SỐ 48 - THÁNG 10 NĂM 2010

 

Thơ Nguyên Bông

CHIỀU THU NHỚ

Tưởng đã quên đi, lại nhớ rồi,
Chiều vương nắng nhạt, lá thu rơi.
Trăng tròn vừa nhú mây che khuất,
Hai đứa...em, tôi hai hướng đời...
Khắp nẻo đường quê in dấu giày,
Đong đầy nỗi nhớ chẳng hề phai.
Tháng năm ôm mối sầu đơn quạnh,
Nên mỗi chiều lên vọng nhớ ai...
Miền xa rong ruổi bước quân hành,
Để chí tang bồng thỏa tuổi xanh.
Mỗi lúc trăng lên thường mộng tưởng,
Tim vàng trong một túp lều tranh...
Làm sao quên được những chiều mơ,
Đứng đợi nhau trong dáng thẫn thờ.
Nhìn lọn mây trôi về xứ lạ,
Dường như mang cả buổi thu chờ...
Nhớ một chiều xưa gặp giữa đường,
Lạnh lùng ai giận để buồn vương.
Trăng lên, ai khẻ đưa lời dỗ,
Hờn dỗi rồi ra cũng nhớ thương...
Ngày vui rồi cũng đã qua mau,
Vọng gác trèo lên ngồi đếm sao.
Kẻ nhớ người đi ngoài trận tuyến,
Chia đều nỗi nhớ chắc bằng nhau...
Bây giờ đã hết tuổi thơ ngây,
Kẻ nhớ người thương cứ giữ đầy.
Cái buổi xa nhau ai chẳng sợ,
Nên Chiều Thu Nhớ đuổi theo hoài...

 

ĐĨA BẠC TRUNG THU

Năm Em vừa bén tuổi mười lăm,
Cái tuổi tròn trăng mộng ước thầm.
Ăn bánh giao tình cùng đất nước,
Xách đèn tranh sáng với trăng rằm.
Chị Hằng len lén lay vầng nguyệt,
Chú Cuội mon men kiếm chỗ nằm.
Đĩa bạc Trung Thu ngày giữa tháng,
Lòng Em nôn đón mỗi hàng năm!

Trung Thu 2010

 

DÁNG THU

Thật khéo khen ai dựng cảnh hồ,
Hơi Thu lan quyện lớp sương mờ.
Hàng cây nghiêng bóng như tranh lộng,
Tầm gởi buông mình tựa liễu mơ.
Sóng nước lăn tăn ngàn ánh bạc,
Bèo mây lờ lững một trời thơ.
Bâng khuâng nhìn gốc ''bonsai'' đứng,
Nhớ dáng người xưa yểu điệu chờ.

22/11/09

 

VƯỜN YÊU BỎ NGÕ

Đem ‘‘Nàng Bế Nguyệt’’ của năm xưa, (*)
Để bắt đồng cân chắc cũng vừa!
Bể mắt, viền quanh hàng liễu rũ,
Vành môi, hứng trọn giọt mưa thưa!
Đong đưa võng tóc ru tình muộn,
Phẳng lặng hồ tim ngủ giấc trưa.
Ai đã biết yêu và biết mộng,
Vườn yêu bỏ ngõ đã vào chưa?

08/12/10

 

(*) Triều đình Hán Hiến đế (thời Tam Quốc) phải suy vi, bởi Đổng Trác và bè phái chuyên quyền, gây cho trăm họ lầm than, cơ cực!
Điêu Thuyền là dưỡng nữ và cũng là...‘‘con gái rượu’’ của Tư Đồ Vương Doãn, quan đại thần đương triều.
Theo truyền kỳ, Điêu Thuyền đang đi bái nguyệt ở hậu hoa viên, bất chợt có một cơn gió nổi lên thổi một tảng mây đến làm che khuất vầng trăng đang tỏa sáng khắp nơi. Kịp lúc Vương Doãn ra nhìn thấy cảnh đó bèn khoe với mọi người rằng con gái nuôi của mình đẹp đến độ...vầng trăng cũng phải trốn vào trong mây. Do vậy, Điêu Thuyền còn có tên là ‘‘Nàng Bế Nguyệt’’.
Điêu Thuyền theo ''Kế Liên Hoàn'' của cha nuôi, liếc mắt đưa tình cùng Đổng Trác, tên gian thần già nua nhưng háo sắc. Nàng cũng chuốc rượu, lả lơi cùng Lã Phụng Tiên, tự Lữ Bố vốn là một dũng tướng tiếng tăm lừng lẫy khắp chư hầu, phò trợ Hán triều giữ yên bờ cõi.
Lữ Bố lại là con nuôi của Đổng Trác. Một hôm, họ Lữ bắt gặp Điêu Thuyền ngồi trong kiệu hoa của họ Đổng nên chàng ta đem lòng đố kị, ganh ghét với cha nuôi. Sau đó, Lữ Bố tìm gặp Điêu Thuyền và trách hờn nàng là...‘‘gái hai chồng làm rối loạn gia phong’’!
‘‘Nàng Bế Nguyệt’’ đã không nệ dáng ngọc mày hoa, xem nhẹ tiếng đời dị nghị, quyết lấy trâm cài làm lợi khí để góp phần gìn giữ cho giang sơn nhà Hán thoát khỏi rơi vào tay của cha con lũ gian tặc phản thần.
Tiếng thơm lưu đến ngàn sau...

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2010