SỐ 78 - THÁNG 4 NĂM 2018

 

HƯƠNG XƯA

 “ân tình đó ẩn mật sâu,
về chốn ấy những mộng đầu phố xưa” (*)
khúc dã tràng lời gió đưa
hương bồ kết một khuya mưa tóc người
thơm lựng tôi bình yên ngời
rêu duyên hải em biển khơi vỗ chùng
dương liễu xanh hàng lá rung
hay tôi bật nỗi mông lung nhớ nhà?
đơm lượng khói một cõi xa
không dưng tụ ghé về hoa mắt đằm
– Vũ Hoàng Thư

1

Tháng Năm nơi tôi đang sống với những ngày nắng ngọt, mưa êm, vương vương chút sương mù sáng sớm, chút heo may se sắt, chút khắc khoải tiếng chim kookaburra chiều về như một khúc đàn tống biệt mùa thu và chuẩn bị cho giao mùa trời đông tháng Sáu.

Buổi sáng tôi ra khỏi nhà, chợt giật mình thảng thốt với cái nắng rực rỡ đậu trên hai hàng cây bên đường, những cây Phong, cây Chinese Tallow, cây Claret Ash vàng rực, đỏ thẫm sắc thu trên gương mặt thành phố. Những hàng cây nhốt nắng trong màu lá trông xa xa như những chiếc đèn lồng rực rỡ chào đón mùa thu, thắp sáng cho một ngày mới.

Buổi chiều trở về không còn mặt trời,  hàng cây ủ dột âm thầm từng bóng đen cúi đầu lặng lẽ, con đường hắt hiu đèn điện trong cái lạnh mang mang đất trời, se se lòng người một nỗi bâng khuâng, cho tôi chợt nhớ lời của Guillaume Apollinaire:

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends 

Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta vẫn đợi chờ em...   (Bùi Giáng)

Mùa thu nơi đây không nồng nàn hương hoa gây ra chứng dị ứng Hay Fever như mùa xuân, không nắng cháy gắt mùi cỏ khô như mùa hè, chỉ thoang thoảng chất mùi sương khói sớm, hương trái chín trong vườn dâng mũi và dị kỳ lá mục len hơi theo mưa từng đêm.

Dường như trong tôi, những mùi hương luôn gây cảm xúc và gắn liền với những hình ảnh trong quá khứ, nơi chốn xưa ngất ngây tôi hương dịu dàng của ổi chín thoáng bay trong không gian trưa thanh vắng và đẫm tôi mùi lá khô, cỏ mục dậy nồng vào hoàng hôn tím đậm cuối ngày…

Ngày xưa ấy, khi tôi lớn lên trong nhiễu nhương đói kém của xã hội, thì hương thơm từ nước hoa, từ Eau de Cologne, Eau de toilette, Eau de Perfume ... ngay cả xà bông cũng là một thứ xa xỉ không tưởng, có còn chăng là những chai lọ Chanel 5 nằm khô theo năm tháng trong tủ của má, những hộp kem phấn phai dần hương sắc chỉ còn mang nhãn hiệu của những nơi chốn xa xăm.

Không có xà bông, có lúc, chúng tôi phải giặt đồ bằng tro. Chẳng có thuốc gội đầu thơm tho đắt tiền, má nấu cho tôi từng nồi bồ kết đậm màu cánh gián với những lát chanh thơm mượt mà tóc mây. Mùi bồ kết còn đọng lại rất lâu trong tâm tưởng, để cứ nghĩ đến những trưa hè gội tóc bằng chanh và bồ kết, là tôi nhớ má quay quắt, nhớ cái nồi đồng âm ỉ những phiến bồ kết trên bếp tro, nhớ bàn tay ân cần của bà dội từng ca nước trên tóc con gái, nhớ mùi bồ kết lẫn trong áo quần, trên gối, êm êm đưa tôi vào giấc mộng.

Những ngày tôi còn ở quê nhà, hầu như bếp nào cũng nấu than, nấu củi. Nhà tôi cũng không ở bên ngoài cái khó khăn của gạo châu, củi quế. Bếp gas đem cất vội để thay vào đó lò than, bếp củi khói ám hiên nhà. Buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, má nhen lửa, mùi nhựa ngo thơm, mùi lá khô hăng hăng, mùi củi cháy khen khét, mùi khói gay gắt, mùi thức ăn ấm nồng, mùi vỏ bưởi the the đốt xua muỗi …  đem cho tôi cảm giác an ổn giữa bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn bên ngoài xã hội.

2

Thuở ấy, tôi thường vòi vĩnh má tôi cùng đi uống nước mía, để xin về ít xác mía, chiều tối má nhen lửa bằng xác mía thơm thơm ngòn ngọt, cho tôi nướng bắp, nướng chuối nếp, nướng khoai lang, khoai mì trong cái lạnh mùa đông Nha Trang tháng Mười Một, Mười Hai … Tôi, - hay bạn,  chắc hẳn - đã có những đêm gia đình ấm áp như thế để khi ra đi, lòng đau đáu mãi những mùi hương xưa … Để nhớ và để xin “ …cho tôi lại ngày nào, trăng lên bằng ngọn tre, me tôi ngồi khâu áo, bên cây đèn dầu hao, cha tôi ngồi xem báo, phố xá vắng hiu hiu…” (Kỷ Niệm, Phạm Duy)

Phố của tôi ngày ấy là con đường đến trường Nữ Trung Học êm ả với hàng cây xà cừ trên đường Bá Đa Lộc, là phố của những cây điệp, cây dương, cây me tây đậm màu hồng với cánh hoa li ti rụng dày sau sân trường, là phố của áo trắng giờ tan học ríu rít tiếng chim, là phố của thuở tôi bé thơ đi phố với má, được má cho ăn patéchaud và uống sữa đậu nành của tiệm bánh Hưng Hoa đường Công Quán trong mùi bánh nướng thơm lừng cả con đường, phố của những ngôi nhà trệt không hề che khuất bầu trời xanh lơ thăm thẳm của biển, của núi, phố của tiếng sóng vọng xa xa trong đêm khuya thanh vắng lẫn trong ánh hỏa châu lơ lửng trên bầu trời những đêm nghe tiếng đạn pháo kích vào phi trường, phố của những tà áo màu tha thiết vờn quanh sắc áo treillis trên đường chiều thứ Bảy.

Phố của tôi ngày ấy không đông đảo, không hỗn tạp, phố biển hiền hòa của những ngày tháng bình yên trước năm 1975 cho dẫu chiến tranh hiện diện nhiều hơn, nóng bỏng hơn trên báo chí, trên đài truyền hình, truyền thanh. Phố của tôi chỉ nồng mùi gió biển, đậm mặn tình quê cho tới một ngày trời đỏ cờ nơi chốn bình yên, và tôi - đứa trẻ lớn lên trong nhiễu nhương của sự đổi đời - đã sớm cằn cỗi ưu tư, đã bị thui chột những ước mơ trong sáng. Phố không còn hiền hòa, đất không đủ lành để nuôi giữ cánh chim, đất giao tôi cho biển, và biển rộng tình, ân cần, che chở, đưa tôi đi xa, đến bờ bến mới.

Tôi đã đi rất xa, xa mãi ngày xưa ấy, xa mãi ngôi nhà và khu vườn rộng, xa những mùi hương với ký ức trẻ thơ hỗn độn trong cái tổ  ấm êm và những bất công, bạo lực chằng chéo của xã hội bên ngoài, để đến bờ bến mới, an lành và yên ổn, để đi lại từ đầu, để xin nhận nơi này làm quê hương. Tôi đã có những cái bếp mới, không vết tro, không dấu lọ nghẹ bồ hóng, nhưng dường như món cá kho không thơm đẫm nước mắm, canh chua không ngát mùi tiêu hành, bắp rang lò microwave không nồng nàn như bắp nướng than đước… Mùi thuốc tẩy trùng, thuốc giặt, thuốc lau nhà, thuốc rửa chén, thuốc gội đầu... đã đẩy lùi những hình ảnh xưa đi vào quá khứ…

Dường như càng xa cách thiên nhiên, tôi càng đánh mất chính tôi, để những chiều thu như hôm nay, bâng khuâng trong mùi lá mục sau vườn, ngậm ngùi chợt nhớ tháng năm xa.

Nous ne nous verrons plus sur terre… Odeur du temps Brin de bruyère…

Mùa thu đã đi qua theo từng chiếc lá rụng dày lên lối đi, héo quắt, khô dòn, vỡ vụn, tan vào trong đất ẩm, nhưng nỗi nhớ của tôi không vơi theo lá. Nỗi nhớ vẫn váng vất ở đâu đó trong từng mùi hương tỉ tê, buôn buốt trong ký ức từng sớm chiều bao năm ra đi.

Adieu sois heureuse

Adieu et bonne chance...

Phố của tôi, giữ dùm tôi mùi hương xưa, cất dùm tôi hình ảnh đep của Nha Trang trong ký ức. Tôi đã thả bay cánh diều thơ ấu nơi đây, ghi lại, như một phần đời tươi đẹp trong trí, còn nguyên vẹn tinh khôi khi chưa chạm đến thực tế bát nháo. Tôi không tin là  mộng trùng lai không có ở trên đời, tôi không tin là chúng ta mãi mãi cách chia một tình yêu say đắm, bởi tôi biết tâm hồn tôi sẽ mãi rưng rưng với những mùi hương thuở nào, để đâu đó trong đời sống bộn bề, hình ảnh những ngày tươi đẹp có lúc thấp thoáng hiện về trong trí  nhớ, để tôi biết rằng tôi sẽ mãi mãi chờ đợi một mùi hương xưa, cho dẫu mùa đã ra đi.

Lương Mỹ Trang
Sydney cuối thu 31-5-2013
(hiệu đính tháng 4, 2018)



(*) Ce sont souvent des amours secrètes, celles qu'on partage avec une ville. (L’été à Alger, Albert Camus)

 

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2018