SỐ 62 - THÁNG 4 NĂM 2014

 

Thấy gì Sau Cơn Binh Lửa?

Ngày 19 tháng 4 năm 2014, Bút ký Sau Cơn Binh Lửa của tác giảSong Vũ Ngô Văn Xuân được ra mắt tại Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị San Jose với khoảng 200 chiến hữu và đồng hương tham dự, là một thành công đáng kể.

Là một phi công ngành Quan sát, chỉ tham dự hành quân không yểm trên khắp vùng trời Quân khu I và Quân khu II, sau khi đọc xong bút ký, tôi cảm nhận ngay sự may mắn đã dành cho ngành của chúng tôi trong cuộc chiến và tôi cũng thấy thương xót cho thân phận những người lính bộ binh với một chút hổ thẹn là vì mình đã không thật sự chia xẻ sâu xa những tận cùng gian khổ của người chiến sĩ Cộng hòa.

Một điều khẳng định là từng chữ từng dòng chân thật nồng nàn của bút ký đã lôi cuốn tôi đến trang cuối và mang đến cho tôi lòng ngưỡng mộ nhân cách của người lính trận Ngô Văn Xuân. Vậy tôi đã thấy gì Sau Cơn Binh Lửa?

Tập sách dày 517 trang, gồm 21 bài viết rời trong suốt 18 năm (1996-2014), nay gom lại để in thành sách, bìa màu xanh nhạt, dung dị và đơn giản như cuộc đời của tác giả, một lính trận, xuất thân Khóa 17 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam năm 1963, thăng cấp Trung tá tại mặt trận năm 1972, từ một Trung đội trưởng đi lần lên chức vụ sau cùng là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 44/ Sư Đoàn 23 Bô Binh. Nội dung Sau Cơn Binh Lửa cũng tuần tự đi theo mốc thời gian đó, qua các trận đánh cấp Đại đội tại Vùng 4 Chiến thuật, cấp Sư đoàn tại Vùng 2 Chiến thuật, liên tục từ năm 1963 cho đến ngày 30 tháng 4/1975, cả một Quân lực buông súng, buông cả miền Nam chìm ngập trong chia lìa tang tóc, uất hận và tù đày. Từ đó cho tận ngày nay.

Sau khi gấp sách lại, tâm trí tôi như còn ẩn hiện nhiều điều về con đường binh nghiệp của tác giả, sự lợi hại của các đơn vị trinh sát của các Sư Đoàn BB của ta, những trận đánh đẫm máu từ đồng bằng đến cao nguyên, cách huấn luyện xử dụng B40, B41 tịch thu của địch để diệt tăng địch, tạo nên một Kontum kiêu hùng trong mùa hè đỏ lửa 1972, những mưu toan trong hiệp định Ba lê, những sai lạc trong kế hoạch phòng thủ và tái chiếm Ban Mê Thuột đưa đến những oan nghiệt trên Liên tỉnh lộ 7B ngày nào, chuyện cơ hàn và kiết lỵ trong trại tù cộng sản, đức tin và ông Phật Dược Sư, chuyện lưu lạc xứ người và sau cùng là nổi lo sợ về dã tâm từ phương bắc, v.v..

Qua biết bao sự kiện bi hùng và gian truân như vậy, trong tâm tưởng của tôi in đậm một nén tâm hương của người lính trận Ngô Văn Xuân dành cho đồng đội của mình và nỗi đau quặn của tác giả về họa phương bắc đối với Tổ quốc Việt Nam hiện nay.

Vâng,tình đồng đội là nỗi day dứt và thương cảm bất tận trong tâm tư của tác giả qua các bút ký Trungđoàn 44 trong mùa hè đỏ lửa (p53),Sông Mao, những ngày tháng cũ(p105),Viết về các chiến hữu của tôi (p129),Đồng đội(p159) và Trời mưa nhớ bạn (p171 )v.v...: “Máu đồng đội của tôi đã tô thắm mãnh đất quê hương điêu linh khốn khổ này để cho chúng tôi, những người lính sống sót trong cuộc chiến còn có dịp viết và nói về họ. Thời gian sẽ trôi qua rất nhanh nhưng hình ảnh các đồng đội của tôi sẽ còn mãi mãi trong tâm tư những người còn lại hôm nay và sẽ được biết tới và tri ân bởi các thế hệ con cháu kế tiếp” (p126).

Theo năm tháng, nỗi thương cảm ngày càng xót xa về thân phận người lính chiến QLVNCH: “Đời lính chiến là cuộc hành trình vòng tròn: trại lính –mặt trận – nhà thương. Cái chết đối với lính có khi là một cách giải thoát”(p184).

Vì cùng chung một màu cờ, một nghĩa vụ, một sợi chỉ mành bất trắc đang rình rập và một kẻ thù hung hiểm, nên người lính sống là sống thật với mình và đồng đội của mình, do đó, tình đồng đội trong Sau Cơn Binh Lửa là có thật, sống động, và tận cùng, chứ không bị giới hạn bởi tính cục bộ như nguồn gốc quân trường, quan hay lính...Một Võ Thừa Tự, đồng môn K17 của tác giả, “đã ôm mặt khóc nức nở khi nhìn tôi nằm bất động chờ tản thương, máu thấm đầy ngực áo trong trận đánh trên kinh Một Thước Đồng Tháp năm 1965 ngày nào “Vũ ơi, mầy đừng có chết nghe”(p162) đến một Võ Ân, K12 Võ khoa Thủ Đức, từng chiến đấu can trường tại mặt trận Cao nguyên, đặc biệt trong trận giải vây Ban Mê Thuột, bỗng đột ngột qua đời tại miền Tây bắc Mỹ, gây xúc động sững sờ và tác giả nhớ lại những ngày sống chết bên nhau, với cảm nhận hết sức trung thực và công bình về vị Trung tá Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 53BB nầy: “Anh là một trong những anh hùng quân đội thực sự làm tôi kính phục. Can trường, bình dị, thẳng thắn là đặc tính của anh” (p145).

Là một cựu tù chính trị, đã trải qua các trại tù ngoài Bắc cũng như trong Nam với tác giả, chúng tôi đã chứng kiến biết bao tình cảnh bạo ngược, uất nghẹn, đôi khi dở khóc dở cười. Một tên cai tù tập họp tù nhân để phát thư nhà, hỏi: anh nào là người nhà của Hé lè ne? (p355). Tôi hỏi lại, anh nào là người nhà của He lè ne? Dĩ nhiên là không có tiếng trả lời. Nhưng khi tên cai tù nhìn lại phong thư rồi lẩm bẩm: Sao kỳ vậy, rõ ràng tên người gởi như vậy, người nhận là Nguyễn Văn Tuấn đây nầy, tức thì người tù cựu Đại úy Nguyễn Văn Tuấn đứng ra nhận thư của vợ mình tên là Hélène, từ Pháp gởi vô trại giam thăm chồng!

Những kẻ ngây ngô như vậy đã thắng trận, họ thắng không phải bằng chính nghĩa, mà bằng sự ngu muội, dối trá tàn ác, thế mới có chuyện tháng Tư đen. Theo Song Vũ thì “Tháng tư nào từ sau năm 1975 cũng là một tháng tư buồn cho dân tộc. Nó là khởi điểm của một tiến trình mất nước thực sự” (p272) và tác giả đã thốt lên “Quê hương ơi, hãy khóc lên đi, một lần thương cho thân phận mình. Bởi vì biết đâu, mai đây cả tiếng khóc nghẹn cũng sẽ bị cấm đoán”(p273).

Dù vậy, tác giả Sau Cơn Binh Lửa vẫn tự hào về những người con thân yêu của Tổ quốc. Ông viết: “Cũng còn may cho chúng ta trong những giờ phút bi tráng nhất của lịch sử dân tộc trong tháng Tư năm ấy. Chúng ta cũng đã có những gương hy sinh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Trong quân sử VNCH, chúng ta sẽ mãi mãi tự hào về những tướng lãnh vị quốc vong thân trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến: Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú và những sĩ quan, hạ sĩ quan binh sĩ khác được biết đến tên tuổi hoặc vô danh”. (p131).

Người lính trận Song Vũ Ngô Văn Xuân, đã từng sống chết với đồng đội của mình, đã tận trung với lý tưởng bảo quốc an dân, ba lần bị thương, hai lần thăng cấp mặt trận, dù vậy, khi thua trận mất nước, người lính vẫn nhận trách nhiệm của mình: “...toàn thể những ai còn nhận mình là người quốc gia đều có lỗi. Lỗi nặng nhẹ tùy tùy theo vị trí và vai trò của mình trong hàng ngũ chiến đấu” (p130).

Lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm lúc nào cũng được trân quý. Và tôi tin rằng, những cựu chiến sĩ Quân lực VNCH và gia đình họ nói chung, những chiến hữu từng tham dự các trận đánh ở đồng bằng cũng như cao nguyên nói riêng, cũng sẽ trân quý Sau Cơn Binh Lửa, vì đó là xương thịt, là máu huyết, là tim óc và nhất là, tính nhân bản của người chiến sĩ QLVNCH, cách riêng, của cựu SVSQ K17 Ngô Văn Xuân, tác giả bút ký.

KQ võ ý
Corona, CA, 04/19/2014

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2014