Nguyễn Du (36)        
              Hoàng Thiếu Khanh
              Độ  Hoài, hữu cảm Hoài Âm Hầu tác
              Tầm thường nhất phạn báo thiên  câm
                Ngũ tải quân thần phận nghị thâm
                Thôi thực giải y nan bội đức
                Tàng cung phanh cẩu diệc cam tâm
                Bách man khê động lưu miêu duệ
                Lưỡng Hán sơn hà biến cổ câm
                Trù trướngg giang đầu tư vãng sự
                Đoạn vân suy thảo mãn Hoài âm
              Qua  sông Hoài cảm tác Hoài Am Hầu
              Nghìn vàng đem báo một chén cơm
                Tình nghĩa quân thần thật quá  thâm
                Áo xẻ cơm nhường ơn khó bỏ
                Cất cung giết chó cũng cam tâm
                Dân thường khe động con cháu lẫn 
                Hai Hán triều vua thay cổ kim
                Đầu song ngùi nhớ bao tích sự
                Mây cỏ tơi bời nhớ Hoài Âm
                (HKK )
              Chữ Kim còn được phát âm là câm  như chữ Tàu Quảng Đông.
              Hoài Âm Hầu tức Hàn Tín là một  nhân vật nổi tiếng thới Hán.
              Người Hoài Âm, sau được Tiêu Hà tiến  cử làm đại tướng, giúp Hán Cao Tổ dựng cơ đồ, lập được nhiều công trạng và được  phong chức Tề Vương rồi Sở Vương.
              Hồi trẻ, bần hàn, được Xiếu Mẫu  đãi cơm ăn. Sau khi lên tướng, vời Xiêu Mẫu về dinh, báo đáp nghìn vàng.
              Sau có người cáo gian cho là phản  phúc, bị Hán Tổ bắt và giáng chức làm Hoài Âm Hầu.
              Tàng cung đây chỉ giấu cung tên  của tướng tài sau khi công thành danh toại và tìm cách hại công thần
                Phanh cẩu nghĩa là giết chó.
              Tương truyền sau này khi Hàn Tín  bị nạn, hai người bạn là Tiêu Hà và Khoái Triệt giấu nàng hầu của ông lúc bấy  giờ đang có thai nên sau này mới có con nối dõi.
              Độ  Hoài hữu cảm Văn Thừa Tướng
              Sơn hà phong cảnh thượng y nhiên
                Thừa tướng cô trung vạn cổ  truyền
                Nhất độ Hoài Hà phi cố vũ
                Trùng lai giang tả cánh hà niên
                Ai trung xúc xứ minh kim thạch
                Oán huyết quy thời hoá đổ quyên
                Nam Bắc chí kim vô dị tục
                Tịch  dương vô hạn vãng lai thuyềnị 
              Qua  sông Hoài cảm nhớ Văn thừa Tướng
              Núi sông phong cảnh vẫn y nhiên
                Thừa tướng lòng riêng vẫn tục  truyền
                Một lúc qua sông Hoài sông mưa cũ  lấp
                Bao giờ mới lại cõi Giang Nam
                Lời thơ thương cảm kêu vàng đá
                Máu hận bây giờ hoá đổ quyên
                Nam Bắc đên nay chưa dễ tiếp
                Trời chiều vô hạn đến bên thuyền
                (HKK  )
              Sông Hoài là con sông dài thứ ba  sau Hoàng Hà phía Bắc  và Dương Tử phía  Nam, nằm giữa hai sống này, bắt nguồn từ núi Đồng Bách Sơn tỉnh Hà Nam, chảy về  phương Nam Đông Nam. 
              Văn Thừa Tướng tức Văn Thiên  Tường, hiệu Văn Sơn người đời Tống. Khi quân Nguyên vượt sông tiến xuống Nam,  Văn Thiên Tường khởi binh chống cự, được phong chức Hữu Thừa Tướng. Sau bị bắt  giam ở Yên Kinh, bị giam bốn năm. Sau đó không khuất phục nên bị giết. Lúc đó  mới vừa bốn mươi bảy tuổi.
              Lúc bị giam cầm, ông có làm  nhiếu bài thơ mà nỗi tiếng nhất là hai câu:
              Tòng kim biệt khước Giang Nam lộ
                Hoá tác đề quyên đới huyết qui,  có nghĩa là:
              
                
                  - Từ nay cách trở Giang Nam lộ
                    - 
                    Sẽ biến hoá chim quyên khóc máu về. 
                
               
              Hoàng  Hà
              Nhất khí mang mang hỗn độn tiền
                Kỷ lai vô tế, khứ vô biên
                Thiên hoàng cự phái cữu thiên lý
                Thánh chủ lưu kỳ ngũ bách niên
                Hoài cổ vị năng vong Hạ Vũ
                Chí kim thuỳ phục tiễn Trương  Khiên
                Thu trung khả hữu phù sà quá
                Ngã dục thừa chi tái thượng  thiên
              Sông  Hoàng Hà
              Khi trời đất còn là một khối hỗn  mang
                Sông chảy từ đâu và sẽ qua đâu  ai nào biết
                Từ trời chảy xuống có đến chin  ngàn dặm
                Cứ năm trăm năm lại có điềm  thánh chúa ra đời
                Nhớ việc xưa nào quên được vua  Vũ đời Hạ
                Đến nay ai còn khen công của  Trương Khiên?
                Giữa thu nếu có được bè đi qua
                Ta cũng muốn cởi bè lên trời như  người đời trước 
              Hoàng  Hà 
              Trước thủa hang mang hỗn độn  thời
                Từ đâu chảy đến để trôi khơi
                Thiên Hoàng xuất phát chin nghìn  dặm
                Thánh chúa năm trăm năm ra đời 
                Chuyện cũ khó quên vua Hạ Vũ
                Trương Khiên công cũ nhớ còn ai
                Giữa thu nếu có bè qua đó
                Ta cũng mong lên đến cõi trời 
                (HKK )
              Thiên Hoàng là tên một sao trên  trời gần song Ngân Hà. Cón có nghĩa là ao trời.
              Tương truyền ngày xưa cứ mỗi năm  tram năm, nước song Hòang Hà lại trong, báo hiệu có thánh chúa ra đời.
              Vua Vũ đời Hạ, đào kinh, mở  lạch, giúp nạn lut lôi cho dân hằng năm.
              Trương Khiên người đời Hán theo  Vệ Thanh đánh Hung nô, được phong tước Hầu. Ơng theo giòng soông Hoàng Hà chinh  phục nhièu nước ở tây Vực.
              Hai câu cuối nhắc đến bài thơ Lý  Bạch có câu “Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai…Bôn lưu đáo hải  bất phục hồi”
                (Anh có thấy không nước sông  Hoàng Hà từ trời đổ xuống. Chảy xuôi về biển không về)
              (Còn tiếp)
                Hoàng  Thiếu Khanh