Xuân Canh Dần - SỐ 45 - THÁNG 2 NĂM 2010

 

CỌP VỀ LÀNG

Làng tôi cách xa thị trấn Ninh Hòa khoảng một cây số đường chim bay, nhưng nếu chèo ghe từ Họng Ngã Ba (ở cuối làng) xuôi dòng sông Dinh chừng 700 mét là cập bến cầu Dinh. Dân làng thường đi đường thủy vào mùa nước lũ để đưa gạo, bắp, bầu bí, rau đậu... lên chợ Dinh bán và mua về cá thịt, mắm muối, nhang đèn...
Cách nay trên 350 năm, tỉnh Khánh Hòa là đất của Chiêm Thành phần nhiều còn hoang dã, đã được quan Cai cơ Hùng Lộc (một vị dũng tướng văn võ song toàn của Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần) đem quân vượt Đèo Cả đánh chiếm đặt tên là dinh Thái Khang, tên đầu tiên của tỉnh Khánh Hòa. Ngài là vị tiền hiền đầu tiên, được tiếp nối bởi nhiều vị hậu hiền từng đổ mồ hôi (kể cả xương máu) để khai sơn phá thạch, lập làng khẩn ấp, góp phần điểm tô vùng đất này đẹp như một dải lụa xanh ngát một màu biển núi sông rừng, mà từ Khánh Hòa vô đến mũi Cà Mau, có lẽ ít có vùng đất nào hội đủ bốn yếu tố và xinh đẹp như vậy. Là người xứ Ninh, là dân Khánh Hòa, đi đâu tôi cũng hãnh diện về quê hương xinh đẹp của mình.

Xứ Ninh quê tôi có hàng trăm ngôi đình để thờ những vị Thần đã được Vua ban sắc, và hàng trăm ngôi miếu để thờ Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai khẩn, được xây cạnh đình làng. Mỗi năm có hai lần Xuân Kỳ, Thu Tế được tổ chức long trọng để cúng Thần và tưởng nhớ công ơn của những người đã khai sinh ra vùng đất thiêng này. Quả là một vùng đất thiêng, một  “địa linh nhân kiệt”, một “xứ trầm hương”, nơi có khói hương bay tỏa, có long chầu lân phục, có hàng tá địa danh mang tên kỳ bí: Hòn Bà, Tháp Bà, Miếu Bà, Lăng Bà, Hòn Ông, Hòn Vọng Phu.
Nếu khách du đến thành phố Nha Trang đi thêm 10 km nữa sẽ nhìn thấy bên kia đèo Rù Rì chạy dài đến đèo Cả là non nước xứ Ninh (phủ Ninh Hòa xưa): người hiền hòa, cảnh thơ mộng. Từ thị trấn Ninh Hòa nhìn lên hướng Tây, núi Vọng Phu hiện ra sừng sững, ẩn chứa một thiên tình sử từng làm say mê biết bao tâm hồn. Đi về hướng Đông 12 km, Dốc Lết một vùng biển xanh lơ như ngọc bích, chính biển Nha Trang lừng danh cũng phải giở nón chào thua bãi cát mịn màng trắng tinh như đường cát số một này. Và nếu đi thêm chừng 40 cây số nữa về hướng Bắc thì du khách sẽ đồng ý với vua Minh Mạng về việc đã chọn danh lam biển Đại Lãnh để khắc vào một trong chín đỉnh trưng bày tại Đại Nội Huế, một bãi biển nằm dưới chân đèo Cả, dựa lưng vào bức trường thành vĩ đại xuất phát từ núi Ba Non hùng vĩ chạy dài ra tận biển.

Làng tôi tên Điềm Tịnh, hậu thân của Điềm An, nằm kế bên những ngôi làng có tên xinh đẹp như: Mỹ Hiệp, Vĩnh Phú, Phú Nghĩa, Phú Lễ, Bình Thái, Bình Thành, Xuân Hòa, Đại Cát, Vĩnh Phước... tất cả đều nằm dọc theo hai bên bờ sông Dinh, và 3 nhánh: sông Cái, sông Lốt, sông Đục, góp phần tạo nên phong cảnh Ninh Hòa hữu tình:

Ba hòn bao bọc giữ quê Ninh
Ba nhánh xuôi về một sông Dinh
Dòng Lốt ngợi ca bao chiến tích
Vọng Phu ghi tạc một thiên tình
Đá Bàn, Đập Đúc hồ xanh biếc
Động Cát, Ninh Diêm muối trắng tinh
Thiên Bửu, Ba Hồ bày mọi vẻ
Sáng ngời dung hạnh gái quê Ninh.

(Ninh Hòa, thơ Vinh Hồ)

Các địa danh mang những chữ “tịnh, an, hòa, bình, nghĩa, phú” nói lên niềm mơ ước của tiền nhân muốn mưu cầu một cuộc sống an bình, no đủ, giàu có. Nhưng đó chỉ là ước mơ chưa một lần hiện thực của làng tôi.

Làng tôi nghèo nhất trong vùng, bởi nằm ở cuối nước. Nước đập muốn về làng phải băng qua nhiều làng xã mà “Thượng điền tắt thủy hạ điền khan”. Hạn thì làng tôi hạn trước, lụt thì làng tôi cũng lụt trước. Nằm giữa ba con sông, mùa mưa nước lũ thoát không kịp, chảy tràn ngập nhà ngập cửa, cuốn đi bao nhiêu tài sản của dân làng đã cực khổ chắt chiu dành dụm bao ngày mới có được. Cho nên khi cúng tế, dân làng rất cẩn trọng khi chọn những vị Chánh tế, Phó tế, Bồi tế, phải là những vị lão ông đạo cao đức trọng, đủ vợ đủ chồng, gia đạo thuận hòa, con cháu phát đạt... để thay mặt dân làng đứng cúng tế, dâng lên Thánh Thần những lời cầu xin cho xóm làng được bình an no đủ... Nhưng rồi khổ vẫn hoàn khổ, đói vẫn hoàn đói. Nếu không trộm cấp hoành hành thì cũng khói lửa triền miên, thiên tai, dịch họa. Đã vậy lại còn thêm cái nạn “mang lạc nát làng” hay “hổ lạc nát làng” sẵn sàng mang đến cho dân làng những chuyện không may.

Bengal Tiger
Đồn rằng cọp có tai rất thính, nên dân làng chẳng ai dám đụng đến dù chỉ một lời chửi trộm chửi lén, hay nói tỏi nói hành. Ngay cả cái tên cọp cũng phải kiêng cữ. Cọp là hổ, là hùm, loài động vật họ nhà mèo ăn thịt sống, lông màu vàng có vằn đen, đuôi dài trông giống như con rắn mái gầm, móng vuốt sắc tựa dao, một con vật đi bằng bốn chân, nhưng người ta sợ hãi đến nỗi đã tôn cọp ngang với thần linh, gọi cọp bằng những cái tên đầy tôn kính như: “Ông Năm, Ông Ba Mươi, Ông Bị, Ông Chằn, Ông Kẹ, Ông Thầy, Sơn Quân, Chúa Sơn Lâm...”. Trong 12 con giáp, người ta gọi con chuột, con trâu, con mèo, con rồng... nhưng không dám gọi con cọp, con hổ. Nếu phải gọi đích danh thì người ta thêm chữ ông ở phía trước: “ông Cọp, ông Hổ” để tỏ lòng tôn kính. Cọp được thần thánh hóa, được thờ cúng, được thể hiện bằng những hình tượng nghệ thuật đầy yếu tố tâm linh. Qua các tranh vẽ, cọp hiện thân như một vị thần, như một biểu tượng văn hóa tâm linh.

Dân làng có tục lệ cúng “Sơn Lâm Chúa Tướng Lý Nhỉ Tôn Thần” vào chiều ba mươi Tết và mùng bốn Tết. Chiều ba mươi Tết nhà nào cũng bày lễ vật ra sân để cúng ông Hổ chung với lễ cúng Tất Niên. Lễ vật gồm chè, xôi, que, hột, tợ, thêm một con gà trống luộc nguyên con hai chân tréo ngược ra sau lưng, có cả một xấp giấy hồng đơn in hình ông Cọp trông dữ dằn... Chủ gia thành tâm cầu xin Sơn Lâm Chúa Tướng thương tình đi nơi khác làm ăn, đừng léng phéng về làng gây tai họa. Còn ngày Mồng Bốn Tết (Nguyên Đán) sau khi cúng đốt giấy tiễn đưa ông bà, cúng Ông Hổ xong, thường dán trước cửa nhà tờ giấy hồng điều in hình cọp màu đen với lòng tin là Ông Ba Mươi sẽ trấn giữ  nơi cửa, không cho tà ma đột nhập vào nhà hại người. Tranh thờ Ngũ Hổ gồm: Hắc hổ, Bạch hổ, Xích hổ, Hoàng hổ, Thanh hổ, tượng trưng cho năm vịThần Tướng ngự trị tại năm phương. Người ta lập miễu thờ cọp ở những nơi cọp ưa ra bắt người, gọi là “Miễu Ông Cọp”, cọp được tôn là “Sơn Quân Chi Thần”. 

Chỉ bao nhiêu ấy thôi, cũng đủ thấy đời sống của ông cha ta thời trước đã khổ sở như thế nào? Khổ vật chất, khổ tinh thần, khổ thể xác, khổ tâm linh. Dù cọp có bắt trâu, bắt bò, hay bắt cả người, thì người ta cũng chỉ biết cắn răng chịu đựng. Không dám phản kháng, bày tỏ, không dám nói ra những nỗi bất bình, uất ức của mình. Thế nhưng cọp có thương người bao giờ! Đêm đêm cọp vẫn mò về làng. Cọp về từ những dãy núi xa: núi Ổ Gà, núi Đeo, núi Hòa Sơn, giồng Cốc... Cọp về để ẩm trâu bò và cả người nữa... Ban đêm cửa đóng then cài kín mít, người nhà có muốn đi tiểu cũng không dám mở cửa bước ra ngoài. Nghe nói cọp kiên nhẫn ngồi rình dưới mái hiên hay sau xó bếp cả tiếng đồng hồ, nước miếng đổ xuống đất cả vũng mới chịu bỏ đi. Tại chuồng trâu, chủ nhà bố trí một hai con trâu đực dũng cảm nằm tại cổng sẵn sang ứng chiến, thế nhưng sáng ra vẫn thấy mất trâu. Họ đồn cọp có món võ phi thân đại tài. Chuồng trâu rào kiên cố bằng những gốc tre chôn sâu, vót nhọn đầu, cao tới 3 mét, nhưng từ  ngoài chuồng, cọp có thể phóng bay vào bên trong dễ dàng, làm cho bầy trâu kinh hoảng phá chuồng chạy tán loạn ra ngoài. Cọp nạp theo bắt một con tha đi.

Chiều 30 Tết năm 1946, cả làng đang thành tâm bày lễ vật ra sân cúng Tất Niên để rước ông bà về ăn Tết với con cháu, thì ông kẹ không biết xâm nhập, về làng từ lúc nào, ẩn mình trong đám tranh kế bên cây mít nghệ có cả trăm tuổi thọ ở phía sau vườn nhà ông nội tôi. Giữa sân, ông nội tôi kê một cái bàn dài chưng đầy lễ vật, dưới đất một chiếc chiếu hoa cũng chưng đầy lễ vật. Ông nội tôi áo dài đen, khăn đóng đen, đứng thế nghiêm, hai tay cầm ba cây nhang đưa lên ngang trán, lâm râm khấn vái... Bà nội tôi và những người thân trong nhà, cũng khăn áo chỉnh tề quỳ hai bên. Tất cả mọi người đang tỏ lòng thành kính thì có ba tiếng kêu lớn (như phèng la) ngân dài vang dậy cả một vùng, nghe rùng rợn như tiếng sư tử rống trong sa mạc:

-   À uôm... - À uôm... - À uôm...

Tigers' HAVE extremely strong jaws and sharp teeth

Chỉ có ông nội tôi là còn bình tĩnh để cất lên lời báo động:

- Chúa Sơn Lâm, Chúa Sơn Lâm về làng. Tất cả hãy mau mau vào nhà nhà đóng đóng cửa lại!

 Còn lại, ai cũng bò lê bò càng. Cái tăng cấp ba bậc, lúc bình thường chỉ cần ba bước là bước lên thềm, nhưng bây giờ cứ bước lên bước xuống cả chục lần mà không lên được. Mặt ai cũng tái lét như gà cắt tiết không còn một chút máu. Miệng cà lăm cà lắp trông thật tội nghiệp...

Sau khi đóng cửa đâu đó xong xuôi, Ông nội tôi chạy xuống đồn (địa điểm tại nhà Ông Năm Tương bây giờ) báo cho lính đồn biết. Trưởng đồn cho một tiểu đội súng ống đàng hoàng, chia làm hai mũi tiến lên bao vây đám tranh và bắn hạ Ông Ba Mươi, kéo xác ra để nằm dài bên đường cho dân làng xem. Thân mình cọp dài 2m50, không kể cái đuôi dài gần 1 mét, nặng trên 200kg.

Có lẽ cọp bị giết vào chiều ba mươi Tết, nên cọp có tên là Ông Ba Mươi chăng?

A Tiger running in snowTuy cọp đã chết, nhưng người ta vẫn cứ xầm xì với nhau lòng đầy hoang mang lo lắng: “Hổ lạc nát làng, còn hơn cả mang lạc nát làng”. Mang là con hoẵng, thú rừng thuộc nhóm nhai lại, lông màu vàng đỏ như lông bò, nhỏ hơn con nai rất nhiều, mặt luôn dớn dác. Mang lạc rủi ro thế nào thì tôi không biết. Chứ cọp lạc thì có xui xẻo như thế này. Chỉ mấy tháng sau ngày cọp chết, lính lê dương Pháp (lính đánh thuê người nước ngoài đa số từ châu Phi như Ma -Rốc... trong quân đội viễn chinh Pháp) từ mặt trận Ban Mê Thuột theo hướng Quốc lộ 21 tràn về Ninh Hòa đông như kiến. Chúng mở cuộc hành quân càn quét từ thị trấn Ninh Hòa đánh thốc lên vùng mật khu Đá Bàn của Việt Minh. Trên đường tiến quân, chúng băng qua làng tôi. Hầu hết dân làng gồng gánh bỏ chạy gọi là “đi tản cư”, khổ cực nhất là đàn bà có con nhỏ hay bụng mang dạ chửa. Má tôi mang bầu tôi chạy trong đám tản cư đó. Khi lên tới làng Phú Văn thì bà sanh non ra tôi. Ai cũng nghĩ là tôi không sống, nhưng nhờ bà con giúp đỡ tận tình nên tôi đã sống và sống đến ngày nay. Má tôi nói khi sanh tôi ra, tôi chỉ có một chút xíu như con mèo con và đã khóc suốt ngày suốt đêm, nên được tặng cho một cái tên chẳng tốt đẹp gì là thằng Hét. Tiếng khóc dài báo trước một định mệnh trôi nổi đau thương của đời tôi sau này.

Còn lại một số ít dân làng, không chạy kịp, nằm tại nhà, phó mặc cho định mệnh, đa số là đàn bà con gái, chẳng khác gì những miếng mồi ngon treo trước miệng cọp. Bọn lính lê dương rạch mặt, đói khát tình dục, tha hồ hãm hiếp chẳng chút tiếc thương! Thằng Lô to con nhất làng, bạn thời tiểu học của tôi, đã được má nó thụ thai trong hoàn cảnh bi thương này, nhưng vẫn được ba nó chăm sóc thương yêu như con ruột. Bọn giặc Tây trước khi rút ra khỏi làng, còn nhẫn tâm phóng lửa đốt mấy chục mái tranh. Ngôi chánh điện chùa Thiên Bửu cũng cùng chung số phận. Tấm bảng “Sắc Tứ Thiên Bửu Tự” được Vua ban cho ngôi chùa cổ nhất nhì trong vùng (có cây me gốc to bằng năm người ôm không xuể) treo trước chánh điện cũng bị cháy rụi.

   Lớn lên, nghe kể chuyện “hổ lạc nát làng”, tôi cảm thấy thương cho làng tôi quá! Tôi nhớ thuộc lòng những câu đồng dao mà dân làng ai cũng thuộc nhưng chẳng biết ai là tác giả:

- Điềm Tịnh, Điềm Tịnh cùi,
Ăn mắm mút dòi đội nón mo cau.
- Trời mưa trời gió đùng đùng
Cha con xách thùng đi lượm cứt trâu
Cứt trâu về đổ lỗ bầu
Mong trâu mau lớn, mong bầu ra sai.

Tôi cũng nghe câu:

- “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận”.

Tại Cam Ranh, Diên Khánh, Vĩnh Xương cọp nhiều không? Chứ xứ Ninh quê tôi thì cọp nhiều lắm! Cọp bắt người tại Đèo Rọ Tượng, tại Đèo Bánh Ít, tại Đèo Cạnh, tại Dốc Đá Trắng và nhiều nơi khác. Cọp về thăm làng tôi vào đêm ba mươi Tết. Cho nên nếu nói đến cọp Khánh Hòa thì phải nói đến cọp Xứ Ninh quê tôi, vùng đất từ Đèo Rù Rì ra đến Đèo Cả mà ngày xưa Quan Cai cơ Hùng Lộc đặt tên là phủ Ninh Hòa, một vùng núi non trùng điệp, cũng là cái mái nhà của xứ Trầm Hương. Mà nói đến xứ Ninh thì phải nói đến núi Ổ Gà, nơi nhiều cọp nhất nên mới có câu tục ngữ:

-“Cọp Ổ Gà, ma Đồng Cháy”.

VINH HỒ
14/1/10

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2010