SỐ 108 - THÁNG 10 NĂM 2025

 

VÀI SUY NGHĨ VỀ HỒI KÝ CỦA XUÂN VŨ

Tôi biết, và đọc hồi ký Đường Đi Không Đến của nhà văn Xuân Vũ vào khoảng đầu năm 1990, do bác sỹ Đặng Huy Lưu cựu Liên đoàn trưởng quân y vùng 4 quân đội VNCH, cư ngụ tại Houston gửi tặng. Và cũng từ bác sỹ Đặng Huy Lưu, tôi có được số điện thoại của Xuân Vũ, một nhà văn tài năng, có số phận rất đặc biệt, mà tôi yêu mến. Khi chùm truyện ngắn Phượng Ơi! Đừng nở nữa, Lầm Lỡ và Ngã Ba Cuộc Đời của tôi được đăng trên Nguyệt san Hương Quê (Houston) Xuân Vũ đã chuyện trò, tỏ lời ngợi khen, khích lệ…Bởi vậy, cách nay trên chục năm, tôi có viết: Đằng sau những lá bài. Một truyện ngắn xâu chuỗi lại những câu chuyện về thân phận Xuân Vũ gắn chặt với xã hội với những năm tháng tập kết nơi đất bắc. Có những câu chuyện là thực và có cả chuyện chỉ là những giai thoại.

Vài tháng nay, không hiểu sao tôi khoái đọc lại Xuân Vũ. Bởi vậy, ngoài lúc buộc phải làm việc (kiếm sống) tôi dành cả thời gian tìm đọc ông. Chưa thể nói, tôi đã đọc hết khối lượng (trên 80?) tác phẩm đồ sộ của Xuân Vũ. Song đến nay, hồi ký vượt Trường Sơn về Nam gồm 5 tập: Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Đến Mà Không Đến và Đồng Bằng Gai Góc gây cho tôi nhiều cảm xúc nhất. Có thể nói, đây là những tác phẩm điển hình về nội dung cũng như nghệ thuật văn xuôi Xuân Vũ. Tôi nghĩ, những trang sách này của Xuân Vũ cùng với Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn là những tác phẩm ở thể hồi ký hay nhất của Văn học Việt đương đại. Đây là tác phẩm văn học về thế sự, với lời văn tự sự, Xuân Vũ dẫn người đọc trở lại con đường về Nam bi thương nhất của ông, bạn bè đồng nghiệp ông và của cả những người lính. Sự sinh động đó, như những thước phim toàn cảnh chân thực và thật ám ảnh về con đường Trường Sơn chết chóc. Và đọc nó, làm tôi nhớ đến câu thơ của Phan Đắc Lữ, một nhà thơ cũng tập kết ra Bắc: “Tuổi xuân chết đuối giữa dòng u mê“.

Và con đường u mê ấy, chỉ đến khi tập kết (cùng mười năm nơi đất Bắc) dường như Xuân Vũ mới nhận ra điều đó:

“Riêng tôi, tôi cảm thấy mình ngu. Cái ngu của một thằng học trò ba chớp ba nháng đang đi học lại bỏ trường để nhào theo Việt Minh hát Tiến Quân Ca…Dọc đường Trường Sơn và khi về R, tôi thường mở đài Sàigòn. Thỉnh thoảng nghe tên những thằng bạn học. Chúng đang làm Tổng Giám Đốc, Giám Đốc, Kỹ Sư, có thằng làm tướng. Mẹ kiếp, còn mình đi theo Việt Minh hai mươi năm chỉ được cái danh hiệu tên ăn trộm, chui luồn ngõ hẹp“ (Đồng bằng gai góc)

Và muốn giải thoát, cởi bỏ cái ách ấy con đường duy nhất của Xuân Vũ trở về Nam. Bởi vậy, đọc ông ta thấy khát vọng, lòng quyết tâm trở về Nam thật mãnh liệt. Ở đó, con đường hiện lên trang viết của Xuân Vũ rất chân thực, song cũng đầy ăm ắp hình ảnh ví von, ẩn dụ cùng giọng điệu giễu nhại thật xót xa:

“Cứ bước một bước Thu lại nhăn mặt. Thu phải cân nhắc từng bước một, phải tím một chỗ phẳng rồi mới từ từ đặt chân lên. Thu sợ tất cả mọi hòn đá trên mặt đường. Mà cái mặt đường vinh quang, đường giải phóng Miền Nam này có chỗ nào là không lởm chởm đá và gai?“ (Đường Đi Không Đến).

Xuân Vũ tên thật là Bùi Quang Triết, sinh năm 1930 tại Mỏ Cày, Bến Tre, mười lăm tuổi đã tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc. Và ngay sau đó Xuân Vũ tìm mọi cách để trở về Nam, nhưng bất thành. Và phải đến mười năm sau ông mới có cơ hội vượt Trường Sơn trở về Nam. Sau đó ông đào ngũ, và ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Và bộ hồi ký những ngày vượt Trường Sơn, lội qua đầm lầy gai góc Cửu Long về quê đã được Xuân Vũ tái hiện lại trong thời gian này. Sau biến cố 1975 ông di tản sang Mỹ, và mất vào năm 2004 tại San Antonio, Texas.

Có thể nói, Xuân Vũ không chỉ là một nhà văn lớn về khối lượng tác phẩm đồ sộ phong phú thể loại, mà còn về nhận thức tư tưởng, và nhân cách. Bởi vậy, đọc ông cho tôi những bài học với nhiều khía cạnh của cuộc sống cũng như trong văn chương, viết lách.

*Từ nhận thức đến tư tưởng dân tộc.

Khi đi sâu vào đọc những trang sách từ nhiều nguồn (nhiều phía) về Nam Bộ kháng chiến, ta có thể thấy, không riêng Xuân Vũ, mà dường như cả thế hệ ông đi vào cuộc chiến chống Pháp bằng cả khát vọng tự do và tình yêu đất nước trong sáng, hồn nhiên: “Nam thanh nữ tú áo hồng áo tía kéo nhau đi thành đoàn. Vừa đi vừa hò hét, ai thấy cũng muốn đi theo. Nhưng vấn đề quan trọng nhất là trí thức. Hồi thời đó rất đông trí thức tham gia cách mạng…Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài (không có Hòa Hảo) đều có mặt. Cỡ lóc nhóc như tôi thì ôi thôi thiếu chi… Nên nhớ rằng hồi đó đảng (cs) còn núp ló sau lưng các đoàn thể, chưa đám lòi mặt. (Đồng bằng gai góc)

Trong cái không khí hừng hực như vậy, ở tuổi mười lăm Xuân Vũ đã rời ghế nhà trường tham gia kháng chiến. Từ phụ trách liên đội thanh thiếu niên đến làm báo tiếp xúc, đi nhiều, đọc nhiều đã cho Xuân Vũ vốn sống rất phong phú. Nhất là mười năm nơi đất Bắc, Xuân Vũ đã tiếp xúc, học hỏi (ảnh hưởng) rất nhiều từ các nhà văn: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan…Bởi vậy, đọc hồi ký Xuân Vũ, ngoài tài năng hồi tưởng, phân tích, ta còn thấy góc nhìn mới từ những trải nghiệm với cảm xúc chân thực qua lối kể chuyện sinh động, lôi cuốn của ông. Sự ảnh hưởng, tính hiện thực đó không chỉ ảnh hưởng đến thi pháp sáng tạo Xuân Vũ, mà còn tác động đến nhận thức tư tưởng. Và tư tưởng dân tộc ấy xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của ông. Thật vậy, trích đoạn lời thoại giữa người giao liên và Xuân Vũ trong: Đồng Bằng Gai Góc chứng minh cho ta thấy rõ điều đó:

“Một chốc anh hỏi tôi:
 - Tôi hỏi thật mà anh cũng phải trả lời thật nhé! Miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa có ngon hơn miền Nam mình không?
 - Điều tôi muốn nói với anh là: Chế độ nào nhiều cơm gạo và thỏa mãn người đời nhiều nhất thì đó là chế độ ta cần bảo vệ và vun bồi. Chủ nghĩa cộng sản trên lý thuyết thì có vẻ hay thật nhưng nó chỉ thực hiện được khi nào nhân loại chỉ có một cái dạ dầy chung. Đừng nghe lý thuyết của bất kỳ ai, hãy nhìn vào nồi cơm của họ.“

Không dừng ở đó, như một phép so sánh, Xuân Vũ cho người đọc thấy tinh thần đoàn kết dân tộc giữa quân dân trong 9 năm (1945-1954) kháng chiến chống Pháp, và sự dốt nát độc đoán, độc tài của lãnh đạo hiện nay (1965) làm cho người dân sợ hãi, xa lánh. Có thể nói, đây là cái nhìn khách quan, trung thực của nhà văn đã đi vào hai cuộc chiến với tinh thần, trách nhiệm như một người lính thực thụ. Bởi vậy, hồi ký, văn xuôi của Xuân Vũ không chỉ bao gồm đầy đủ đặc tính văn học, mà còn là trang sử sống động có giá trị chân thực cao:

“Còn bây giờ? Tỉnh ủy độc tài một mình một chợ cho nên không có ai theo. Đặc biệt không có trí thức và tôn giáo. Tỉnh ủy toàn là một đám bần cố hỉ. Chúng chia nhau “lãnh đạo” các đoàn thể. Nhưng đoàn thể thì chỉ có cái đầu còn mình thì không. Cả bọn trốn chui trốn nhủi. Đi tới đâu dân chúng chạy tránh như sợ bịnh dịch. Ngày trước cơ quan bộ đội đi đâu được dân chúng chào đón, nhường cho đóng trong nhà, gà vịt heo bò đãi đằng nồng nhiệt. Bây giờ cơ quan ở nhà hoang, bộ đội lủi ngoài rừng.“ (Đồng Bằng Gai Góc)

Bước đầu Xuân Vũ đến với kháng chiến bằng tình yêu nước hồn nhiên, trong sáng. Song ông và thế hệ ông bị dẫn dắt bởi bàn tay lông lá, độc tài hoang tưởng. Phải mất đến 20 năm lầm lỡ, Xuân Vũ mới có thể quay trở về với hồn dân tộc. Và thật may mắn, nếu không Văn học Việt sẽ không có một nhà văn vạm vỡ Xuân Vũ, với những tác phẩm đồ sộ và sâu sắc đến vậy.

*Con đường xương máu.

Ngay khi đặt chân lên (xứ Thanh) đất Bắc, nhà văn Xuân Vũ bị hụt hẫng, chán chường, bởi niềm tin đã mất, tâm hồn sụp đổ. Tuy không một lời phê phán, nhưng hình ảnh nồi cám trộn rau muống, dường như Xuân Vũ gợi cho người đọc (một phép so sánh giữa) thân phận con người và súc vật. Và hiện thực xã hội này ám ảnh suốt cả cuộc đời ông. Với tâm trạng như vậy, buộc Xuân Vũ viết: Chuyện tục về một vùng Thanh. Một truyện ký ai cũng phải bùi ngùi, xúc động khi đọc:

“Nhiều lần trong bữa ăn, tôi bị nghẹn vì chợt nhớ đến lũ trẻ ở nhà ngồi quanh nồi cám lẫn với rau muống bố mẹ chúng đã nấu sẵn trước khi ra đồng.Tôi sống hết mùa đông trên đất Bắc như một cực hình. Từ mùa đông ấy trở đi, một sự hối hận giày vò tôi khôn nguôi: "Mình đi đâu thế này? Bỏ quê hương bỏ cha mẹ mà đi thế này?“

Sự giày vò hối hận đó như một động lực thôi thúc Xuân Vũ trở về Nam. Nhưng mọi con đường đã khép lại sau một lần nhà văn dám cả gan vào thẳng Ủy ban quốc tế để xin về Nam. Và bao phen âm thầm trốn chạy, Xuân Vũ cũng không thoát ra khỏi chiếc rọ kín mít đó:

“Nỗi day dứt về quê hương và gia đình, cộng với những điều kỳ cục trong mấy năm dằng dặc trên đất Bắc làm cho tôi thấy mình đi lạc đường. Sống trong nước mình mà cứ tưởng nước ai. Do đó tôi quyết chí trốn về Nam, sống dưới gầm cầu cũng được. Nhưng ý chí là một chuyện, thực địa là một chuyện khác. Trốn ngả nào?“ (Chuyện tục về một vùng Thanh)

Trong cái bế tắc chán chường và điên loạn như vậy, dường như lời khuyên của Nguyễn Tuân và Văn Cao đã làm tâm hồn Xuân Vũ lắng lại. Và phải mất gần mười năm lấy lại lòng tin của Ủy ban thống nhất, Xuân Vũ mới được phép trở về Nam, để viết về Đồng khởi Bến Tre. Một phong trào đã được thổi phồng, cường điệu hóa mà Xuân Vũ đã nhận ra, khi trở về quê Mỏ Cày, Bến Tre gặp những người đã tham gia trực tiếp còn sống sót kể lại.

Nếu sạn đạo một con đường vào Ba Thục thời cổ đại rùng rợn, nghe tên đã thấy khiếp đảm, thì đường Trường Sơn (từ Bắc vào Nam) Xuân Vũ đã trải qua còn tàn khốc hơn thế nhiều: “Tôi biết rằng con đường về là con đường đầu thai một lần nữa, con đường về là con đường đói khát, con đường sấm sét, con đường đau khổ và gian khổ, con đường dốc, con đường dài, con đường đi không đến mà rồi vẫn phải đi“. (Đường đi không đến). Thật vậy, đọc Xuân Vũ, ta không chỉ thấy tâm trạng nhà văn ở giữa rừng Trường Sơn: nếu phải quay lại đất bắc còn lo sợ hơn cái chết, mà còn thấy được sự dã man, vô trách nhiệm của giới lãnh đạo, và thân phận rẻ mạt của con người:

“Đường vắng tanh. Tử khí trùm cây cỏ. Tôi thấy chùng bước. Nhưng nếu tôi không tiêm được mấy ống thuốc này thì không cắt cữ được, nằm đây mà sốt thì một là chết, hai là quay về Bắc. Cả hai điều đó tôi xem như tai hoạ ngang nhau. Bỗng nhiên tôi thấy như có ma lực đẩy phía sau lưng tôi. Tôi rẽ vào và rấn lên ít bước thì đụng vào, trời ơi, đụng vào một bộ xương. Rõ ràng một bộ xương trong một cái hốc đá. Nó trắng một cách ghê rợn. Tôi thấy không sợ hãi nhưng chỉ giật mình khi vừa trông thấy. Tôi bước một bước đến gần bộ xương. Bên cạnh đó là một khẩu AK mà cái báng súng đã bị mối mọt gậm hết chỉ còn trơ lại cái cốt sắt. Cái nòng súng cũng đã mục đi. Sét kết khối và vỡ ra từng mảng…Ai biết anh ta tên gì, quê quán ở đâu? Cũng như anh bạn nằm dưới đất ló hai bàn chân ra lúc nãy, anh bạn này đã đi và không đến.“ (Đường đi không đến)

Và trên con đường khúc khuỷu, vách đá cheo leo sặc mùi tử khí ấy, hình ảnh người lính hiện lên trang văn Xuân Vũ như những bóng ma dập dờn. Có lẽ, lịch sử mấy ngàn năm qua chưa có hình ảnh nào bi thương như những người lính trên đường Trường Sơn. Thật vậy, lời văn châm biếm mỉa mai, Xuân Vũ vẽ nên bức tranh về người lính với số phận đen ngòm đã định trước, được viền quanh những hào quang giả tạo, làm cho ai cũng phải bật ra tiếng cười chua xót:
“Những người lính lại lôi thôi lếch thếch đi qua. Họ không còn là những chiến sĩ của quân đội Miền Bắc. Họ là những cái bộ xương còn có thể di động trong vài hôm nữa, và chỉ cần một trận mưa nữa là những bộ xương ấy sẽ rã ra, rải rác khắp trên con đường vinh quang này như những cánh hoa vô giá, làm cho con đường giải phóng Miền Nam thêm hương thêm sắc“ (Đường đi không đến)

Không dừng lại ở những người lính, giao liên dẫn đường, Xuân Vũ còn đi sâu vào miêu tả diễn biến nội tâm văn nghệ sĩ, các giáo sư đại học những người bạn đồng hành trước bệnh tật, đói khát, đạn bom và chết chóc. Niềm tin đã bị đánh cắp trước cái sự dối trá, lưu manh của những kẻ đầu cơ chiến tranh. Bởi vậy, những cái chết đã được báo trước, làm cho họ ám ảnh và bi quan đến tột cùng:

“Cái tấm mộ bia của anh chàng bệnh tư tưởng hai bàn chân lòi ra dưới mô đất, cái bộ xương trong hốc đá, và đây nữa cái giá súng tổ tam tam với ba khẩu AK, mỗi một cái hính tượng đó là một cây số dựng lên trên đường tôi đang đi, và đứng sừng sững trong đầu tôi.“ (Mạng người lá rụng)

Nhốt tù binh Mỹ vào trong cũi ở giữa núi rừng Trường Sơn cho ta thấy sự tàn nhẫn, man rợ đưa con người trở về thời mông muội. Tôi đã đọc khá nhiều sách báo, tiểu thuyết hồi ký, hay bút ký về chiến tranh trong và ngoài nước, song dường như chưa có hình ảnh, hành động nào thú tính như vậy, ngoài một số địa chủ bị giam vào cũi trong cải cách ruộng đất, như một nhà thơ lớn tuổi đã kể. Và có lẽ chưa có trang sách nào đi sâu vào chi tiết này. Thật vậy, đọc lời văn mộc mạc, cùng hình ảnh ví von với câu hỏi tu từ thật dân dã của Xuân Vũ, nhưng ai cũng phải rợn tóc gáy:

“Nghe tôi nói, Việt bèn đi theo tôi. Quả thật chỉ cách bờ suối vài mươi bước có một cái cũi phủ đầy lá, mới nhìn tôi ngỡ rằng đó là cái chuồng lợn. Tiếng người rên rỉ trong cái cũi ấy phát ra làm cho tôi sửng sốt. Sao lại có chuyện kỳ cục vậy? Tôi bước tới và nhanh tay giở một cành lá nom sát vào song cũi. Tối om, không thấy gì hết chỉ thấy hai chấm sáng phản chiếu về phía tôi, làm cho tôi hơi ái ngại. Tôi lùi lại, thì trong cái bóng mờ mờ đó thấy có sự cử động. Tôi giở tung một cành lá lên, thì trời ơi, đúng là một con người, một thằng người đã hoá thành con vật, hay con vật đang hóa ra người? Hắn chìa tay ra xin tôi nhưng không rõ hắn muốn xin gì. Tôi định thần nhìn kỹ. Và Việt reo lên: Mỹ! Mỹ anh ạ!“ (Mạng người lá rụng)

Dường như chưa có cuốn sách nào viết hay, sâu sắc về nông thôn miền Tây Nam Bộ (giai đoạn chiến tranh 1965 -1968) như hồi ký: Đồng bằng gai góc của Xuân Vũ. Ở đó, ta không chỉ thấy cục diện chiến tranh, mà còn thấy được đời sống tâm trạng của nông dân vùng xôi đậu. Nếu ta đã đọc Hòn Đất, một tiểu thuyết tuyên truyền về chiến tranh của Anh Đức ở thời điểm đó, cùng đất và con người miền Tây Nam Bộ, thì mới thấy hết tính chân thực và giá trị lịch sử của tác phẩm: Đồng bằng gai góc của Xuân Vũ.

Và cũng ở nơi đây cái chết của nhạc sĩ Hoàng Việt (tác giả bản Tình Ca) người bạn đồng hành đã tác động mạnh đến Xuân Vũ. Bởi, nó đã phơi bày bộ mặt thật của những kẻ ăn trên ngồi chốc, và thân phận bèo bọt của văn nghệ sĩ. Hình ảnh so sánh đối lập ấy là nguyên liệu sống để Xuân Vũ viết nên thiên truyện này. Và nó cho Xuân Vũ đủ nghị lực từ bỏ con đường thối nát bị bưng bít suốt mấy chục năm qua:

“Hoàng Việt là một nhạc sĩ sáng tác nhiều nhất và hay nhất trong chín năm kháng chiến Nam Bộ. Anh là hạt ngọc của Việt Nam chứ không phải riêng của Cộng Sản. Đến năm 1965, theo tôi biết thì ở Miền Bắc chỉ có Hoàng Việt là người độc nhất có khả năng sáng tác nhạc giao hưởng. Từ Bungari về với mái tóc bạc quá nửa, anh được đưa vào trường vác gạch chuẩn bị đi Nam. Hãy nhìn Thép Mới Tổng Biên Tập báo Nhân Dân, cả đời viết được chục rưỡi bài tùy bút, “tác phẩm” của y gom góp lại in được chừng mười đến mười lăm trang đọc được. Thế mà vô Nam, hắn đi đâu được đám Bake bộ chỉ huy giải phóng cho cần vụ đi theo đứa mang ba lô, đứa vác AK hộ vệ. Vì hắn là dân triều đình. Còn Hoàng Việt đi đơn thân độc mã, phó mặc cho giao liên, du kích vô trách nhiệm cho nên thay vì cất giấu kỹ lưỡng chúng lại nhét Hoàng Việt vào một cái hầm, trống toang hoác, chẳng trách gì trực thăng phóng quả rốc kết ngay chóc miệng hầm. Tất cả thân xác nhà nghệ sĩ số một của Miền Bắc chỉ còn lại một mảng tóc bạc dính vào gốc cây gãy cúp bên miệng hầm.“ (Đồng bằng gai góc)

Tôi nghĩ, nếu không phải vượt qua dốc núi Trường Sơn, chứng kiến những cái bi thương, và khốn nạn nhất, thì chưa chắc Xuân Vũ đã hồi chánh, làm việc cho Chính phủ Việt Nam Cộng Hoa, mà chỉ âm thầm ẩn dật ở đâu đó, hoặc nơi quê nhà. Và nếu không có nó chắc chắn Văn học Việt Nam không có bộ hồi ký Vượt Trường Sơn và một nhà văn Xuân Vũ tài hoa đến vậy.

*Con đường giải thoát.

Về đến quê nhà, nhưng bạn bè hầu như đã tử nạn và rời xa, cho nên nỗi cô đơn luôn giày vò tâm hồn Xuân Vũ. Bởi vậy, mỗi trang văn của ông luôn ẩn chứa nỗi chán chường, thất vọng: “Hoàng Việt chết. Tư Trang, Bảy Thinh, Ngọc Cung bị B52. Thủy Thủ tức thiếu úy hải quân Thái Trần Trọng Nghĩa tự sát bằng AK sau chuyến công tác Mỹ Tho thất vọng vì tình và bế tắc lý tưởng.” (Đồng bằng gai góc) Lý tưởng bế tắc, và cuộc sống gia đình còn bị chính những người đồng đội đàn áp nơi quê nhà càng làm cho Xuân Vũ quyết tâm rời bỏ cộng sản. Bởi vậy, mỗi trang văn của Xuân Vũ, đọc lên ta không chỉ thấy hiện thực xã hội nóng bỏng, mà nó còn như một lời dự báo về cái thối tha, bỉ ổi mầm mống của đám quan tham từ mấy chục năm trước:

“Anh đi như vầy ở nhà “mấy ông” ấp cứ làm khó dễ má hoài. Mấy ổng xin gì má cũng cho, vậy mà cũng không nhơn tay chút nào. Vừa rồi họ bắt má đi học. Bộ họ không biết anh tập kết về sao? Tôi thật tình không đám nói ý định trốn Cộng Sản của tôi. Càng không lộ cho ai biết những “thành tích” ở Miền Bắc của tôi. Tôi không nói gì hết. Mặc dầu vậy tôi vẫn tầm ngẩm tìm đường trốn. Phải trốn cho được. Nếu đổ bể thì hại cả dòng họ bên ngoại lẫn bên nội chứ không phải chuyện nhỏ đâu.” (Đồng bằng gai góc)

Hồi chánh là con đường duy nhất để giải thoát tâm hồn cũng như thể xác Xuân Vũ. Cho nên, dù ở Bến Tre quê hương, hay biên giới Việt Miên, Xuân Vũ luôn tìm đường trốn chạỵ.

Đọc 5 tập hồi ký, nhất là khi Xuân Vũ đã trở về tới Bến Tre, tôi nhận thấy, ông luôn sống trong tâm trạng muốn trốn chạy. Nhưng không hiểu sao phải mất đến ba năm ông mới trốn thoát, và hồi chánh thành công? Tuy có sự lý giải, nhưng quả thực chưa làm cho tôi thỏa mãn. Và ta hãy đọc lại đoạn kết của: Đồng bằng gai góc để thấy tâm trạng phấn chấn, tự tin của Xuân Vũ trước cuộc sống tự do đã được mở ra:

“Chiều hôm đó tôi ra tới chợ Hồng Ngự. Tôi đến bến xe ngay. Còn chuyến chót không biết đi đâu, mặc kệ, tôi cứ phóng lên. Đi cho xa, càng xa cái ổ quỷ càng tốt...Xe đỗ lại tôi bước xuống, không biết là đâu. Ngó thấy tượng đức Huỳnh Giáo Chủ thì chắc là Long Xuyên hay Châu Đốc. Mặc kệ, đâu cũng được. Tôi vô tiệm chén một bữa tẩy trần, no nê sảng khoái. Thấy mình sống hoàn toàn. Tôi đi đến khách sạn ở bến xe thuê ngay một phòng, chìa thẻ bọc nhựa ra cho chủ tiệm ghi tên tuổi một cách rất đàng hoàng. Tôi bây giờ là dân Miền Nam. Tôi là Tôi. Tôi thuộc về Tôi, thuộc về vợ con Tôi, không thuộc ai khác cả”.

Có thể nói, Xuân Vũ viết hồi ký không theo một trật tự thời gian nhất định. Ngẫu hứng, và cảm xúc đưa đến những tình tiết đan xen, chồng chéo làm cho hình ảnh, lời văn ông sinh động, phong phú. Sự liên tưởng ấy, Xuân Vũ làm cho câu chuyện trở nên sâu sắc, độc đáo. Nên hơn ba chục năm sau đọc lại 5 tâp hồi ký, cũng như văn xuôi của Xuân vũ vẫn cho tôi những cảm xúc mới và đặc biệt như vậy. Và cũng như nhà văn Mai Thảo, cả cuộc đời Xuân Vũ dành trọn vẹn cho văn thơ, và đóng góp không nhỏ cho nền văn học nước nhà. Bởi vậy, với tôi, cuộc đời cũng như sự nghiệp của Xuân Vũ tuy muộn, nhưng con đường ông chọn đã đi đến đích.

Leipzig ngày 15-9-2025
Đỗ Trường

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2025