SỐ 70 - THÁNG 4 NĂM 2016

 

TẠP GHI THÁNG TƯ

Tôi thường nghĩ, lớp người xấp xỉ sáu bó rưởi hay hơn như tôi, ai cũng có ít nhiều tình cảm vui buồn về những dự tính, việc phải làm để chuẩn bị cho lúc hồi hưu mà chúng ta vẫn thường gán cho cái “Mỹ” từ nghe tới ai cũng (hơi bị) nhảy nhổm nếu đang làm việc cho công ty lớn: downsizing.

Hai năm trước, trận bão tuyết thổi qua Song Thành vào giữa tháng Năm đã là giọt nước làm tràn ly. Bầu bạn vùng ấm áp vui mừng hay tin vợ chồng “người tuyết” chúng tôi quyết định “gác mái ngư ông”, sẽ chèo chống xuôi Nam khi tới ngày “tơi nón” về vườn.  

Ba tháng sau chúng tôi đứng giữa khoảnh vườn xinh ngập nắng của ngôi nhà nhỏ nhắn vừa ký mỏi tay mua (để đó) chờ hưu. Lần đầu tiên vợ chồng cùng nhắc tới chữ “downsizing” khi nghĩ tới ngày phải từ giã ngôi nhà gia đình đang vui sống từ nhiều năm qua trên “nóc nhà băng giá” của nước Mỹ.

Người xưa uốn lưỡi sáu bảy lần trước khi nói, còn tôi thời gian đó lại thường “suy nghĩ đắn đo”, chờ gom vài ba việc vào một “chuyến” trước khi quyết định leo cầu thang lên tầng trên. Suy nghĩ riết rồi đưa tới thói quen, hay “bày ra cái tật” như lời vợ tôi, đi làm về không chịu lên phòng thay áo mà chỉ treo vắt lung tung ở tầng dưới chờ giờ đi ngủ mang lên luôn thể.  Nhà tôi vừa càu nhàu vừa “tha” mớ áo quần lên lầu. Trông tới sang năm, ở nhà trệt cho ông khỏi có lý do đổ thừa.  

Lần đầu tiên sau hơn nửa đời người sống ở Mỹ, chúng tôi mở garage sale sau mấy tuần bận rộn chuẩn bị. Lúc đầu tôi nghĩ cứ “thẩy” đại mấy món đồ không xài ra garage là xong, thế mà hóa ra khó không ngờ. Nhiều lần cầm một món đồ cũ trên tay, vợ chồng quên lửng chuyện đang làm, mải mê nhớ về những nơi chốn đã đi qua, về tháng ngày còn xuân trẻ trên vùng đất mới.  Con cái sinh ra, lớn lên, thành toại, bay xa, rồi gầy dựng gia đình cho riêng chúng. Vòng luân sinh hạnh phúc đong đầy kỷ niệm, cho nên có khi một món đồ tưởng nhỏ bé tầm thường chợt quý báu như có dát bạc dát vàng.

Tôi vẫn cho là mình không đến nỗi vụng tay lắm nhưng đành phải thú nhận mỗi lần cầm tới kềm búa là “không có máu không ăn tiền”. Lựa soạn đống vật dụng lỉnh kỉnh trong nhà, có lúc vợ chồng sực đứng cười huề với nhau lúc nhớ lại hoạt cảnh bà khuân ra ông vác vô hay ông bưng ra bà xách vô. Cuối cùng thì  mớ máy móc dây nhợ của tôi, có cái còn trong hộp, cũng nằm yên vị trên bàn chờ nhập cuộc hoán luân cùng với cái máy may mà nhà tôi suốt thời gian hơn hai mươi năm đã họa hoằn mang ra xài tới… hai ba lần chi đó.

Garage mở rộng cửa, gió lùa vào lành lạnh. Tôi nhìn theo cặp vợ chồng trẻ nắm tay nhau bước ra xe, cùng vui mừng đắc ý tìm được món cần thiết cho con còn nằm trong bụng mẹ.

Lá phong rụng vàng theo bước chân. Vịt trời quang quác từng đàn bay về phương Nam. Mùa Thu của đất trời đang trở về. Mùa thu của đời người sinh lão đang tới. Từng cánh lá bịn rịn rời cành… Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông (Tỳ Bà – Bích Khê)

Phải chăng bởi tương tư mà lá vàng rụng rơi từng cánh, hay chính từng chiếc lá rơi đã mang theo mối cảm hoài của người mà trải giăng theo ngọn thu phong…Tương tư hoàng lạc diệp (Ký viễn – Lý Bạch). Lòng bàng hoàng câu thơ cổ…Ngô đồng nhất diệp lạc. Thiên hạ cộng tri thu. Ngô đồng một chiếc lá rơi. Người người đã biết mùa Thu đang về. Người của đời nay và bảng lảng bóng người thơ buổi Thịnh Đường xưa.

Quế phách sơ sinh thu lộ vi
Khinh la dĩ  bạc vị canh y
Ngân tranh dạ cửu ân tình lộng
Tâm khiếp không phòng bất nhẩn quy  

(Thu dạ khúc - Vương Duy)

Sương thu lãng đãng  trăng non
Phai màu lụa mỏng áo còn chưa thay
Đàn tranh thoảng khúc đêm nay
Phòng không ngần ngại chẳng quay gót về

Buổi sáng thức dậy ngồi nhìn ra khoảnh vườn loáng thoáng trời xanh sau tàng lá rậm, tôi chợt nhớ ra tháng ngày hưu trí của mình nơi căn nhà mới đã sè sẹ kéo nhau qua mùa Đông đầu tiên không tuyết lạnh sắt se. Mỗi ngày chừng như qua đi rất vội lúc nào chẳng hay. Nhà tôi cười mỗi lần nghe chồng ca cẩm về những bận rộn không cần thiết, nhiều khi vô cớ cứ dồn tới…

Tôi ngước nhìn ánh nắng đầu ngày chiếu xiêng qua rặng dương lá chắn xanh rì, lòng bồn chồn với ý niệm thời gian qua mau. Khóm hoa thục quỳ góc vườn nhả hoa vàng như nắng rớt. Hay chỉ là chút vàng phai của ngày sắp sửa đi qua?

Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại. 
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu...
(Bùi Giáng)

Mùa của đất trời trôi qua, và qua đi những người thân quen nối nhau chìm khuất mùa đời.

Ông thầy cũ dạy Toán thời trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, cũng là thi sĩ Trần Hoan Trinh qua đời. Ông đã ngàn năm ở lại với phấn trắng, bảng đen, với sân trường lá rụng.

Cho ta hóa đá sân trường
Để mai sau vẫn vui buồn bên em.

Thơ Trần Hoan Trinh quen thuộc với bạn đọc ở vài báo mạng. Một trong vài bài thơ cuối của thi sĩ Trần Hoan Trinh có những dòng như trăn trối.

Ta giận mình bạc bẽo vô duyên
Gặp gỡ nhau rồi để lãng quên
Tráng sĩ cũng đành thôi bẻ kiếm
Anh hùng về vẽ mắt  thuyền quyên…
Thì chỉ là chuyện đời đó thôi
Sao buồn như nhắp chén ly bôi
Sao nghe cuối đáy lòng chua xót
Như bị người yêu phụ bạc rồi

Thôi đành mượn thơ thầy khóc bạn năm nào để tiển biệt thầy về chốn bình an.

Ngươi đã đi, mai ta sẽ đi!
Trần gian này sinh ký tử qui
Bạn bè xưa ấy còn bao đứa !?
Thôi hẹn THIÊN ĐƯỜNG ngộ cố tri

Thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn qua hết đời mình ở Phan Thiết. Những dòng thơ khinh bạc của tháng ngày chinh chiến cũ vẫn còn đây mà hồn thơ đã theo về cát bụi. Vào những năm còn chiến tranh, ở Miền Nam có người đã ví von Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đức  Sơn là “Tứ trụ thi ca”. Với tôi Nguyễn Bắc Sơn nên được đưa vào, thêm chân cho phong phú vững chải hơn nền thi ca đầy nhân chủ sáng tạo miền Nam.

Mai ta đụng trận ta còn sống
Về đến sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui…

Tháng Giêng ngồi quán quán thu phong
Gió Nhạn Môn Quan thổi chạnh lòng
Chuyện cũ nghe đau lòng tứ xứ
Thương Kiều Phong, nhớ tiếc Kiều Phong…

Mắt người như cánh hoa sen xanh
Mắt của rừng mai mắt của tình
Một sáng ta về ngây ngất nhớ
Âm thầm thu phát những âm thanh…

Ý nghĩ về thơ ca miền Nam như sóng kỷ niệm mang mang vang vọng tiếng triều dâng của dòng sông lưu lạc quê nhà. Dòng sông trôi, đẩy nhịp hư vô cuốn trả cơn mơ bất tận kiếp người về lại với cảnh đời dâu bể.

Giòng nước bạc giòng sông trôi theo dõi.
Cuối chân trời hình bóng một chân mây.
Đời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lại.
Giữa hư vô em giữ  nhé chừng này...
(Bùi Giáng)

Giữa  hư vô tịch mịch biết nơi đâu là nguồn xưa cội cũ.  Con mắt chiêm bao của chàng thi sĩ đã bừng lên con nước bạc lênh đênh.  Hồn thơ người tự bao giờ vẫn mãi là dòng sông chảy giữa hư vô.

Và thế đó, những hồn thơ rợp bóng Đông Tây đã có lần gặp gỡ bên nguồn nước uyên nguyên. Chàng thanh niên Langston Hughes đứng bên bờ Mississipi nhìn  thấy dòng nước ngập phù sa chợt rực vàng dưới ánh tà dương để rồi cảm thấy linh hồn mình cũng trở nên sâu thẳm như sông.

Chàng biết rõ những dòng sông. Những cánh đồng bông trắng, tiếng hát đen ru đời nô lệ, tiếng kèn nấc nghẹn bên bờ New Orleans, túp lều của chú Tom rệu rã cuối dòng.

I've known rivers
I've known rivers ancient as the world and older than the
flow of human blood in human veins.
My soul has grown deep like the rivers...

I heard the singing of the Mississippi when Abe Lincoln
went down to New Orleans, and I've seen its muddy
bosom turn all golden in the sunset.

Đất trời quê mới Georgia đang chuyển mình qua Xuân ấm áp,  thế mà ở Song Thành Minnesota quê cũ, người thân quen gọi than vãn tuyết vẫn còn rơi dồn trắng xóa.  Trên “phố rùm” nhóm bạn HQ ơi ới hẹn nhau gặp mặt ở D.C. ngắm hoa đào nở.

Buổi sáng Starbuck, ngồi ngoài trời nhâm nhi cà phê với bạn bè tôi thường hồi tưởng  những sớm Minnesota lạnh cóng vội vã thổi tuyết dọn lối lái xe chuẩn bị đi làm. Có lần dừng tay nghỉ mệt, đứng nhìn cây đào trơ cành  khẳng khiu còn ngập trong tuyết mà vẩn vơ về nỗi vui mỗi mùa sang nhìn được nụ hoa đầu. Có lẽ chẳng khác chi nhau về niềm vui rộn ràng lúc bạn bè ngắm nhìn cả rừng hoa đào rực rỡ đất trời kinh đô hay lúc tôi e dè săm soi chỉ vài nụ e ấp hiếm hoi  trên cành còn tuyết đọng.

Vài năm trước, có lần nhà thơ trưởng bối Cung Trầm Tưởng ghé nhà chơi đã trầm trồ khen. Ở trên này mà cậu trồng được đào nở hoa thì hay quá!  Câu chuyện theo chiều, chúng tôi nhắc tới những nhà văn, nhà  thơ trưởng thượng khác đã như chim trốn tuyết bay hết về xứ ấm. Chỉ còn lại mình ông như hình ảnh của cánh hoa đào trên tuyết. Lẻ loi chăng? Hay chính là tấm lòng an nhiên tự tại của một hồn thơ...“Đêm qua sân trước một cành mai”, tiếng ếch bên tai, tiếng gọi đò bên sông, cô em mọi nhỏ, ga tàu đèn phố… hình ảnh tưởng hoang mang sương sớm, hoang dã nương rừng khe suối, mờ mịt đêm thâu lại là bờ giác bến ngộ mà người thơ như Mãn Giác Thiền Sư, Trần Tế Xương, Bùi Giáng, Cung Trầm Tưởng… trước hơn ai hết đã thấy được, nghe ra tiếng thầm của một hữu thể xa xăm vô hình như “phận ta đang trôi im trên một dòng sông vô thường, liên miên tĩnh động” (CTT).

Đời người. Một hành trình thơ hơn sáu mươi  năm. Bắt đầu từ Thượng du Bắc Việt 1948 với lời thơ lục bát kỷ hà nguyên vẹn.

Hồn tôi cái đĩa thầu thanh
Tròn nguyên nét nhạc, trung thành ý ca.
Đồ rề mi fa sol la…
Ngẫm từng âm điệu nghe ra chiều buồn

Lục bát thời “Sóng Đầu Dòng” của CTT đã miên man vỗ nhịp thường hằng mà theo như nhà thơ Viên Linh, nó đã vỗ cao tới đỉnh cô phong. “ Lục bát làm tới chổ đó là tới chổ Không Lộ hành Thiền tới đỉnh cô phong; giờ đây ta vẫn còn nghe một tiếng hú dài.” (VL)

Mưa rơi đêm lạnh Sài gòn
Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi
Mưa hay trời cũng thế thôi
Đời nay biển lạnh mai bồi đất hoang
Hồn tu kín xứ đa mang
Chóng hao tâm thể, sớm vào lượng xuân
Niềm tin tay trắng cơ bần
Cuối hoàng hôn lịm bóng thần tượng xưa
Đêm nay trời khóc trời mưa
Gió lùa ẩm mục trời đưa thu về
Trời hay thu khóc ủ ê
Cổ cao áo kín đi về đường tôi

Hành trình thơ dừng lại trên vùng đất lưu cư Song Thành, xứ Vạn Hồ với lời “Kết từ” vươn dài thành dòng thơ tám chữ.


Hồng cất cánh từ chon von đỉnh gió
Vỗ dạt dào một chuyến viễn du xanh
Về chốn lứa hương ngon và trái ngọt,
Những cơn mưa ấm nhú mộng đời lành.
Kể từ đó trên phong nhiêu Trái Đất
Những mùa vàng ủ đợi cuối đường hoa.
Không gian xanh gió lộng nắng chan hòa
Giục giã bước người đi làm lịch sử.
(Saint Paul, 2008)

Giữa cuộc hành trình, có khoảng thời gian hơn hai mươi năm đất nước cắt chia, nhà thơ CTT làm thơ bằng tay phải hoặc có lúc làm thơ bằng tay trái. Sau tháng Tư bảy lăm là hơn 10 năm tù ngục lưu đày, hai tay bị còng thì có “Lời Viết Hai Tay”.  Dòng thơ nối tiếp theo thành “Bài Ca Níu Quan Tài” viết về “thảm họa mà người cộng sản VN đã gây cho chính dân tộc của nó trong hơn nửa thế kỷ qua”.

Thời gian cải tạo lao khổ khiến thơ  CTT quánh màu hiện thực.

Áo tù thẫm máu đôi vai
Bàn chân nứa chém, vành tai gió lùa
Ngó tay bỗng thấy già nua
Cứa êm thân xác mấy mùa thu qua
Môi cằn, má hóp thịt da
Ngô vơi miệng chén, canh pha nước bùn
Ðêm nằm ruột rỗng vai run
Ðầu kề tiếng suối, chân đùn bóng đêm  
 

Tuy thế  lục bát CTT vẫn ngất ngưởng một giấc mộng đầy.

Sớm đi đội gió đỉnh đầu
Tưởng như hồn chết giữa vầu nứa khô
Ðường lên dang nứa nhấp nhô
Ngả nghiêng mây núi, lệch xô đất trời

Tâm thức thi ca mới trong ông vẽ ra hình ảnh “ Người thơ tù "cải tạo" bây giờ, một nạn nhân kiêm chứng nhân, nói lên tâm thức cộng đồng của những người tù cải tạo. Cái tâm thức sâu thẳm, lên men từ khổ đau, thúc trướng bởi bản năng tập quần, xúc tác ra một nhân gian thuần nhất, nền cộng hòa của những người anh em đồng cảnh, những người tù cùng khổ."

…Thế nên dẫu phải chân kìm kẹp
Tôi vẫn đi bằng lòng bỗng bay.
Vẫn cất hồn lên tìm ánh sáng
Xa vùng cát lún, bãi lầy sâu
Ðêm đêm thơ giống như cờ tưởng,
Bầy chữ tung tăng múa ở đầu.
Ngữ điệu ngân nga, vần réo rắt,
Nàng Thơ gióng trống giục ran lòng.
Đau thương mồi bén lên tư tưởng,
Thép đã tôi rồi, đố bẻ cong!
Nếu giữa cơn đau tôi ngã xuống,
Vết thương bầm tím máu hình hài,
Lòng tôi vẫn đứng không lùi nhượng,
Gối chẳng quì hàng, miệng chẳng khai…
(Lời viết hai tay)

Ngày cuối tháng Tư lại đến với đất nước. Viết ra đây cảm nghĩ mạo muội của mình về dòng thơ tù CTT là chính để tôn vinh Sự Sống như nhà thơ đã nói. “Thơ trong tù, một dòng thơ trực tiếp; một tiếng hát cất từ trái tim đến thẳng trái tim; một hàm ca xoáy sát đáy đời; một kinh cầu cho hồn ngoại đạo; một mò mẩm Khải Huyền. Một thách đố Thần Chết và tôn vinh Sự Sống”.

Phan Thái Yên

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2016