho thân phận chính mình. Anh tự an ủi lòng còn phải lo là còn tin tưởng và ham sống. Bao giờ ý thức ấy mất đi lúc ấy nên cảnh giác.

Hai ngày sau một đợt biên chế mới nữa nhồi nhét thêm mười hai người vào nhà hai mươi ba. Lần này cũng là châu về hiệp phố. Đi lòng vòng Uy cũng gặp lại Hảo. Nói chuyện rôm rả những lần chia tay trong tù. Tổ của Hảo thêm một sĩ quan cảnh sát sắp chết. Trung tá Lê Khắc Duyệt em của bác sĩ Lê Khắc Quyến, người hùng của những năm sôi động miền trung trong thời kỳ Nguyễn cao Kỳ làm chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương, bị lao không biết đến thới kỳ thứ mấy chỉ còn là một bộ xương biết đi. Nhìn ông ta ăn cơm Hảo cảm tưởng như thấy chiếc đầu lâu đang nhai. Anh nghĩ đến câu “Quan tha ma bắt” và hiểu lý do tại sao cấp bậc trung tá mà ông Duyệt chưa bị đưa đi ra Bắc.

Buổi tối sau khi kẻng báo ngủ chừng mười phút. Nhà phía trên có tiếng la báo cáo có người chết. Từ khi Hảo chuyển xuống nhà hai mươi ba, mỗi đêm anh nghe nhà mười hai ít nhất báo cáo ba lần là có người bệnh nặng cần cấp cứu hoặc chết. Tính đến lần báo cáo này đã có bảy người ra đi. Anh Tấn nói nho nhỏ. Căn nhà mười hai chứa tù hình sự từ trại Bù Gia Mập Phước Long về. Đa số là bụi đời, sì ke ma túy hay cướp giật trong thời gian đầu miền Nam sống dưới chế độ cộng sản. Những hôm đi lãnh cơm hoặc xem phim, Hảo đi ngang qua nhà mười hai thấy tù hình sự đa số tuổi trẻ, thân thể gầy đét còn da bọc xương. Nhìn thấy đám tù chế độ cũ họ kêu xin thức ăn vì đói. Hầu hết đám người này không có thân nhân thăm nuôi. Khi lãnh cơm tại bếp một cậu bé tù hình sự khoảng mười lăm tâm sự với anh:

“Tụi em về đây là may mắn lắm rồi. Lúc còn ở Phước Long dưới sự quản giáo của bộ đội ngay ba tháng đầu tiên, trại đã chết mất hai trăm người vì sốt rét và đói.”

Cậu than là không có thuốc và bộ đội rất tàn nhẫn. “Thay vì có peniciline chữa bệnh chúng em chỉ nhận akmycine. Đứa nào kêu rêu hoặc chây lười lao động chỉ lãnh báng súng vài lần là đủ chầu trời. Kéo dài thêm vài tháng nữa có khi chết sạch. Lúc đến Bù Gia Mập là tám trăm về trại Thủ Đức còn không quá trăm rưỡi người.”

Hảo hiểu ngay rằng thành phần như anh còn may mắn có chính sách hẳn hoi chứ thành phần hình sự đối với người cộng sản chỉ là cặn bã. Họ còn mang thêm nhãn hiệu tàn dư của chế độ mỹ ngụy có lý do gì mà để nó tồn tại, trong khi xã hội mới xã hội chủ nghĩa cần sạch sẽ mọi bề!

Sáng hôm sau tổ Hảo được chọn đi tạp dịch và khi đi ngang nhà tám anh gặp lại Nghiệp cùng khoá năm bảy mươi hai Thủ Đức. Nghiệp hét lên:

“Hảo, lần này về lại Thủ Đức cũng là tan hàng cố gắng. Hi vọng chúng ta nói chuyện nhiều hơn nếu có dịp gặp nhau.”

Hảo đưa tay chào bạn theo kiểu nhà binh ngày xưa. Nghiệp không thay đổi gì có lẽ nhờ gia đình thăm nuôi kỹ lưỡng. Về trại Thủ Đức được thăm nuôi là một ân huệ to lớn đối với đám tù trình diện đi học tập cải tạo. Thành phần chế độ cũ bị bắt sau ngày ba mươi tháng Tư nhốt trong các trại lớn Chí Hoà, Phan đăng Lưu đều được thăm nuôi hàng tháng. Sau thời gian giam giữ điều tra họ dần dần được phân phối đi các trại lao động cải tạo toàn quốc, tùy theo thẩm định nặng nhẹ của bộ nội vụ. Nhưng dù đi đâu thì đi, ai cũng phải về trại trung chuyển Thủ Đức. Càng ở lâu tại trại này người tù có dịp chứng kiến từng đoàn người chế độ cũ đến rồi ra đi. Nghiệp khôi hài:

“Ở đây lâu tao cứ ngỡ rằng mình đang thụ huấn quân sự như năm bảy mươi hai và chứng kiến ‘khắp bốn phương trời từng đoàn người trai về đây...’ bài hát ngày trước chúng ta đi bãi tập hát.”

Hảo ngồi dưới bóng mát của cây dừa trong khu cán bộ trại nghe bạn kể chuyện trong buổi giải lao tạp dịch. Nghiệp thao thao nói chuyện trong trại tù. Nó kháo rằng cái nhà phía tây cách một bức tường là khu trại nữ. Nhiều cô đẹp mà dữ lắm. Nghiệp xuống giọng nói nhỏ:

“Họ bị bắt về tội phản động. Một số là nữ sinh các trường trung học đi rải truyền đơn kêu gọi phục quốc. Mày có biết câu: Đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ. Nón tai bèo che khuất bóng tương lai hay không? Tội nghiệp các cô bé này đa số trong bọn họ có cha mẹ hoặc người thân đi tập trung cải tạo!”

Hảo gật đầu. Anh nghe từ khi còn ở Long Thành. Sự thay đổi của miền Nam sau ba mươi tháng Tư là một cuộc bể dâu làm sao mà không có ca dao, đồng dao, tục ngữ trong khi cái xung động còn đang cao điểm. Chuyện thời sự vỉa hè phản ánh trung thực việc gì đang xảy ra cũng như ghi nhận nó như chuyện tự nhiên. Nó là thứ văn hoá thời cuộc để xả xú páp và cũng để xác minh rằng luôn có sự chống đối tiêu cực trong xã hội. Nghiệp thuật lại chuyện sáu tháng miền Nam dưới chế độ cộng sản như những mẫu chuyện khôi hài hư cấu mà có thật. Nghiệp trốn trình diện và tin rằng mình cư trú trong khu công giáo của bà con bên vợ là an toàn nhưng hắn kết luận:

“Công giáo thì có công giáo yêu nước. Ông Linh mục kính chúa yêu nước chỉ chỗ cho công an tó tao vào trại cải tạo sau sáu tháng Tưởng dường như yên thân với lý lịch mới.”

Hảo phì cười nhớ lại những lần trốn trại cuối tuần và bị phạt dã chiến của Nghiệp. Hầu như tối chủ nhật nào có lệnh cấm trại là thấy bóng Nghiệp đầu trùm poncho nâng cao khẩu M16 khỏi đầu nhảy xổm trong sân đại đội. Nghiệp luôn luôn là hình ảnh điển hình của một sinh viên sĩ quan ba gai, tuy nhiên hắn thẳng tính và tốt bụng khiến ai cũng thương mến. Bây giờ hai người gặp nhau bất đắc dĩ vì thời cuộc gắn với định mệnh mà không ai thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn ấy.

Chia tay Nghiệp nhắc nhở Hảo:

“Có gì cần cho tao hay tao gửi xuống cho. Tụi trật tự trại tao quen cả mày đừng có lo. Bao giờ thăm nuôi mới có hi vọng chứ chưa có cho thăm nuôi, mày phải luôn nghĩ mình có thể ra đi bất kỳ lúc nào.”

Nhiệt tình của Nghiệp làm anh cảm động, ngày xưa thực ra anh không thân với Nghiệp nhưng anh hiểu ra một điều là cùng hoàn cảnh thì tình cảm ai cũng muốn chia xẻ nhất là người quen biết mình, và đặc biệt cả một đám người ngày xưa không từng đứng chung một chiến hào hay sao?

Đêm xuống chầm chậm trên sân trại giam. Vạt nắng cuối biến mất cùng tiếng kẻng báo vào buồng để Ba răng Vàng kiểm tra lần chót trước khi khóa cửa. Nhà hai mươi ba cuối cùng nên mọi người được ân huệ thêm gần mười phút bên ngoài. Nhìn bóng tối bảng lảng Hảo nhớ đến những chiều thu ngoài quê hương anh. Đâu đấy như phảng phất mùi rơm rạ và bùn non. Có tiếng gọi ơi ới trong nhà. Mọi người đổ xô vào. Ông Vân bị xỉu không biết lý do. Ba răng vàng vừa xuống bậc thang cuối của khu huấn nghiệp nghe tin vội chạy ngược lên tìm tổ y tế.

Mọi người bôi dầu giật tóc ông Vân nhưng ông vẫn không tỉnh. Khuôn mặt trắng bệch như người chết khiến ai cũng lo lắng. Tổ trưởng của ông đòi chạy lên tìm Ba răng vàng thì ông ta cùng bác sĩ của trại vừa bước chân vào nhà hai mươi ba. Đây là lần đầu tiên Hảo mới gặp mặt bác sĩ Hưng. Theo những người sống lâu năm ở trại Thủ Đức thì ông ta là Tôn thất Hưng, cựu bác sĩ dân y viện Huế. Tuy là người Huế nhưng Hảo lại nghe ông ta nói giọng Nam và còn rất trẻ.

Tuổi trẻ nhưng tài cao, bác sĩ Hưng là thần tượng của những người tù trại Thủ Đức. Không những Tây y, Đông y ông ta cũng khá sành sỏi. “Bác sĩ Hưng châm cứu theo kiểu Cách sơn đả ngưu các ông ạ. Chính mắt tôi thấy ông ta không chút đắn đo ước lượng, ngay tức khắc châm kim xuyên qua quần áo. Chỉ trong vài phút bệnh nhân nhanh chóng hồi phục nhất là những người bị trúng gió.” Một thiếu tá cảnh sát kể lại như vậy và nhiều người thêm mắm thêm muối vào làm cho vị bác sĩ nhỏ con trẻ tuổi kia chìm trong làn sương mù huyền thoại. Bác sĩ Hưng được đám tù cải tạo đề cao như để so sánh với đám bác sĩ xuất thân từ y tá của cộng sản. Thứ bác sĩ lang băm mà đám tù miền Nam hay nói với nhau, nhỏ mà không học lớn làm bác sĩ!

Bác sĩ Hưng người nhỏ thó, đi với Ba răng vàng xa xa trông như đứa bé. Phía sau bác sĩ còn có hai anh tù dáng chừng phục dịch. Một anh đeo vai chiếc hộp gỗ và anh kia mang cái túi xách. Hảo đoán có lẽ là dụng cụ y khoa. Móc trong túi chiếc ống nghe mạch, bác sĩ Hưng lắng nghe tim ông Vân rồi nắm tay bắt mạch như thầy thuốc bắc. Buông tay ông Vân, bác sĩ Hưng thở dài không nói gì. Anh tổ trưởng lo lắng hỏi:

“Bệnh tình anh ấy ra sao bác sĩ?”

Hưng không trả lời khuôn mặt trầm trọng ra dấu cho anh phục dịch mở chiếc hộp gỗ. Bên trong còn chiếc hộp thứ hai chứa đầy kim châm cứu. Vị bác sĩ thận trọng nhặt hai cây kim to nhất và nhanh như cắt cắm lên trên ngực ông Vân. Đúng như lời đồn đãi anh ta châm xuyên qua áo. Lấy hai cây kim nhỏ khác, Hưng cắm trên đỉnh đầu của bệnh nhân xong rồi dùng tay xe xe chiếc kim nơi ngực. Ai nấy cũng đều nín thở. Ba răng vàng ra dấu mọi người nên tản ra cho thoáng khí. Dưới ánh đèn điện vàng khuôn mặt ông Vân dường như bớt phần bệch bạc. Mấy giây sau ông ú ớ. Mọi người thở phào. Bác sĩ Hưng nói với bệnh nhân nằm im để ông ta châm thêm vài cây kim nữa. Năm phút sau ông Vân nói chuyện bình thường. Bác sĩ Hưng ngồi uống nước trà và Ba răng vàng cho phép ông ta nán lại để nhổ kim và tổ y tế được về sau.

Bác sĩ Hưng nói chuyện vui vẻ. Ông ta tốt nghiệp y khoa Paris, về nước phục vụ tại Dân y viện Huế được năm năm rồi bị bắt trên đèo Hải vân khi đi di tản. Ông lật chiếc nắp hộp dụng cụ y khoa cho mọi người thấy tấm giấy vàng ố chứng nhận Pierre Hưng Tôn là bác sĩ y khoa nội trú trong một bệnh viện Paris. Tuy nhiên cái điều mà mọi người phục ông ta là tài cứu sống những người tù chính trị và hình sự trong cơn thập tử nhất sinh. Có người kể ông đã dùng mọi phương tiện có được để nối những mạch máu bị đứt do tai nạn trên rừng hay phẫu thuật tại chổ để cắt bỏ kịp thời những bộ phận bị nhiễm trùng đe doạ đến tính mạng. Mọi người kính nể, tôn trọng và dành cho bác sĩ Hưng những món ngon vật lạ mà gia đình tiếp tế cho vì bác sĩ Hưng không được ai thăm nuôi cả. Gia đình ông đã di tản sang Pháp từ tháng ba năm bảy lăm, và đến hôm nay chưa liên lạc lại được dù ông ta đã nhắn và viết thư qua thân nhân của các người bạn tù Thủ Đức.

Ba ngày sau bác sĩ Hưng lại có dịp ghé thăm nhà hai mươi ba để xem mạch cho ông Vân. Tiện việc ông ta lại chỗ nằm của trung tá Duyệt kiểm tra tình trạng bệnh lao của ông ta. Ông Duyệt nằm suốt ngày chẳng buồn nói chuyện với ai ngay cả Ba răng vàng hay cán bộ trực trại. Bác sĩ Hưng sau khi đặt ống nghe lên bộ xương sườn rê một vòng rồi nhắm mắt không nói gì cả. Lúc bước ra ngoài sân ông nói nhỏ với Hảo, tối đa sáu tháng nữa ông ta sẽ được đoàn tụ gia đình. Hảo hiểu ý không hỏi thêm.

Ra sân Hưng nói chuyện rôm rả vì một số người bu quanh hỏi chuyện. Một anh rót cho Hưng tách trà đậm và một thỏi kẹo đậu phọng. Hưng không e ngại trả lời những câu hỏi về sức khoẻ của các bạn tù. Hảo lắng tai nghe những luận điểm về y lý đông phương rất thú vị của anh ta. Khi Tuấn hỏi về huyệt nhâm thần, Hưng mở sách chỉ những bắp thịt cạnh ngón tay cái và nói:

“Nhâm thần là một khám phá mới của y học Âu châu. Tôi nói Âu châu có nghĩa ngành y khoa Mỹ chưa công nhận huyệt đạo theo y lý đông phương. Họ nói rằng chưa có chứng minh khoa học nào cho thấy sự tồn tại của huyệt đạo trên cơ thể con người dù y học cổ truyền Trung hoa dùng phép châm cứu gây tê trên thân thể trong các cuộc giải phẫu toàn diện hơn hai mươi năm nay. Một mặt nào đó y giới Âu châu cởi mở hơn thừa nhận huyệt đạo như là những điểm quan trọng của các đầu thần kinh mang đến cảm giác cho con người. Trong khi đó Nhâm thần là một huyệt đạo di chuyển trong suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ trên cơ thể con người mà mỗi ngày lại ở mỗi vị trí khác nhau, càng làm cho y học tây âu khó có thể chấp nhận được việc huyệt Nhâm thần làm thay đổi bản chất của các huyệt đạo khác. Thí dụ như huyệt Hợp cốc là huyệt bổ nhưng có thể biến thành tả, và thậm chí trở nên tử huyệt khi Nhâm thần chạy bên dưới hai bắp cơ này.”

Bác sĩ Hưng vừa nói vừa chỉ cho mọi người vị trí Nhâm thần khi chạy đến Hợp cốc. Hảo cố gắng hình dung nhưng anh không thấy gì ngoài những bắp cơ chằng chịt trên mu bàn tay của hình vẽ. Tuy nhiên, không ai không cảm thấy sự uyên bác của Tôn thất Hưng, và phần nào củng cố niềm tin tưởng vào người bác sĩ trẻ tuổi này trong những ngày tháng vô định nơi trại cải tạo mà bệnh tật lúc nào cũng có thể đe dọa đến tính mạng mỗi người. Không có thuốc mà có thầy vẫn tốt hơn là không có gì cả. Vài người bạn nói với nhau về bác sĩ Hưng. Họ an ủi chứ hơn một năm ở Long Thành, gần hai mươi bác sĩ nổi tiếng và là giám đốc các bệnh viện lớn của miền Nam có làm gì được đâu khi mà thuốc không có, để chữa căn bệnh tầm thường của những thập niên cuối thế kỷ hai mươi này là bệnh kiết lỵ. Thế mà đã làm hơn trăm người suýt chết nếu không có chiếc xe thuốc cống hiến kịp thời của dược sĩ La Thành Nghệ.

Ba hôm sau có lẽ do bác sĩ Hưng đề nghị mà ông Duyệt được chuyển lên bệnh xá. Mọi người ai cũng mừng cho ông vì lên bệnh xá có thể cơ may chuyển ra bệnh viện thành phố nếu bệnh nguy kịch.

Những ngày cận tết không khí trại giam Thủ Đức có phần sôi động hơn vì lệnh viết thư và cho thăm nuôi. Cuối tuần đi xem văn nghệ Hảo gặp Nghiệp. Anh hỏi thăm bạn về thời gian và thủ tục thăm nuôi. Nghiệp bảo:

“Mày được viết thư về nhà để thân nhân lên thăm vào dịp tết có nghĩa mày có quyền yên chí ăn tết tại trại này và ít ra không chuyển trại trong vòng một tháng. Tao có nghe tin đồn đến tháng hai mới có đợt chuyển trại mới. Còn thăm nuôi chỉ có hai mươi phút thôi. Chỉ có chức sắc trong tù cở thiếu tá Bá làm trật tự thì hai tiếng đồng hồ, lâu lâu được đặc ân ngủ với vợ luôn đêm.”

Hảo có nghe qua đường lối thăm nuôi tù của chế độ xã hội chủ nghĩa do cán bộ và bộ đội kể lúc còn ở trại Long Thành. Tù là tận cùng. Muốn ngoi lên phải lập công và cống hiến công sức của mình. Không đạt yêu cầu thì yên tâm cải tạo theo án lệnh, đặc biệt thứ án lệnh tập trung cải tạo ba năm, và có thể gia hạn nhiều lần đối với thành phần bị cho là nguy hiểm đối với xã hội.

Nghe Nghiệp nói Hảo yên tâm dù gì thì anh cũng muốn gặp gia đình một lần trước khi chuyển sang một trại khác để lao động. Anh dặn dò kỹ lưỡng chị anh mang cho anh một số quần áo dày, mền chống rét và thuốc men bởi anh luôn nghĩ mình sẽ bị chuyển ra Bắc. Các bạn anh đã lần lượt ra đi và ai đi những chuyến sau cùng có thêm kinh nghiệm để đối phó với những biến chuyển chung quanh.

Buổi đọc báo sáng tẻ nhạt chấm dứt. Hảo mượn tờ báo đọc tin tức vụn vặt đỡ buồn trong khi chờ nước trà và cơm trưa do tổ trực mang về. Anh chú ý một tin nhỏ đặc biệt trên tờ Nhân Dân. Đưa cái tin " Một thương gia Mỹ từ Hồng Kông ghé Hà Nội bàn chuyện mua bán." cho ông Chương, một người bạn vong niên cùng sở quen thân từ trại Long Thành. Ông Chương gật gù nói nhỏ, không bình thường!

Không bình thường thật đối với thói quen phân tích và tổng hợp tin trước kia của ngành tình báo. Ai cũng cho là có biến chuyển vì không khí thù nghịch của hơn một năm giải phóng miền Nam chưa có chút nào là dễ chịu với những khẩu hiệu sắt máu và nguyền rủa của người cộng sản đối với một cuộc chiến tranh họ phải tốn quá nhiều xương máu và thời gian dù chính thời gian đã ủng hộ và giúp họ thắng lợi. Hằng ngày trên báo chí và đài phát thanh mỗi khi nhắc đến đế quốc Mỹ như nhắc đến một kẻ thù truyền kiếp, và dễ gì một thương gia Mỹ có thể quá cảnh chứ nói gì đến việc làm ăn buôn bán!

Với đám nhân viên tình báo chiến lược hầu hết ai cũng cho là có chuyện đi đêm giữa Mỹ và Hà Nội trên căn bản còn quá nhiều chuyện dây dưa trong thời kỳ chiến tranh chưa bên nào giải quyết cả. Khi bức màn tre buông xuống, tất cả đều bị cô lập. Qua tin tức từ thân nhân của Nghiệp thì bên ngoài xã hội nhận được tin tức thế giới qua hai làn sóng phát thanh của đài BBC và VOA nhưng bị nhiễu phá liên tục. Người dân miền Nam đa phần tìm cách lén lút nghe để có thể hiểu thêm được Việt Nam đang đi về đâu, bởi chính họ nào thực sự tin vào người cộng sản cũng như những việc mà họ đang làm.

Giải phóng xong miền Nam người cộng sản nói rất nhiều về tương lai đất nước. Họ nói thành thật đến độ người dân miền Nam quên tất cả quá khứ, trong đó có hận thù, tài sản và những mất mát mà họ từng đóng góp vào cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để cùng nhìn về một hướng đi dân tộc do người cộng sản vẽ ra. Tuy miền Bắc nghèo khó hơn, nhưng họ sẽ từng bước nâng đời sống người dân miền Bắc lên để hai miền giàu có như nhau, và biến Việt Nam thành một con rồng châu Á như ước mơ của mọi người.

Một năm trôi qua, miền Nam thay vì chờ đợi nền kinh tế miền Bắc chấp cánh, người cộng sản từng bước vơ vét tài sản và cào bằng sự thịnh vượng mà họ gọi là phồn vinh giả tạo để kéo miền Nam xuống cùng nghèo khó như miền Bắc qua các biện pháp kinh tế tài chính rút tỉa từ hơn bảy mươi năm cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga cùng cách mạng kỹ nghệ và văn hoá kiểu Mao ít. Lòng ái quốc là thứ tài sản vô giá và vô tận mà người cộng sản khai thác bằng thích, và người dân dần hiểu ra được rằng lòng yêu nước của họ là sự cống hiến không biết mệt mỏi cho một thiên đường chỉ có trong mơ ước chứ thực tế hoàn toàn ngược lại. Hợp tác hoá nông nghiệp vẫn là phương thức cũ kỹ không có lối thoát đem vào áp dụng cho nền nông nghiệp miền Nam lúc bấy giờ đã bắt đầu cơ khí hóa như các nước tiên tiến châu Á khác. Định nghĩa "Cộng sản là sô viết và điện khí hóa" được người cộng sản xem như là hòn đá tảng của chủ nghĩa xã hội. Người dân miền Nam bắt đầu làm ăn tập thể và hiểu thêm ra là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bao hàm luôn cả cách mạng kỹ nghệ mà trước mắt là điện khí hóa.

Chữ nghĩa của người cộng sản xem ra lạ lẫm với người dân miền Nam. Điện khí hoá là cái quái quỉ gì? Hảo nhớ đến bạn bè anh hỏi những người cán binh cộng sản trong những ngày đầu tiên bước chân vào thành phố Sàigòn. Nghe giải thích, ai cũng nghi ngờ vì những thứ mà người cộng sản mong ước thực hiện thì miền Nam đã có từ lâu. Điện miền Nam đã kéo về nông thôn từ những năm bảy mươi còn vựa lúa miền Nam hầu hết được canh tác bằng cơ khí. Máy cày đã thay con trâu trên những cánh đồng cò bay thẳng cánh, và phân bón hoá học cũng cải thiện hầu hết quá trình sản xuất nông nghiệp. Giải phóng miền Nam là như thế nào? Không phải như thế. Một cán bộ chính trị trả lời:

“Giải phóng miền Nam là một đòi hỏi lịch sử chứ không có nghĩa một cuộc cách mạng kinh tế hoặc kỹ nghệ đơn thuần. Thống nhất đất nước là một khát vọng của mọi người và đoàn kết toàn dân là ý nghĩa lớn lao của việc giải phóng. Đất nước chia cắt và chiến tranh đã tạo ra những dị biệt giữa hai miền và những dị biệt này chỉ có thể san bằng qua việc giải phóng và thống nhất đất nước. Đất nước giàu mạnh hay không là việc làm của chúng ta từ bây giờ.”

Trả lời như thế tạm có ý nghĩa vì ý niệm dân tộc thiêng liêng xiết bao, và không ai không biết rằng đất nước này trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau với biết bao xương máu cha ông đã đổ xuống để dòng lịch sử dân tộc lúc nào cũng chói ngời niềm tự hào.

Thế nhưng Việt Nam sẽ đi về đâu với những phương thức sản xuất cũ kỹ lỗi thời dù nhiệt tình dựng xây đất nước đang là cao trào. Lòng yêu nước rồi cũng nguội lạnh dần vì những thất bại cơ bản do chủ nghĩa xã hội mang lại. Vùng kinh tế mới chỉ là những ốc đảo để đày đoạ hơn là miền đất hứa trù phú như cán bộ cộng sản kêu gọi. Theo thân nhân tù cải tạo cho biết vùng kinh tế mới chỉ là nơi người ta xung phong đến vì không còn chọn lựa nào khác. Tiếng nói của người cộng sản không còn trọng lượng như những ngày đầu mới giải phóng, và người miền Nam hiểu chính mình hơn khi tiếp xúc với người dân miền Bắc sau hơn hai mươi năm sống dưới chế độ cộng sản ưu việt.

Thói quen lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện của người cộng sản lần nữa lại đem ra xử dụng dù đối với người dân miền Nam đã quá rõ từ những năm chiến tranh. Ngày trước người ta cho là như thế và không tin trong tự do suy nghĩ của mình vì có gì phi nhân hơn vì một mục tiêu xa vời nào đó mà phải chịu hi sinh triền miên. Quê hương chủ nghĩa xã hội tháng Mười kéo dài gần bảy thập niên mà có thấy gì ngoài khẩu hiệu và lao động cật lực. Lợi tức đầu người không hơn gì những đất nước chậm phát triển. Người cộng sản với vũ khí chuyên chính vô sản bảo rằng phải hi sinh cho một thiên đàng làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu trong khi nhà nước tiêu vong thì không ai dám cho rằng không có thật và biểu lộ không đồng tình. Hình phạt của xã hội chủ nghĩa thiên hình vạn trạng, từ nhẹ cho đến nặng với biết bao hình thức chế tài nhưng con đường đi đến trại cải tạo thực quá dễ dàng đối với những con người thích sống tự do dân chủ hay lắm thắc mắc. Trại giam Thủ Đức lán mười hai là nơi giam giữ những kẻ lắm mồm lắm miệng ngoài xã hội. Lời nói của họ xét ra nguy hại cho chế độ nên cũng được hưởng chế độ tập trung cải tạo không án. Nếu có ai hỏi bao giờ mới được tha thì sẽ được cán bộ trả lời rằng, bao giờ họ cải tạo tốt mới trở về đoàn tụ gia đình và không giải thích cụ thể cải tạo tốt là gì?

Hai mươi ba tháng Chạp Hảo đựơc gọi ra cổng gặp gia đình. Chị anh lên thăm mang theo tin đứa em trai đã đi vượt biên nhưng chưa biết kết quả thế nào. Anh được cho biết gia đình trải qua hai lần đánh tư sản nhưng cha anh may mắn không bị tù tội gì ngoài việc cống hiến toàn bộ tài sản cho cách mạng và hồi hương về Nha Trang. Chị anh nhẹ nhàng bảo anh cứ yên chí an tâm cải tạo, bên ngoài ai cũng thông suốt đường lối chính sách của nhà nước và đã hội nhập vào xã hội mới. Ai cũng có công ăn việc làm và không phải lo đói khổ gì cả. Cho anh năm mươi đồng chị anh từ giã sau hai mươi phút nói chuyện dưới sư giám sát của hai công an ngồi hai đầu bàn. Hảo khệ nệ mang hai bao lớn đồ thăm nuôi vào nhà kiểm tra trước khi mang về buồng. Anh được thêm hai cái mền và bộ quần áo dày chống rét dự phòng đi Bắc.

Không khí Tết trại giam Thủ Đức buồn hơn khi mọi người nghe tiếng pháo giao thừa, và tiếng trẻ con bi bô ngoài vòng rào sau nhà. Có kẻng báo ngủ nhưng mọi người được phép thức đón giao thừa. Mọi người quây quần từng nhóm uống trà ăn mứt. Ai cũng được thăm nuôi nên rủng rỉnh quà bánh. Chỉ thiếu rượu. Hảo đọc báo uống trà ăn miếng mứt bí rim đường tán rồi nói chuyện với anh Tấn trong khi tiếng chủ tịch nhà nước Tôn Đức Thắng chúc tết nhân dân cả nước từ hai chiếc loa mắc trên tàng cây bã đậu. Thế là cái tết thứ hai đã đến và án ba năm tập trung cải tạo thực sự có giá trị pháp lý nào đó, hay chỉ là công cụ để người cộng sản có lý do tăng án thêm ba năm như các cán bộ thường nói? Hảo tự hỏi và chỉ thấy một tương lai mù mịt phía trước. Anh Tấn lắc đầu nhắc Hảo đừng bận tâm vô ích về những cái ở ngoài tầm tay mình. Mình là tù chính trị mà. Có giải quyết cũng giải quyết theo tình hình chính trị chứ pháp lý không có gì đáng nói.

Tiếng nói chuyện râm ran ngoài sân khiến ai cũng nhìn ra ngoài. Những trật tự viên lăng xăng đằng sau Ba răng vàng. Mở cửa kêu mọi ngưởi ngồi dậy, anh ta nói:

“Tết đến chúc các anh một năm mới tiến bộ và sớm đoàn tụ gia đình.”

Tiếng vỗ tay lác đác và anh Khải người lớn tuổi nhất đứng lên chúc Ba răng vàng năm mới phát tài và nhiều may mắn. Hai anh trật tự mang cho nhà hai mươi mốt một gói trà, một gói thuốc lào, và hai bao thuốc lá Điện Biên. Mỗi người đốt một điếu thuốc và được thông báo ngày mai lúc chín giờ sáng lên hội trường nghe giám thị chúc tết sau đó lãnh thức ăn. Nhà bếp hạ ba con heo lớn và một con bò làm ba bữa ăn thịnh soạn với cái thực đơn rườm rà như của nhà hàng.

Ba ngày tết trôi qua lặng lẽ với nỗi nhớ nhà của đám tù cải tạo. Cái tết thứ hai củng cố thêm niềm tin cho đám người chế độ cũ rằng mỗi ngày họ càng xa gia dình hơn, và càng gần cái địa ngục có thật của cộng sản. Họ thấm thía hơn thân phận mình để không phải ảo tưởng về một giải pháp chính trị viễn mơ nào đó. Hảo nói chuyện với Uy những ngày Sàigòn hấp hối. Hai người nhắc nhở với nhau những người bạn còn mất sau ngày ba mươi tháng Tư. Bửu Uy chửi xéo đám cách mạng tháng Tư với cái băng đỏ trên tay chạy ngược xuôi trên đường phố Sài gòn như những con rối. Nhắc đến người cha tập kết trở về, anh chỉ cho Hảo xem bài viết về thông tin tuyên truyền và vai trò truyền thanh cách mạng của cha anh đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng:

“Ông cụ tao đấy, bây giờ là giám đốc đài phát thanh Sàigòn. Tuy tao không biết mặt mũi ông ra sao nhưng cái tên nặng mùi tiểu tư sản: Nguyễn Ưng Trí. Mày phải biết Ưng Trí thúc đại thị là em của Ưng Bình thúc dạ thị, và anh của Ưng An thúc dật thị. Trong ba người, tên của ông cụ tao cao ngạo hơn cả. Trí đại cho nên theo cách mạng làm đại sự một mạch hơn hai mươi năm. Ngày trở về rất tiếc tao phải ngồi tù nên không thể phỏng vấn về sự nghiệp giải phóng của ông ta, và chắc chắn rằng mẹ tao luôn mong ông trở về nhưng không phải trở về để điền vào chổ khuyết của thằng con.”

Bửu Uy nói một hơi xong rồi im lặng không nói gì thêm, có lẽ anh ta cũng hình dung ra được cái khoảng cách khá xa giữa những người thân thuộc nhưng khác chiến tuyến, và điều ngỡ ngàng hơn nữa là những người vợ mà cả hai phe đều gọi là bà mẹ Việt Nam tần tảo nuôi con chờ chồng trở về sau ngày thống nhất đất nước thì ông nào cũng đèo thêm một bà vợ Bắc và một đàn con. Ông cụ của Uy cũng không ngoại lệ. Theo Uy kể một số người ban đầu dấu diếm hoặc lấp liếm đi, nhưng cuối cùng cũng phải công khai lý luận kiểu cách mạng:

“Đảng biết các anh em miền Nam tập kết hết sức cô đơn vì xa gia đình nên cho cưới vợ lần nhì để có người an ủi và chia xẻ trong khi chờ đợi giải phóng. Sự nghiệp cách mạng không phải một sớm một chiều hoàn thành được thế nên có người đàn bà bên cạnh là sự tiên liệu của cách mạng. Bây giờ đất nước thống nhất sau hai mươi mốt năm xa cách thì chiến thắng vĩ đại kia châm chước cho việc lấy thêm người vợ trong quá trình đi làm cách mạng.”

Không biết điểm này có ảnh hưởng gì đến đạo đức cách mạng hay không mà không thấy ai nhắc đến, và mỗi gia đình phải tự giải quyết lấy. Đa số hình như chấp nhận nguyên trạng nghĩa là vợ chánh vẫn là vợ chánh và bà vợ miền Bắc dù không chánh nhưng là bà vợ cách mạng, và ông cán bộ đi đi về về theo sự chỉ đạo của cấp trên vì không thể phủ nhận được cái vĩ đại của của bà vợ miền Nam chịu đựng hơn hai mươi năm chờ chồng trở về, cũng như công lao chăm sóc tảo tần của bà vợ miền Bắc và đám con sau do bà đẻ ra. Tuy nhiên đó là mặt lý luận chứ thực tế thì đau lòng hơn nhiều theo kiểu Bửu Uy.

Người mẹ Việt Nam miền Nam ngậm bồ hòn làm ngọt vì quả nhiên công cuộc giải phóng vĩ đại thật, và người chồng ngày hôm nay hiên ngang trở về là anh hùng chiến thắng chứ phải trốn chui trốn nhủi như trong thời kỳ chiến tranh đâu! Do đó thay vì niềm vui, một số bà mẹ đã thở dài chép miệng nói:

“Biết trước thế này tôi đã cho các cháu nó di tản sang Mỹ cho rồi. Cha tụi nó về thì tụi nó phải vào trại cải tạo.”

Trường hợp này khá phổ biến và có khi cả hai cha con đều làm lớn ở mỗi phe. Miền Nam thất bại, một bên vào trại cải tạo và bên chiến thắng tìm đủ mọi cách để giải thích cho gia đình rõ muốn bảo lãnh người thân ra khỏi trại cải tạo không phải dễ dàng vì ai làm nấy chịu. Tội lỗi của con cháu phải qua quá trình cân đo đong đếm trước khi cách mạng phán quyết rằng, tên ngụy quân ngụy quyền ấy đáng được trở về hay tạm ở vài cái án ba năm tập trung cải tạo để tư tưởng đế quốc và nợ máu phải được rửa sạch đi đã. Cuối cùng thì ngụy vẫn hoàn ngụy, nói theo kiểu ông Đường năm ngoái cầm tờ bảo lãnh của ông Châu tổ trưởng tổ bốn mươi bảy nhà giữa chờ đợi tên mình được gọi trở về trong dịp ân xá đại trà gần tám trăm người dịp tết năm ngoái.

Ông Đường đã lắc đầu nói với Hảo ngay buổi trưa hôm ấy:

“Giao liên thế nào mà bảo lãnh được cán bộ tình báo chiến lược ngụy. Ông Châu khéo lạc quan tếu. Ít ra cũng phải cấp đại tá như bác thằng Cương. Gánh thằng Cương về nghe đâu ông ta cũng vác đi phân nửa gia tài của nó. Còn ông Châu nhà không còn cái xe đạp để đi thì củi lửa đâu mà tiếp sức cho mau trở về đoàn tụ gia đình như ông ta mong.”

Tin tức thăm nuôi đã tổng hợp ngoệch ngoạc nét đặc thù của bức tranh hỗn tạp tương quan cách mạng-ngụy trong gần hai năm giải phóng miền Nam.

Lê Lạc Giao
(trích truyện dài Tổ Quốc Trăm Năm, Lê Lạc Giao, sắp xuất bản)

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2025