XUÂN ĐINH DẬU - SỐ 73 - THÁNG 1 NĂM 2017

Dấu cũ quê hương


hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương

Tuệ Sỹ

Buổi chiều lặng rớt xuống chân ngày. Lá phong vàng ối vách đồi bên kia hồ chen trong màu tím đỏ của sồi dẻ bàng hoàng theo ráng chiều chảy màu thu về phía chân trời rũ bóng hoàng hôn. Chiều hửng hờ cơn gió xào xạc lá rơi làm khơi vương nỗi lòng khôn xiết nhớ quê. 

Người đàn ông tóc râu bạc trắng tuổi đời đứng đăm chiêu nhìn trời nước sầu thu quanh mình. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái. Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Mùa thu Nguyễn Khuyến bàng bạc nỗi niềm, khơi dậy cảm giác bâng khuâng về thời gian lẫn không gian qua những dòng thơ Nôm (na) mà nghe như tiếng thở dài bảng lảng Đường thi… Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa (Sầm Tham) hay Đào hoa y cựu tiếu đông phong(Thôi Hộ)… Người bâng khuâng đứng nhìn hoa cũ nở đầy trong tiết xuân hay cánh hoa đào cười cợt với gió đông rồi bất giác lệ tuôn theo Đỗ Phủ, Tùng úc lưỡng khai tha nhật lệ. Cô chu nhất hệ cố viên tâm (Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, con thuyền buột chặt mối tình nhà - Nguyễn Công Trứ dịch). Mới hay tâm hồn thi nhân tuy cách xa nhiều trăm năm sau trước nhưng chỉ cần một chùm hoa cũ, tiếng ngỗng kêu hay cánh hạc vàng đơn lẽ vụt bay cũng đủ khơi dậy nỗi tương cảm hoài niệm xa xôi

Ngọn gió quê lịm ngút trời xa nên ngõ vườn sau trên từng chiều lưu xứ là nơi để tựa lưng trông ngóng thẩn thờ. Lá rơi vào im vắng, nương chìm trong ngút ngàn thu phong nhuốm màu chiều bất tận quan san. Vịt trời quang quác gọi bầy đùa giỡn trên mặt hồ, vùng nước lưu dung trên lối đường giăng mắc thiên di.

Hàng năm từ  đầu thu, bầy chim quen đã rời bãi hồ phương Bắc bay về sống tạm trên vùng nước lặng không xa ngõ vườn sau. Xóm nhà vắng vẻ choàng quanh bờ hồ vui hơn với tiếng chim rộn rã gọi bầy, cánh biếc sải đùa trên mặt nước váng màu thu. Thế rồi cái lạnh từ biên hồ chẳng lâu sau nhón gót len theo, se buốt  cơn tuyết đầu mùa, bầy chim lại đàn lũ gọi nhau bay về vùng nắng ấm phương Nam.

Ông dõi mắt nhìn gia đình đàn vịt quây quần giữa hồ lòng bâng khuâng nhớ con cái ở xa.  

Một ngày mấy năm trước, cô con gái út lúc dạo quanh hồ tình cờ nom thấy một chú vịt con thương tích bị bỏ lạc đang cuống quít kêu thương. Con bé nhân từ bồng chú vịt về nhà. Bố mẹ chìu con, thuận ý để con gái dùng một góc nhỏ trong nhà xe làm nơi trú ngụ cho chú vịt vào những ngày đông.  “Con Thúi” lớn nhanh như thổi nhờ sự chăm sóc của con bé, luôn quẩn theo chân chủ trong vườn vào những ngày nắng ấm hoặc nô nức lội quanh vầng lá màu lục biếc điểm những nụ hoa súng chúm nở thuôn hồng. Buổi sáng mùa thu năm cô bé chuẩn bị đi học xa nhà, lần đầu tiên “Con Thúi” sải cánh bay chao trên mặt hồ trước đôi mắt vui buồn lẫn lộn của người đã cứu nó thoát chết năm trước. Gia đình đàn vịt thiên cư  lạ lẩm nhìn anh chàng vịt có bộ lông cánh màu sặc sỡ hơn chúng đang thảnh thơi bơi lội trên mặt hồ lắng nước.  Thế nhưng chỉ vài ngày sau, cô gái đã thấy “Con Thúi” nô nức theo đàn bay lượn trên nóc hàng dương ven hồ. Nó thỉnh thoảng bay về phía cô gái đứng bên gốc liễu, quang quác gọi như nài xin kéo dài cuộc vui. 

Buổi chiều cuối cùng trước ngày cô gái đi học trường xa. Như bao lần trước, bầy vịt bay liền cánh với “Con Thúi” đứng nghển ngảng giữa vườn sau nhìn theo bạn lúc thúc bước sau cô gái rồi soải cánh bay về hồ nước. Cô gái ôm chú vịt vào lòng thủ thỉ, vỗ về, rồi một mình bước khuất sau cánh cửa khép chặt.  “Con Thúi” đứng lặng hồi lâu trước khung cửa khép rồi bay lên nóc nhà mát cuối vườn. Nó âu sầu nhìn quanh khung cảnh quen thuộc một lần cuối trước khi theo bạn bay vào cuộc đời mới. 

Năm sau, đôi lần chú vịt bỏ bầy bay về đứng ngơ ngác nhìn khu vườn yên tĩnh, thiếu vắng tiếng cười giòn tan của cô gái. Chỉ còn cha mẹ cô gái đứng tựa ngõ sau, im lìm như cặp chim câu già, đưa tay vẫy chào lúc “Con Thúi” sà cánh lướt qua.  Họ khuyến khích con cái bay cao bay xa, thi thố với đời, còn họ thì ở lại vườn sau buồn nhớ quẩn quanh. Như cô gái đã một chiều giã từ chú vịt con lưu lạc ngày nào rồi khóc một mình sau khung cửa khép, nghĩ  đến ngày mai chính mình cũng như chim bay xa vào tương lai thách đố. 

Người đàn ông nhìn con vịt đầu đàn với đôi cánh màu sặc sỡ đang cùng bầy trầm lặng bơi  thành vệt dài trên mặt hồ im sẩm bóng chiều. Có lẽ vịt đã quên khoảnh vườn nhỏ của thời nào chưa tháp cánh bay. Có lẽ mùa đông đang tới sẽ quá dài vì con xa không về nhà vào những ngày lễ tết. Ông thở dài…

Nửa vầng trăng chiều len qua cuối ngày, huyễn khuyết trên nóc cánh rừng phong. Mảnh trăng chẻ đôi long đong trời quê cũ. Và chơi vơi nửa vầng kia đã nào nguôi nỗi sầu viễn xứ... Nơi nào là quê-nhà cho một kiếp thiên di, cho bầy chim trốn tuyết đang bơi lội trong vùng nước sẽ đóng thành băng vào những ngày đông đang tới. Câu hát cũ về một ước muốn quay về, ngồi yên dưới hiên nhà trong màu trăng ngát lừng hương bưởi vườn khuya, rời rạc tìm đến đầu môi, ấp úng như một nỗi muộn phiền.

Hơi nước quyện trong se sắt thu phong, lãng đãng trên mặt hồ lớp sa mù giăng mắc bâng khuâng. Có phải bụi thu mờ hay lớp phấn bụi miên liễu Đông Pha âu sầu cố quận ?  Dạ lai u mộng hốt hoàn hương. Đêm qua ông cũng nằm mộng trở về quê. Mơ trở về làm đứa bé thơ trong vòng tay mẹ, chỉ để rồi bừng mắt dậy, đếm canh dài, trở lăn với nỗi ray rức của tháng ngày biền biệt trôi đi không trở lại.  Nhân hành do khả phục. Tuế hành na khả truy (Tô Đông Pha - TDP). Người đi mong có ngày về. Tháng năm đi mất khôn bề đuổi theo. Mẹ già một nắng hai sương, biết mẹ có còn chờ được ngày về của đứa con xa vẫn ôm mối sầu hoài vọng quê hương. Diệc dục cử hương phong. Độc xướng vô nhân họa (TDP). Quê xưa tình dẫu đượm dày. Nỗi riêng ấp ủ, phân bày cùng ai...

Lời cổ thi, phiêu hốt kiêu lãng cánh chim hồng bay lượn trên khắp vùng Quê Hương đồng vọng, dọc dài lịch sử Đông Phương, đã mang tới cho ông chút ấm lòng.

            Lưỡng lưỡng qui hồng dục phá quần
            Y y hoàn tợ bắc qui nhân
            Diêu tri sóc mạc đa phong tuyết
            Cánh đãi Giang Nam bán nguyệt xuân (TDP)

            Đường lên bắc mấy cánh hồng lẻ bọn
            Bay dật dờ người trở gót lưu ly
            Trời sa mạc tưởng chừng sương tuyết nặng
            Đợi con trăng nửa mảnh ở nam về (Tuệ Sỹ, cảm dịch Tô Đông Pha)   

Ngôn ngữ cổ thi dẫu chưa thấu hiểu nhưng âm hưởng, thi điệu qua nhịp gõ quyến rũ của chiếc gậy lục ngọc đã âm vang trong ông niềm cảm thông có khả năng làm dịu những cơn buồn. Nhiều năm trước, giữa những ngày lao đao tìm đường vượt biển, lòng ông đã có lần chợt nương xuống bình an giữa đêm bấn loạn. Lời hát vương điệu buồn phương Nam bên dòng sông vắng, trôi xuôi dòng ca dao quyện trong xao xác Đường Thi đã đưa hồn người vào sự tỉnh thức của hy vọng. 
             (Hò... ơ... chớ)... Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
                                     Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
                                     Giữa canh khuya nghe tiếng ai thỏ thẻ bên thuyền
                                     Hỏi thăm quân tử....(ờ...)
              (Hò... ờ... chớ)... Hỏi thăm quân tử vượt biên nơi nào?... 

Ông vẫn thường nghĩ về giấc mơ của người nghệ sĩ ca dao - cơn mộng tưởng lúc đang ngày dưới bóng đa mát rượi đình làng, bên hàng cau soi bóng nắng, hay lúc tựa gốc ô môi bên dòng sông vắng. Giấc mơ chói bừng sáng tạo đã níu Đường Thi vào ca dao rồi viên thành ở đó, êm đềm trên đầu môi người thôn quê Việt Nam sức diễn đạt mới rợi của ngôn từ.

Ông nhớ đến người bạn văn cùng lớn chung dưới mái trường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng một thời. Ông bàng hoàng lắng nghe nỗi xúc động rùng chuyển châu thân qua lời thơ đượm ngát tình ca dao. Tình thơ phóng thoát từ bóng cổ thi, rồi trở-thành, tự-tại.

Hải-Đà Vương Ngọc Long đi vào thế giới Đường Thi với hồn nho sĩ  và chân bước lưu dân, lòng nặng mơ về một trời quê hương viễn mộng. Ông  bước vào “vũ trụ Thơ mênh mang bát ngát vô chung vô thủy, ... vào thế giới huyền thoại của tác động và mỹ thuật, của biểu cảm và hình tượng, có khả năng khêu gợi và cuốn hút tâm tư ” (Vương Ngọc Long). Giữa cơn thảng thốt mê hoặc của cảm xúc, thời gian và không gian quẩy níu vào nhau cơ hồ tiếng chuông chùa Hàn San ngân vọng đến nghìn sau nương theo con nước tương-tư-bất-tương-kiến nghìn xưa xuôi chảy qua dòng Hàn Giang lao đao trời quê hương bỏ lại với biết bao kỷ niệm một thuở phố Đà. Tiếng vạc kêu sương, lay thức nỗi lòng Trương Kế từ một đêm thu cũ xa xưa, hoang mang theo sóng sầu dâng mà ngỡ  tiếng ai gọi đò trên bến Hà Thân sớm xuân nào. Xuân Tiêu Vọng Hàn Giang. Hồn thơ quyện hồn xưa đã mạo muội nên dòng Đường Thi lưu luyến.

Phong xuy lạc diệp động sầu âm
Nguyệt chiếu hà lương khách tứ thâm
Hỷ vũ hỷ hoa vô hỷ sắc
Hàn Giang hàn thủy bất hàn tâm
Tha phương uẩn nộ phi nan giảm
Cố quận nhân yên bất khả tầm
Tịch mịch xuân tiêu cô đối ảnh
Hương quan bán dạ Việt thi ngâm        (Vương Ngọc Long - VNL)

Sương lạnh Hàn Giang khói tỏa mờ
Mênh mang sóng nước dạt đôi bờ
Hò ai văng vẳng đêm thanh vắng
Thuyền khách bâng khuâng luống thẩn thờ

Khóm trúc đong đưa nước lững lờ
Tiếng tiêu dìu dặt động hồn thơ
Bên cầu bóng nguyệt lung linh tỏa
Man mác tình quê nỗi đợi chờ

Sương thấm thuyền mơ xao xuyến ai
Ngẩn ngơ hư ảo trắng đêm dài
Hàn giang mòn mỏi phương trời nhớ
Ấp ủ trong tim những tháng ngày

Lá rơi gió thổi tiếng sầu vang
Trăng chiếu cầu sông khách bẽ bàng
Mưa thuận, hoa cười, đâu sắc thắm
Lạnh sông, buốt nước, chẳng khô lòng

Tha phương uất hận nào nhạt phai
Cố quận khói mờ há dễ trông
Quạnh quẽ đêm xuân thân đối ảnh
Ngâm câu thơ cũ nhớ quê làng          (VNL)

Hàn giang mòn mỏi phương trời nhớ. Ấp ủ trong tim những tháng ngày...Đà Nẵng, phố cũ trời quê xưa. Cánh rừng dương ôm quanh bờ vịnh cuối phố, mở ra lối biển, chớp tắt ngọn hải đăng chóp núi u hoài. Con đường từ Trẹm, kiêu sa hàng cây bạc hà vương vóc liễu theo áo lụa em về dọc bờ sông đỏ rưng sắc phượng. Ngôi trường trung học cao vời bóng tàng cây xà cừ chở che dãy phượng vừa lớn xanh mướt lá. Bóng mát cây kiền kiền trên lối Nguyễn Hoàng, Quang Trung, Thống Nhất che mát bầy áo trắng đường trưa.  Con dốc nắng ướt lưng thiếu nữ, bịn rịn mái tóc thề như  e ấp gọi mời chân ai theo bước lối về Ga.  Giàn bông giấy trước sân nhà rực tím màu hoa khuất sau vách cổng cao vừa khép làm ngại ngần gã học trò lơ đãng lỡ chọn lối rất xa để trở về nhà. Những dịp nghĩ bất ngờ hai-giờ-sau dài theo chuyến phà qua sông, theo con đường dương liễu dẫn tới Mỹ Khê rộn sóng hay đạp xe thành bầy qua ngã Đò Xu êm đềm bến nước, chát chát chua chua trái ổi sân chùa Bà Quảng.

Ở đâu rồi những người bạn một thuở lớn lên. Đâu rồi chiếc nôi êm trong căn nhà kỷ niệm. Cơn lốc chiến tranh thổi tràn qua quê hương, quay cuồng trong đó một lũ người tuổi trẻ, chọn lựa, tan tác, điêu linh... Họ cùng trở nên già nua từ bên kia biển ngó về nhau, hoang mang một thời để nhớ, lồng lộng hoa niên.

Khá lâu rồi, ông tình cờ đọc bài viết từ trong nước của một người bạn thời trung học. Bài văn hay, thành thật nỗi gợi nhớ man mác về một mùa hoa sữa đơm hương trên thành phố miền Nam Trung Phần nơi gia đình anh sống từ gần ba mươi năm qua. Một loài cây hoa mang từ miền Bắc vào được trồng “đại trà” trên nhiều thành phố miền Nam sau năm bảy lăm. Bài viết còn nhắc đến “cốm mới” Hà Nội như một gợi nhớ để mà hoài niệm về cốm ở Quảng Nam, quê nhà anh đã bỏ đi để tha phương cầu thực bao năm.  Bài viết mang lại cho ông một nỗi phiền hà. Phải chăng ông đã xa quê hương quá lâu hay bạn ông đang mất mát một quê xưa trong cõi lòng mình. Kỷ niệm là con đường ngắn nhất đến từ tim, không vòng vo, dừng lại, đi quanh. Nhớ về Nha Trang nào ai quên được hàng dương liễu dọc theo đại lộ Duy Tân, con đường ven biển từ Tòa Tỉnh đến Cầu Đá. Ôi Nha Trang! liễu xanh, biển xanh, khi mái tóc còn xanh... như lời thở than của người bạn lính lưu vong mỗi khi nhớ về thành phố biển quê nhà. Người bạn nhớ về những cây bàng gần trường Võ Tánh lá trở màu khi trời bắt đầu thu, nhớ “hàng me cao lá hát như reo” dẫn đến trường Nữ Trung Học dọc theo quân y viện Nguyễn Huệ. Như ông nhớ về tuổi thơ Đà Nẵng mát rượi bóng cây kiền kiền hay vết xước chùm trái chà là trên lối núi Phước Tường. Nhớ Đường Hàng Đoát nón lá che nghiêng và nước Bến Ngự êm đềm bóng tre của những ngày hè ở Huế. Quên sao đành, cho dù cơn lốc cuồng xoay vẫn thổi rạc rài qua từng mùa chướng. Kỷ niệm thật thà chỉ đến từ dòng sông, từ bóng mát tuổi thơ của riêng mình. Khác hơn, chỉ còn là một thất thoát thương tâm.

Sương lan kín mặt hồ. Nửa vầng trăng treo hao hớt chơ vơ trên nóc cánh rừng phong lá rụng, hư huyễn tìm bóng mình khuất chìm đâu đó dưới đáy hồ thu. Tiếng vịt gọi bầy lãng đãng gần xa, âm vọng mơ hồ một bến bờ mãi kiếm tìm để dừng đôi cánh mỏi.

Người vợ đến bên ông tự lúc nào, bà choàng lên vai chồng tấm áo lạnh. Họ cùng bước qua khoảng vườn sau phủ bóng tối. Ánh lửa lò sưởi bập bùng đêm thu xa xứ...

Phan thái Yên

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2017