Về một đại đội cũ
              Trần Hoài Thư
              Kính dâng huơng hồn anh Hồ văn Hoà 
              Trong đêm xứ người, nói gì về những người muôn năm cũ. Hai đứa chúng tôi  như rưng rưng để nhớ về những đồng đội cũ của mình. Tôi hỏi anh Hòa về những gì  anh biết về đại đội 405 thám kích. Bộ quân sử không nói về 405. (Nếu có, chỉ ba  giòng trong trận đánh năm Mậu Thân). Quân đội miền Nam cũng chẳng bao giờ nhắc  đến một 405.
              Nó vô danh. Nó đánh giặc không phi pháo dọn đường, không được yểm trợ tối đa  như những lực lượng tổng trừ bị. Nó là những tổ 3 người, những toán 4 người,  mang trên vai những ba lô với mười mấy ngày lương khô xâm nhập trong lòng mật  khu. Thế giới của nó là những cánh rừng thâm u, những ngôi làng sâu trong rừng,  những con đường mòn xâm nhập của địch. Nó không cần ai biết. Nó buồn như thế  đó. Lạc loài như thế đó. Nó lầm lì như thế đó. Nhưng tại sao, anh và tôi lại phải  giữ gìn như giữ gìn những gì trân quí nhất ?
              Viên cựu đại đội trưởng 405 TK nhắc lại một Y Đao như một con sóc rừng. “… Y  nhanh lẹ không thể tưởng. Người y, khi mang ba lô 17 ngày lương thực, không thấy  người, chỉ thấy cái ba lô. Còn hạ sĩ Nùng Lương văn Tướng, ông ta nói tiếng Việt  vẫn còn lắp bắp, mặt lúc nào cũng lầm lì.
              Ông ta còn có biệt danh là ông Tướng giải phóng. Tại sao là giải phóng, Thư biết  không?.” “Thưa đại bàng, tôi không được biết”. Tôi trả lời. “Số là hôm ấy, toán  ông bị phát giác. Lính Bắc hỏi : Ai đấy ? Ông Tướng lính quýnh trả lời: Biệt  kích Giải phóng. Trời ơi, VC làm gì có biệt kích. Còn trung sĩ Tám, trung sĩ  Khoái, trung sĩ Đặng, hạ sĩ Dự, hạ sĩ Lực, còn chuẩn úy Bùi Toàn Hảo, chuẩn úy  Âu Hoàng Minh, chuẩn úy Phan Thái Gia, chuẩn úy Nguyễn Thái Lâm …”
                Anh kể như thuộc lòng. Đó là điều hiếm hoi cho một người đã trải qua rất nhiều  đơn vị. Nó chứng tỏ đại đội 405 là một dấu ấn đậm sâu vào tâm trí của một người  lính cũ. Nó chứng tỏ, anh đã có một nơi để tự hào trong đời binh nghiệp của  anh.
              Rồi anh Hòa nhắc lại hạ sĩ Y Brep và hạ sĩ Ba. VC trồi lên đánh cận chiến. Thằng  Y Brep quạt Thompson bảo vệ anh, thằng Ba xô anh xuống hố. Và kết quả, Hạ sĩ Ba  chết, và Y Brep bị mù một con mắt.
              Tôi lắng nghe tiếng anh nghẹn lại. Vâng, tôi cũng vậy. Anh nói rằng, những người  lính 405 anh hùng quá, dũng cảm quá, anh chưa bao giờ thấy đơn vị nào mà tất cả  đều cùng một lượt xung phong lên đồi cỏ tranh, đứng thẳng mà tiến lên. Anh chưa  bao giờ thấy một đại đội lại đánh tan tành một tiểu đoàn… Vâng, anh kể lại thời  của anh từ 1963 đến 1964, và tôi kể lại thời của tôi từ 1967 đến 1971. Anh làm  tôi nhớ lại hạ sĩ Đông mang máy truyền tin. Đông cũng cõng tôi mà chạy dưới bao  lằn đạn. Và ông Y Suk đã cứu tôi thế nào trên đỉnh Kỳ Sơn.
              Tôi cũng muốn nói về cái uy danh của đơn vị, khiến lúc đơn vị bị vây khỗn, ngỡ  chừng như tuyệt vọng, nhưng địch vẫn không dám ùa ra cận chiến…
              Đêm nay, quê người, và hơn 30 năm xa cách cho hai cánh diều hâu bỏ đàn bỏ tổ.  Những giọt lệ bỗng nhiên lại thêm một lần chảy lạnh cả tâm hồn. Người sống nhớ  về người đã chết. Người may mắn nhớ về người không may mắn. Nguồn cội từ một  mái nhà được phanh ra, để cùng nhau tự hào và cũng để cùng nhau mà khóc thầm.  Những con người, không bao giờ nhìn lên, mà chỉ nhìn xuống, cam phận. Có ai còn  nghĩ đến họ. Nghĩ đến một người như hạ sĩ Ba chịu hứng đạn thù để cứu một đại đội  trưởng , để anh còn sống, để anh được cơ hội nhận hai lần thăng cấp tại mặt trận  chỉ trong vòng hai tháng từ một ông tướng khó nhất là tướng Đỗ Cao Trí.
              “Thư à, lon mình không phải do tướng Đỗ cao Trí gắn mà là do hạ sĩ Y Brep, hạ  sĩ Ba gắn…”
              Cám ơn anh Hoà đã nhắc lại thời kỳ đầu tiên của một đại đội. Khi tôi hỏi  anh một câu mà tôi nghĩ là quá thừa: Anh nghĩ thế nào về đại đội mình. Bên đầu  dây xa, giọng anh ấy trở nên phấn khích: Đó là một đơn vị chỉ biết chiến thắng.  Anh kể lại những địa danh rừng núi. Những mật khu, đặc khu. Những đồi tranh, và  những trận đánh ác liệt. Anh lại kể lần tướng Đỗ Cao Trí, tướng Linh Quang  Viên, đáp xuống ngọn đồi mà đại đội vừa chiếm lại giữa ầm ầm tiếng pháo, và la  liệt xác phe bên kia. Tôi cũng kể lại những nồi cơm mà Bắc quân bỏ chạy còn nấu  lỡ dở, trong những đêm chúng tôi đột kích mật khu ở Bình Định. Tôi nói suốt hơn  bốn năm, đại dội không cho phép bất cứ một trái pháo nào lọt vào Bộ Tư Lệnh. Vì  sao? Vì địch là ma, ta cũng là ma. Chúng tôi cùng nhau cười ha hả. Anh lại nhắc  đến công trạng của thiếu úy Đặng đức Thành, người khai sinh ra đơn vị Biệt kích  Sư đoàn, tiền thân của đại đội 405 thám kích. Anh còn nói nhiều nữa. Chính cái  cái khăn quàng đen mà tiểu đoàn 35 Biệt Động Quân mang là biểu tượng truyền thống  của đại đội 405 Thám kích sư đoàn 22 BB:
              “Thư à, mình phải kể cho Thư nghe, ngày về nhận tiểu đoàn 35 BĐQ, mình đã mang  theo chiếc khăn quàng cổ của đại đội cho đơn vị mới.”
              oOo
              Từ 405, anh Hòa đã mang chiếc khăn quàng cổ màu đen về 35 BĐQ. Từ 405, tôi  cũng đã mang 9 tác phẩm văn học đến cùng độc giả. Con số quá đủ cho một tấm  lòng đối với bạn bè đồng đội của mình. Tôi hẹn với lòng, sau Mặc Niệm Chiến  tranh là bỏ viết. Tôi đã gởi gấm những gì mà tôi cần gởi gấm. Nhưng bây giờ,  tôi lại ngồi trước máy. Những lời của anh Hòa chẳng khác cơn bão xoáy lốc vào  tâm não. Một đằng, tôi cảm thấy mình thật hãnh diện, bởi vì tôi đã có mặt tại một  đơn vị đã từng tạo nên một thành tích kỷ lục có một không hai trong QLVNCH. Khó  có một ai trong bất cứ đơn vị nào được tướng Đỗ cao Trí thăng cấp hai lần trong  vòng hai tháng ngay tại mặt trận. Có người gọi tôi là điên khùng. Có kẻ cho tôi  là ái quốc lãng mạng. Vâng, quả tôi điên khùng thật. Nhưng bây giờ tôi phải cám  ơn về cái điên khùng này. Nhờ nó tôi mới hiểu cái tàn bạo của con người, của  chiến tranh, của hận thù, và những tay chỉ biết xúi tuổi trẻ ra chiến trường để  chết thế, và nhất là một khi tuổi trẻ muốn bày tỏ những ước mơ chân thật của  mình thì bị gán cho những danh từ như phản chiến, hèn nhát, trong khi chính những  kẻ ấy là co rúm hơn ai hết. Chính nhờ nó, tôi mới hiểu cái câm nín chịu đựng của  những người lính bộ binh trong một thời chỉ con ông cháu cha mới được sống.  Chính nhờ nó tôi mới cảm nhận được thế nào là tình đồng đội cũng như nỗi kiêu  hãnh của những người lính tác chiến.
              oOo
              Phải. Không tự kiêu sao được khi đám lính khăn choàng đen huy hiệu diều hâu  vồ mồi đã làm địch Bình Định kinh hồn bạt vía. Chúng tôi đã áp dụng tối đa chiến  thuật dạ kích. Anh bạn, tôi xin nhắc lại, nếu địch là ma, thì ta cũng là ma, tại  sao mấy ngài chỉ huy cao cấp chỉ biết cái chiến thuật nhà giàu, ngày đánh, đêm  về phố nhảy đầm hay ngủ với vợ. Tại sao các ngài không thành lập những đội quân  chuyên đánh đêm, hay đổi lại chiến thuật đánh ngày sang đánh đêm. Địch lợi dụng  bóng tối tại sao ta lại không lợi dụng bóng tối để đột kích mật khu, phá nát hậu  cần, gây cảm giác lo âu kinh sợ cho đối phương, bắt đối phương lúc nào cũng  hoang mang giao động ? Tại sao cứ chơi trò đóng đồn phòng thủ, chờ chuông báo tử.
              Chuông báo tử. Những hồi chuông đã kéo hối hả khắp cả miền Nam, và bóng u minh  đã òa chụp xuống từng người, từng thân phận. Không phải vì ta hèn. Chưa có một  đội quân nào trên thế giới này, thua trận, nhưng lại tự hào cùng hàng ngũ, cùng  màu cờ sắc áo như quân đội miền Nam này. Không phải một ngày, một tháng, mà cả  đời. Chỉ có những kẻ trong cuộc mới hiểu và thấm thía được nỗi tự hào. Và đó là  lý do cắt nghĩa tại sao tôi lại phải viết hoài, viết không mệt về màu áo cũ của  mình.
              oOo
              Viết về một đơn vị, để mà tự hào, nhưng riêng tôi lúc này còn để hối hận. Bởi  vì, ngòi viết của tôi chưa bao giờ có một nhân vật như Y Brep trên trang giấy.  Và tôi cũng chưa bao giờ mời ông Tướng giải phóng, trung đội phó của tôi một cốc  rượu, một lon bia. Ông ta anh hùng như thế, dẫn toán vào mật khu, hù lính Bắc  quân, thế mà mỗi ngày vẫn chào tay tôi, trình diện tôi, giúp đỡ tôi, nâng bước  chân tôi lên trên những bãi chiến trường sôi bỏng. Thế mà tôi không có cả một lời.  Và dù có viết, thì đám kiểm duyệt ở Sài Gòn lại bôi đen chữ Tướng viện dẫn tôi  chơi xỏ một ông tướng nào đó. Vâng, tôi đã vô tình quên họ, những người lính của  trung đội tôi như Y Đao, Nay Lat,Y Suk, như Nha, Vọng, Tròn, Hường, Nai, Lợi,  Ký, Mễ, Ưng Luông. Tôi chỉ bận tâm đến bản thân tôi. Tôi chỉ tìm mọi cơ hội để  được thăng quan tiến chức, hay để được thoát khỏi địa ngục trong lúc họ vẫn tiếp  tục cùng chiếc poncho, hay lon cơm gạo sấy, coi đơn vị là mái nhà vĩnh viễn của  mình mà không một lời ta thán.
              Trần Hoài Thư
                (Viết dưới trời khói lửa)
                Nguồn :  https://thambao.wordpress.com/2012/03/09/v%E1%BB%81-m%E1%BB%99t-d%E1%BA%A1i-d%E1%BB%99i-cu/