SỐ 108 - THÁNG 10 NĂM 2025

 

Trịnh Y Thư, cuộc chiến giữa ký ức và sự lãng quên

Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ.

Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức.

Ở đây tôi chỉ lạm bàn ý nghĩa văn chương của cụm từ này theo cảm nhận của tôi khi đọc thơ Trịnh Y Thư, mà không theo ý nghĩa giáo khoa từ điển.

Nhìn từ nội dung tập thơ, “Phế tích” khơi gợi hình ảnh đầy xô lệch của quá khứ, những chấn thương của tâm hồn. Và “Ảo ảnh” là cách gọi về những điều giống như thật, hầu xoa dịu, với khát vọng vừa phủ nhận vừa lưu giữ. Và ai ngoài Thơ, lưu giữ, giải mã những nghịch lý ấy? 

Sự nghịch lý trong nhan đề lại là một gợi mở cho tôi khám phá. Trong bài viết “Tại sao chúng ta làm thơ?”, Trịnh Y Thư từng bộc lộ sự đồng ý của ông với câu nói của nữ sĩ Emily Dickinson “Hãy nói lên Sự Thật nhưng hãy nói một cách nghiêng lệch.” Như thế hẳn tôi được hiểu ông dùng “Ảo ảnh” để chỉ danh Sự Thật?

Con đường đi theo hoài niệm của nhà thơ, quả thật trần ai. Nếu tôi chạm được vào đường biên mỏng manh nào trong Phế tích của ảo ảnh của Trịnh Y Thư, thì hẳn tôi đã Nghe được tiếng rền của tâm hồn tan vỡ, tiếng thầm của ký ức được phủ lên cái áo bóng tối, thì hẳn tôi đã Thấy cái thật của ảo, thì hẳn tôi đã tường tận sự đào xới gốc rễ của lãng quên. Từ những ngõ quanh của dấu hỏi, tôi nghĩ mình phải nhìn ra được nỗi thao thức của tác giả khi đã dùng nhan đề như vậy cho tập thơ của mình. Dường như không nghi ngờ khi Trịnh Y Thư để câu của thi sĩ Charles Baudelaire “Hoài niệm chỉ là hình thức khổ đau mới…” ở đầu tập thơ, như một khẳng định cho hoài niệm mình.

Chỉ còn mớ ký ức thảm thương
     làm hành trang cho những
     chuyến hành hương tuyệt vọng.

Chuyến hành hương dù ngắn hay dài theo muôn dặm đời người, chặng cuối là điểm khởi đầu? Ý tưởng này khiến tập thơ Phế tích của ảo ảnh mang nhiều màu sắc triết lý, vừa vô vi của Lão Tử vừa vô thường của Phật Giáo. Và là sức hút ở một người làm thơ đương đại như Trịnh Y Thư, ông dung hòa cả hai phong cách tưởng như trái ngược nhau: Tinh hoa của cuồng nộ và kiệt xuất của trầm tư cùng bộc lộ làm thơ Trịnh Y Thư xô vỡ những câu hỏi trực diện, và lặng lẽ tỉnh thức với những trả lời. Tôi thích phong cách này.

CÔ ĐƠN, MỘT PHẾ TÍCH LỪNG LỮNG TRONG CUỘC LỮ (Cho dù cô đơn cũng sẽ được hiểu là ảo ảnh)

Đó là cuộc lữ hành đối diện với quá khứ, lởm chởm phế tích: rêu phong tiếng thở dài của nghìn năm, dòng sông cạn trơ phế tích bóng tối, ban mai và huyền sử, tất cả trộn lẫn trong cuộc phát vãng Lãng Quên.

Rêu phong mái ngói ngày tôi trở lại
     đốm chiều lập lòe ánh mắt
     sâu ký ức mù đồng cỏ nương ngô
     âm vang châu thổ
     nghe như tiếng thở dài từ nghìn năm
     bồi hồi dòng sông cạn.

Sau những bước dài cuộc viễn du
     chặng cuối là điểm khởi đầu
     nhức nhối những bào ảnh
     bóng tối thê lương
     ban mai hừng rỡ như mang dấu ấn tội đồ
     phát vãng từ thần kỳ huyền sử.
(Phế tích của ảo ảnh/ 1)

Cái khốc liệt trong cuộc mất mình của Trịnh Y Thư là luôn bị dội lại âm vang của cuộc chiến trên quê hương mình, một cuộc chiến mà mỗi tên gọi là một vết sẹo tang thương của bao phận người Việt Nam. Có một cái nhìn vừa khôi hài vừa chua chát trong tang lễ người lính sau chiến tranh, tâm trạng bi hài ấy là phản ứng sau bao lần bị sự thật và lý tưởng chà đạp:

… Người lính già hôm nay đã chết mặt trận yên tĩnh nhưng linh hồn anh không yên tĩnh tôi nhìn anh lần cuối trong quan tài bộ quân phục thẳng thớm như thể người ta vẫn ra lệnh cho anh tiếp tục chiến đấu dưới đáy ngục sâu… (Phế tích của ảo ảnh/ 7)

Trong trận địa ấy, Trịnh Y Thư đã xoay sở gần như trăm phương nghìn kế – … dầm mình trong hồn nhiên, say sưa thư trang cồn tịch, đánh mất cả ảo ảnh, đuổi bắt trên một trận đồ khốc liệt, bỏ chạy, có gục ngã – giữa vây hãm muôn hình trạng của phế tích, mà chỉ một cái quay đầu hay ngồi phệt dưới thềm nhàtrần gian hóa thạch, như thể không viện lý do để dừng lại. Phải tiếp tục thôi cho dẫu trong hỗn độn phế tích tua tủa gai, thứ quái thai ký ức mọc lên từ súng đạn không ngớt vang tiếng nổ. Một thứ lịch sử như vết hằn dấu đinh trên thân thể tận thế của loài người, và vì trong những tượng đài trí nhớ nó đã thuộc về vĩnh cửu, nên nó không được quên, không được phép quên. […] Người con lịch sử khuôn mặt ngươi ở đâu… bên dưới những nấm mồ oan khốc….

Tôi cũng thử dầm mình trong hồn nhiên
     bông núi bay về lả tả mái hiên nhà
     đêm thư trang say sưa cồn tịch
     hay ngất ngưởng đi giữa rừng sao.

[…]Nhưng tôi biết đấy chỉ là ảo ảnh
     một trận mưa chẳng thể xóa nhòa ký ức
     chẳng thể rũ bỏ quá khứ
     như ném vào bãi phế thải
     một món đồ hư hỏng dư thừa.

[…]
Khi dòng sông cất tiếng hát tôi bỏ chạy
     bên tai tôi trận bão lá tràn về
     đuổi bắt trên một trận đồ khốc liệt
     như thứ ngôn ngữ chiến tranh
     đóng đinh vào tận thế.
(Phế tích của ảo ảnh/ 1)

[…]
Chân trần vượt qua bãi mộ
có lúc bước chân tôi ngã gục
với gai nhọn và cạm bẫy đợi chờ.
(Ẩm ướt)

[…]
cửa mở nhưng tôi chỉ biết ngồi phệt
dưới thềm nhà
uông uông cơn ảo vọng
một trần gian hóa thạch.
(Phế tích của ảo ảnh/ 6)

Trịnh Y Thư đã mượn ảnh ảo hay ảo ảnh để đánh lừa cái phế tích mồn một kia, dưới ánh nhìn của một người, luôn hình như, đứng giữa đời sống và mộng tưởng, chiêm nghiệm sự tan biến cùng nhặt nhạnh vết tích của những điều đã xảy ra, dù ông khẳng định, một quá khứ không thể rũ bỏ, một ký ức không thể xóa? Như bình minh và hoàng hôn, không còn là khái niệm thời gian nữa mà là cường độ đo nhớ quên cái không-thời-gian, dư chấn của bao lần thất lạc. […] như một kẻ hành hương lạ thất lạc/ trong ngôi đền không có nổi một lư hương…

Thậm chí tôi đánh mất cả ảo ảnh
     như buổi chiều hôm hôn ám này
     không nhớ bình minh
     làm sao tôi hiểu được hoàng hôn
     dù lịch sử trở về từ vĩnh cửu.
(Phế tích của ảo ảnh/ 1)

Tôi cũng mong một lần cho tất cả, Phía bên kia bờ vực/ một đàn chim nhạn bay… đường bay nhẹ nhàng không lưu dấu, Chỉ còn sự cô độc/ ôi tôi yêu nó xiết bao…

Và nhân vật Tôi trong tập thơ này, tự thân đã là một Phế tích của Ảo ảnh. Liên tưởng từ sự hoang liêu của nó, tôi thấy, tôi nghe, tôi hiểu, mùi hương vi huyễn của Kim Cang Kinh, tất cả pháp hữu vi/ như mộng huyễn bọt bóng…

TỘI ĐỒ TRONG TRẬN CHIẾN KÝ ỨC VÀ LÃNG QUÊN, VÀ NIỀM KHÁT KHAO TRÍ NHỚ

Nên không lạ gì, trên con đường khai quật phế tích là vực thẳm những mộ phần, và sừng sững vô ơn nhất: Sự Lãng Quên. Một sự Lãng Quên có tác động, có ý thức, nó đẩy đến tốc độ xóa sạch đường biên vốn quá mỏng manh của Quên-Nhớ. Rồi cái mà ta đã sống với nó như một cái kén là ký ức cũng ruỗng mục cùng với tâm hồn người cũng-gần-như-dần-thành-phế-tích. Lãng Quên và Ký Ức, hai “thực thể” đó cái nào là phế tích cái nào là ảo ảnh, thưa nhà thơ? Và nghệ thuật, văn chương luôn bị chúng dằn vặt để soi tỏ nỗi cô đơn trong hoài niệm cùng niềm khao khát trí nhớ.

Ký ức tôi đang rạn vữa
     còn lại chỉ là sự lãng quên
     dò dẫm bước đường về
     trên muôn trùng bến lạ
     canh cánh một tín điều mệt mỏi khôn kham.

[…]
Ký ức như mộ phần người chết
    hãy để nó vĩnh viễn nằm dưới đáy ngục sâu
    đào lên chỉ thấy toàn hồn ma
    và xương xẩu kinh người.
(Phế tích của ảo ảnh/ 2)

Nhà thơ đang đi hành hương, một mình, nhặt nhạnh những mảnh phế tích ký ức, ghép cho hoàn thiện bức tranh lãng quên của con người.

Bến nước, ngôi đền, tưởng là cố cựu, tay bắt mặt mừng, nhưng dưới mắt kẻ tìm về, nó đã trở nên một thứ cơ ngơi ảo hoặc thánh hóa, có níu kéo, có hụt hẫng, và mất phương hướng… cho tôi xin một hồi chuông/ để làm gì tôi chẳng biết… Để thức tỉnh? Để phiền muộn, trách cứ? Để an phận với kẻ chiến bại: Sự Thật? Khi Sự Thật chỉ là một âm vọng không hơn không kém.

… bất chợt một góc trời điêu hao thành lũy
giữa muôn trùng cảnh lạ bến nước bủa giăng.

[…]
hiện hữu những cơ ngơi ảo hoặc thánh hóa

[…]
Dù tôi biết mình không còn chỗ chạy
không cả một tòa án giả hình
thu hẹp trong vòng tròn định mệnh
trên cả những giao ước biển lận trớ trêu.

[…]
Vẫn biết sự thật là tiếng vọng thiên thu
nhưng hãy cho tôi hòa giải
bởi cuộc chiến với ký ức
là cuộc chiến với sự lãng quên.
(Phế tích của ảo ảnh/ 2)

Gượm đã, Lãng Quên là phế tích của Ký Ức. Tôi tự hỏi làm sao nhìn Lãng Quên như một ảo ảnh? Dường như có cả mối tương quan nhân quả, hay là một sự đồng dạng nữa, e rằng không có cuộc hòa giải nào dễ dàng đối với hai cuộc chiến vô hình cam go này, bởi vậy mà triệu tâm hồn tan vỡ đều tồn tại trong mình nỗi đau riêng, câm lặng. Sự thúc thủ ấy khác chi một tội đồ?

Cuộc chiến với ký ức
mới thực là cuộc chiến kinh hoàng
đốt cháy cả cuộc đời anh
vết thương mưng mủ
nhức nhối ngày đêm khôn dứt
và anh bất lực với chính sự bất lực của mình.
(Phế tích của ảo ảnh/ 7)

Trên dặm trường phế tích, ảo ảnh nào đã để lại vết thương của kỳ vọng? Trịnh Y Thư có trông cậy vào nó để phế tích nhẹ nhàng hơn là một chứng tích hiển nhiên, một thực thể vật lý, ví dụ như xã hội vô luân, con người với tâm hồn chằng chịt vết thương? Nếu ai đã từng chìm đắm đôi co với ký ức hẳn sẽ có kinh nghiệm tìm thấy cho mình câu trả lời khả dĩ đồng thuận với những trăn trở của tác giả trong tập thơ này.

Điều tôi cảm thấy và hiểu được ẩn dụ nghịch lý của tiêu đề Phế tích của ảo ảnh, như một lối tự vệ và hóa giải khắc khoải nội tại của tác giả. Và cho cả chúng ta. Để tha thứ, nhưng, tha thứ không phải là lãng quên, mà là định hướng nhân bản cho cuộc sống ngay bây giờ và tương lai. Điều ấy chỉ Thơ làm được.

những gì từng căm ghét
     những gì từng trân trọng
     bây giờ đều biến thành trò chơi
     cầu vực của yêu thương thù hận
     chẳng còn chỗ cho bất cứ
     một phán quyết nào.
(Phế tích của ảo ảnh/ 10)

[…]
Để về đây viếng lại
     ngôi cổ mộ u hiển điêu linh
     nơi người sống và người chết
     cùng nắm tay nhau ca hát.
(Bởi tôi không thể dừng lại nơi đây)

[…]
Ý thức xanh là lời mời gọi các linh hồn oan ương
nhưng không hề hối tiếc một thời đã sống
     họ về đây bảo tôi
     đã qua rồi
     tất cả đã qua rồi
     nước phù sa vẫn nhóc nhách
     chảy ngang con trổ
     luồn lách giữa những
     chân lúa đang hăm hở đơm bông.
(Phế tích của ảo ảnh/ 10)

Tôi xin một lần cho tất cả, ý thức xanh xoa dịu oan khốc kiếp người.

TÔI VỐN LÀ KẺ LẠ/ KHÁT VỌNG HOÀI THAI

Trong bài phỏng vấn của Việt Báo năm 2020, có câu hỏi đề cập đến cấu trúc đi xuyên thấu không-thời-gian để đem lại ý nghĩa sáng tỏ cho những điều cá biệt trong cuộc sống của Nhà thơ Arthur Sze với tập thơ Sight Lines…, tôi đã trả lời:

“Bút pháp hữu hiệu nhất dùng huyễn ảo phi thực để bật ra cái trơ trụi thực tế. … Như nhà thơ Athur Sze, qua lăng kính tưởng tượng ông kiến tạo những hình ảnh cảnh báo về sự hủy diệt. Từ cảm xúc rất thơ mộng về những ngọn tulip xanh đang mọc lên, Sze vẽ ra một Black Center, với tất cả hình ảnh chụp bắt tức thì, xô đẩy nhau trong lời thơ tạo nên một bức tranh siêu thực, để nói rằng mớ hỗn độn ấy đang và tiếp tục xảy nếu lúc này không chấn chỉnh lại sự phát triển lệch lạc, phi nhân, ích kỷ. Ông kết một sợi dây mơ mộng ngây thơ của ngọn tulip đang vươn lên (Black Center), hoa mận nở, mùi của ánh sáng (Spring Snow) với hiểm họa khủng bố và hủy diệt sinh thái, khiến thơ ông là một lời cáo buộc mạnh mẽ, mà không đánh mất nét diễm lệ của thơ. Đó cũng là cách mà tôi thấy các nhà thơ Việt Nam thể hiện, chỉ khác nhau ở sự liên tưởng, những hình ảnh đối chọi khắc nghiệt đến thế nào để bóc trần được những khác biệt tốt-xấu, an bình-nguy hiểm. Như trong tập thơ Phế tích của ảo ảnh của Trịnh Y Thư, tôi cũng gặp bút pháp đi qua không-thời-gian này. Đan xen hình ảnh giữa một di sản bi thương – những người chết bị lãng quên nằm chen chúc dưới đám ruộng – bên cạnh cái nên thơ của hoa lúa, quả ổi xanh và nhịp chày ba, xô lên ký ức thời điêu linh trong hoa lúa, lúa ấy mọc lên từ những thân vùi bị bỏ quên kia. Hình ảnh tương phản ấy có hiệu ứng của một lời kết tội chiến tranh ẩn dưới cái đẹp não nùng của thi ca.”

Hãy đọc lại những câu trong Phế tích của ảo ảnh:

Tôi trở về đây vòng quay của đất trời tê tái
     thăm hỏi những con người bị lãng quên
     nằm chen chúc
     dưới đám ruộng
     chiêm trũng
     lúc giao mùa phất phơ.

Họ là ai tôi tự hỏi
     những bản văn tự không ấn dấu
     xung quanh một bến nước
     có tiếng hát phù trầm
     quay quắt một đêm mưa
     hàng cau đánh sập sân từ đường
     vỡ vụn những viên gạch
     khép nép nghìn thu.

Trên nỗi đau phận người là những lời lừa phỉnh
     dù bóng tối không bao dung
     và nỗi khiếp sợ ngập tràn
     nhưng hy vọng vào ngày mai
     tia rực sáng vui đùa cùng cỏ cây
     còn sự lừa phỉnh là bóng tối đời đời
     nhốt chặt những linh hồn muôn kiếp
     không cơ may cứu chuộc.

[…]
Nằm đếm sao trời đêm đêm
     họ gửi chúng ta thông điệp gì
     gia phả không đủ chỗ
     viết những lời nhắn nhủ
     cựa mình chạm vào rễ gai
     trợn trừng hai hốc mắt
     không – họ chẳng nói gì
     bởi tất cả những điều cần nói
     đã được nói ra
     từ trước đó lâu lắm rồi.
(Phế tích của ảo ảnh/ 3)

[…]
Tôi nhìn thấy gì trong đôi mắt lá răm
     ở nơi có ánh chiều tháng Chạp
     và những quả ổi mơn mởn xanh
     rầu rầu liếp mía
     con giẻ cùi phụ họa
     lời ru mái nhà nâu hiu hắt à ơi.

Miệng lúng liếng giọng luyến láy
     những điều tôi không hiểu
     chẳng sao cô gái ạ
     tôi vốn là kẻ lạ
     khát vọng hoài thai
     trên những rui mè
     ngôi nhà huyền sử
     thất lạc trong chuyến đi tìm
     quá khứ vong thân.

Bóng ma quá khứ không làm cô sợ hãi
     miểng bom cắm trên hương thờ
     trở thành linh thiêng
     vẫn nhịp nhàng
     như điệu chày ba thuở ấy
     ngây tạnh một đêm mưa
     nước trổ đòng đòng.
(Phế tích của ảo ảnh/ 4)

Cũng trong bài viết “Tại sao chúng ta làm thơ?”, Trịnh Y Thư viết: Trong lúc sự hư ngụy, giả trá được tâng xưng lên làm chân lý, thì thơ ca vẫn lặng lẽ nói lên Sự Thật. Sự Thật của thơ ca là hy vọng cuối cùng cho con người tìm lại được sợi dây thắt buộc mình lại với nhau sau những phân liệt tranh chấp và hận thù.” Những đoạn thơ Phế tích của ảo ảnh trên là một minh chứng rõ nhất cho quan điểm này của ông. Hình dung, ông nhìn thấy gì qua chiêm trũng buổi giao mùa, trái ổi xanh, nhịp chày ba, đôi mắt lá răm? Một hiện thực đẹp rực hơi sống lại trồi lên phế tích: những xác người đã bị vùi chôn từ thời súng đạn. Hai đối cực, một bên hừng hực sinh khí, một bên là tử khí từ xương khô, không có cách nào hơn là dùng cái đẹp lương thiện nhất của màu xanh ổi, đôi mắt lá răm để xoa dịu và bao biện cho cái đau trần trụi của chiến tranh.

Bạn thử ghép lại:

Những viên gạch nhà từ đường vỡ và Nghìn Thu.
Bóng tối và những tù nhân linh hồn.
Hai hốc mắt trợn trừng và vô vọng những thông điệp.
Miểng bom cắm trên hương thờ lại âm vang nhịp chày ba.
Sự thật và tiếng vọng bị giam hãm trong thiên thu.
Khát vọng hoài thai từ quá khứ vong thân.

Đó là những cặp phế tích và ảo ảnh được Trịnh Y Thư trưng ra như hai mặt của một tấm gương, phản chiếu những truân chuyên của bao thế hệ, đeo đẳng hành trang của người khách lạ trên con đường ruột thịt quê hương. Cảm giác “kẻ lạ” ấy, là một phế tích của hàng triệu thân phận lưu vong. Và khát vọng hoài thai là một ảo ảnh đẹp chưa từng, hoài thai để được nguyên vẹn của Đêm mưa nước trổ đòng đòng? Để thời đoạn gian truân chỉ còn là ảo ảnh mây trong một buổi ngắm trăng suông…?

Chỉ có Thơ mới đảm nhận sự hoài thai ngây thơ và ý nghĩa ấy.

Nơi tôi đứng chiều nay
     những mái nhà nâu
     những chiếc cầu lung linh bóng nước
     sẽ tan biến cả và còn lại
     chỉ là phế tích của ảo ảnh – rớt rơi.
(Phế tích của ảo ảnh/ 1)

Và, tôi nhủ thầm, Nên quán tưởng như thế (Kinh Kim Cang)

MỘT THOÁNG XANH VỀ TRONG LỆ XANH

Với cái khép lại của huyền diệu ảo hóa câu kinh, tôi muốn đi vào hạn kỳ đẹp nhất của vô thường, hạn kỳ xanh trong thơ Trịnh Y Thư.

Con nước chảy hoài bờ biên tái
     một thoáng xanh về trong lệ xanh
     tan đi giữa cõi mù sương ấy
     hoa lê một nụ điểm trên cành.

Một mai trở lại với cồn sương
     dùng dằng dăm bước ngẫm đoạn trường
     phân vân nước chảy hồn nẻo ý
     một nhánh phù dung cũng đủ thương.

Đến hạn tôi về trong mây thôn
     trống chiêng không gọi đã khua dồn
     đếm đi đếm lại chừng năm tháng
     điểm tóc tro phai mặt mạc hồn.
(Phế tích của ảo ảnh/ 4)

[…]
Nghe trong cô quạnh tiếng mưa
rơi thầm vào những bến bờ mù tăm
rừng xưa lỡ hẹn trăm năm
ngoảnh trông mộ chí chỗ nằm mộng dư.
(Nghìn thu từ độ)

[…]
Chờ ngày hóa thân
cõi lạ vừa nằm xuống đã thấy biển xưa
cát trắng mái nhà nâu hàng dừa.
(Tháng ba, hãy trôi đi)

[…]
nghe tiếng tim mình thong thả
     bởi tôi biết đó là
     mộ phần tôi được tiên tri.
(Bóng tối)

Một vị lai tâm hồn đang chờ đợi sau nhịp tim thong thả ấy. Vầng trăng cổ độ được vớt lên từ đại dương trầm tích theo người về, dự phòng cho một không gian, ở đó, một nhánh phù dung cũng đủ thương?

Và nếu theo những lời mà Trịnh Y Thư nhắn nhủ: Một mai về với mây ngàn/ Chỉ xin nhớ chút dịu dàng của nhau, thì những câu thơ trên quả là ngàn cân dịu dàng mà người đọc sẽ mãi còn lay động.

… từ tốn tách cà phê buổi sáng
     hay vội vã bữa cơm chiều
     khoan hòa với giấc ngủ
     mặc tưởng một vầng trăng
     chỉ để mặc cả với bóng đêm
     về những điều không có thật.
(Phế tích của ảo ảnh/ 10)

[…]
Tôi muốn mặc cả với đêm yên
     hãy cho tôi đầu thai
     làm hòn cuội
     nằm yên dưới lòng suối này
     đến thiên thu.
(Đêm yên)

Tôi tin người thơ là kẻ thắng trong cuộc mặc cả ấy để có cho mình sự thật, có cho mình sự bình yên trong suốt của viên cuội trong đêm yên.

Ôi, giấc mơ ư, ảo ảnh ư. Đó là vế nặng trĩu sức đam mê trong câu Phế tích của ảo ảnh. Nó nguôi ngoai được cái thê lương của “Phế tích.” Nó là những liên tưởng mang ngụ ý, ẩn dụ, được Thơ phóng chiếu để người ta nhìn ra được hiện thực. Đó là dụng ý Trịnh Y Thư khi muốn quá khứ cùng sự im lặng nhẫn nhịn được cất lên tiếng nói.

Và “Ảo ảnh” – tấm khiên lãng mạn hóa niềm vô vọng – đây là thủ pháp tinh tế nhạy cảm bướng bỉnh của Thơ Ca mà Trịnh Y Thư đã thuần hóa nó với phong cách của riêng mình.

Và nghĩ cho cùng đa chiều, thì tất cả nghịch lý hàm chứa trong tiêu đề đã trở nên vô cùng thuận lý, nhất là khi ta đứng về phía của giấc mơ cùng sự lãng mạn cần thiết của nó, để ánh sáng dịu dàng của “Ảo ảnh” cứu chuộc những “Phế tích” ruỗng mục tâm hồn chúng ta.

Đừng đánh thức giấc mơ tôi
     trong lúc ngửa mặt lên trời
     hứng những giọt mưa đêm tháng Chạp
     với hình ảnh duy nhất
     là đôi mắt em.
(Mưa đêm tháng Chạp)

– Nguyễn Thị Khánh Minh
(Upland, tháng 8.2025)

Bạn đọc có thể đọc một bài viết khác về Trịnh Y Thư của Nguyễn Thị Khánh Minh viết năm 2016, ở link này:

https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2016/09/27/trinh-y-thu-lang-nghe-hai-co/

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2025