SỐ 80 - THÁNG 10 NĂM 2018

 

phố cũ vọng Đường thi

Chim Trăng.jpg

Người đàn ông thẩn thờ nhìn bầy vịt trầm lặng bơi  thành vệt dài trên mặt nước lặng lờ im thẫm bóng chiều. Hơi nước quyện trong se sắt thu phong, lãng đãng lớp sa mù giăng mắc bâng khuâng. 

Nửa vầng trăng chiều len khỏi chân ngày, huyễn khuyết trên nóc cánh rừng phong. Nửa vầng trăng. Mảnh trăng long đong trời quê cũ. Và chơi vơi nửa vầng kia đã nào nguôi sầu viễn xứ. Nơi nào là Quê-Nhà cho một kiếp thiên di, cho bầy chim trốn tuyết đang bơi lội trong vùng nước sẽ đóng thành băng vào những ngày đông đang tới. 

Có phải bụi thu mờ hay lớp phấn bụi miên liễu Đông Pha âu sầu cố quận?  Dạ lai u mộng hốt hoàn hương (Tô Đông Pha). Đêm qua ông cũng nằm mộng về quê. Mơ trở về làm đứa bé thơ trong vòng tay mẹ, chỉ để rồi bừng mắt dậy, đếm canh dài, trở lăn với nỗi ray rứt của tháng ngày biền biệt trôi đi không trở lại.  Nhân hành do khả phục. Tuế hành na khả truy (Tô Đông Pha). Người đi mong có ngày về. Tháng năm đi mất khôn bề đuổi theo. Mẹ già một nắng hai sương, biết mẹ có còn chờ được ngày về của đứa con xa vẫn ôm mối sầu hoài vọng quê hương. Diệc dục cử hương phong. Độc xướng vô nhân họa (Tô Đông Pha). Quê xưa tình dẫu đượm dày. Nỗi riêng ấp ủ, phân bày cùng ai...

Lời cổ thi, phiêu hốt kiêu lãng cánh chim hồng bay lượn trên khắp vùng Quê Hương đồng vọng đã mang đến cho ông nỗi đằm thắm ấm lòng.

            Luỡng lưỡng qui hồng dục phá quần
            Y y hoàn tợ bắc qui nhân
            Diêu tri sóc mạc đa phong tuyết
            Cánh đãi Giang Nam bán nguyệt xuân (Tô Đông Pha)
            Đường lên bắc mấy cánh hồng lẻ bọn
            Bay dật dờ người trở gót lưu li
            Trời sa mạc tưởng chừng sương tuyết nặng
            Đợi con trăng nửa mảnh ở nam về (Tuệ Sỹ cảm dịch)   

Ngôn ngữ cổ thi chẳng thấu, nhưng âm hưởng thi điệu qua nhịp gõ quyến rủ của chiếc gậy lục ngọc đã vọng tới lòng ông mối cảm thông làm dịu những cơn buồn. Những bài ca phổ từ Đường thi phóng tác của Hải Đà Vương Ngọc Long, người bạn một-thời-Phan-Châu-Trinh, ông có cơ duyên nghe một lần, rồi nhiều lần…Và như có bàn tay ai đó đang ân cần lợp vá mái lòng mình ủ dột. Thi tài và ẩn tình hoài vọng về một quê-nhà-bỏ-lại cùng hình ảnh quê làng phố cũ đẹp thiết tha đã vực lời thơ người thi sĩ vươn vai, tự tại... Bóng cả Đường thi dù  vần vũ nhịp cánh trên cao, vẫn lầu thơ vút cánh hạc vàng, vẫn lãng đãng tiếng chuông chùa Hàn San, vẫn xanh rì bãi Anh Vũ, vẫn cầu Phong, vẫn Hàm Dương Cô Tô, nhưng thi tứ âm tiết thì riêng đứng một trời thơ Việt.

Nhiều năm trước, giữa tháng ngày lao đao tìm đường vượt biển, ông đã có lần lòng chợt nương xuống bình an giữa đêm bấn loạn. Lời hát vương điệu buồn phương Nam bên dòng sông vắng, trôi xuôi giòng ca dao quyện trong lãng đãng Đường Thi đã đưa hồn người vào tỉnh thức của hy vọng. 

             (Hò... ơ... chớ)... Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
                                        Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
                                        Giữa canh khuya nghe tiếng ai thỏ thẻ bên thuyền
                                        Hỏi thăm quân tử....(ờ...)
              (Hò... ờ... chớ)... Hỏi thăm quân tử vượt biên nơi nào?... 

Ông vẫn thường nghĩ về giấc mơ của người nghệ sĩ ca dao - cơn mộng tưởng lúc đang ngày dưới bóng đa mát rượi đình làng, bên hàng cau soi bóng nắng, hay lúc tựa gốc ô môi bên dòng sông vắng. Giấc mơ chói bừng sáng tạo đã níu Đường thi vào ca dao rồi viên thành ở đó, êm đềm trên đầu môi người thôn quê Việt Nam sức diễn đạt mới rợi của ngôn từ.

Ông bàng hoàng lắng nghe nỗi xúc động rùng chuyển châu thân qua lời thơ đượm ngát tình ca dao. Tình thơ phóng thoát từ bóng cổ thi, rồi tự tại trở thành.

Ra đi thuở hãy còn thơ
Tuổi già mới được ngày mơ trở về
Thưa rằng chẳng mất giọng quê
Tóc sương điểm bạc lòng tê tái sầu...
 
(Hải Đà phóng tác Hồi Hương Ngẫu Thư – Hạ Tri Chương)

Đây chiếc áo năm canh dài Mẹ thức
Ngọn đèn khuya hiu hắt suốt đêm trường
Tay gầy guộc, run run luồn kim chỉ    
Áo bạc màu nhưng đậm nghĩa yêu thương...   

(Hải Đà phóng tác Du Tử Ngâm – Mạnh Giao)

Tứ thơ thấp thoáng vần tiên thoại Lâm Tuyền, Bích Câu:

Thổn thức hồn quyên mộng tỉnh say
Sông xưa bến cũ nhớ từng ngày
Phơ phơ tóc bạc đời sương điểm
Thơ thẩn đêm dài ngấn lệ cay...   

(Hải Đà phóng tác Tỉnh Dạ Tứ – Lý Bạch)

Hay tiếng Đoạn Trường:

Đầu sông chàng đứng thẩn thờ
Bẽ bàng mình thiếp đợi chờ cuối sông
Nhớ thương xa cách mịt mùng
Nước sông thắm thiết ta cùng uống chung...

(Hải Đà phóng tác Trường Tương Tư –Lương Ý Nương)

Và đâu đây hồn xưa Nguyễn Bính, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương...

Tóc em xõa ngang trán
Trước nhà hái hoa chơi
Chàng phi ngựa tre đến
Mơ xanh ném nhau cười...
Trường Can cùng chung sống
Vui đùa chẳng nhớ nhung
Lấy chồng năm mười bốn
Thơ ngây với thẹn thùng... 

(Hải Đà phóng tác Trường Can Hành – Lý Bạch)

Cất cao vút giọng ngân dài
Người xưa nào biết lòng này hay chăng?
Mai thuyền bỏ bến buồm căng
 Lá phong rơi rụng bẽ bàng người đi... 

(Hải Đà phóng tác Thu Phố Ca – Lý Bạch)

Hoàng hạc về đâu, vút cánh bay
Thi nhân cạn chén, tỉnh hay say
Ngàn năm lãng đãng vầng mây trắng
Thổn thức hồn thơ mắt lệ đầy... 

(Hải Đà phóng tác Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)

Hải Đà Vương Ngọc Long đi vào thế giới Đường thi với hồn nho sĩ  và chân bước lưu dân, lòng nặng mơ về một trời quê hương viễn mộng. Ông bước vào “...vũ trụ Thơ mênh mang bát ngát vô chung vô thủy, ... vào thế giới huyền thoại của tác động và mỹ thuật, của biểu cảm và hình tượng, có khả năng khêu gợi và cuốn hút tâm tư...” (Vương Ngọc Long – Tình Thu trong Đường thi). Tiếng chuông chùa Hàn San ngân vọng đến nghìn sau nương theo dòng tịnh thủy tương-tư-bất-tương-kiến xuôi chảy vào giòng Hàn Giang lao đao trời quê hương bỏ lại với biết bao kỷ niệm một thuở phố Đà. Tiếng vạc kêu sương, lay thức nỗi lòng Trương Kế từ một đêm thu nghìn năm cũ, hoang mang theo sóng sầu dâng, mà ngỡ  tiếng ai gọi đò trên bến Hà Thân sớm xuân nào. Xuân Tiêu Vọng Hàn Giang. Hồn thơ quyện hồn xưa đã mạo muội nên giòng Đường thi lưu luyến.

Phong xuy lạc diệp động sầu âm
Nguyệt chiếu hà lương khách tứ thâm
Hỷ vũ hỷ hoa vô hỷ sắc
Hàn Giang hàn thủy bất hàn tâm
Tha phương uẩn nộ phi nan giảm
Cố quận nhân yên bất khả tầm
Tịch mịch xuân tiêu cô đối ảnh
Hương quan bán dạ Việt thi ngâm 
(Hải Đà – Xuân Tiêu Vọng Hàn Giang)

Sương lạnh Hàn Giang khói tỏa mờ
Mênh mang sóng nước dạt đôi bờ
Hò ai văng vẳng đêm thanh vắng
Thuyền khách bâng khuâng luống thẩn thờ

Khóm trúc đong đưa nước lững lờ
Tiếng tiêu dìu dặt động hồn thơ
Bên cầu bóng nguyệt lung linh tỏa
Man mác tình quê nỗi đợi chờ

Sương thấm thuyền mơ xao xuyến ai
Ngẩn ngơ hư ảo trắng đêm dài
Hàn giang mòn mỏi phương trời nhớ
Ấp ủ trong tim những tháng ngày

Lá rơi gió thổi tiếng sầu vang
Trăng chiếu cầu sông khách bẽ bàng
Mưa thuận, hoa cười, đâu sắc thắm
Lạnh sông, buốt nước, chẳng khô lòng

Tha phương uất hận nào nhạt phai
Cố quận khói mờ há dễ trông
Quạnh quẽ đêm xuân thân đối ảnh
Ngâm câu thơ cũ nhớ quê làng 

(Vương Ngọc Long – Đêm Xuân Nhớ Sông Hàn)

Hàn giang mòn mỏi phương trời nhớ. Ấp ủ trong tim những tháng ngày...Phố cũ trời quê xưa. Cánh rừng dương ôm quanh bờ vịnh cuối phố, mở ra lối biển, chớp tắt ngọn hải đăng chóp núi Sơn Trà. Con đường từ Trẹm, kiêu sa hàng cây bạc hà vương  vóc liễu, theo áo lụa em về dọc bờ sông đỏ rưng sắc phượng. Ngôi trường trung học không xa dòng sông, cao vời bóng tàng cây xà cừ chở che dãy phượng vừa lớn xanh mướt lá. Bóng mát kiền kiền trên lối Nguyễn Hoàng, Quang Trung, Thống Nhất che mát bầy áo trắng đường trưa. Con dốc nắng ướt lưng thiếu nữ, bịn rịn mái tóc thề như e ấp gọi mời chân ai theo bước lối về Ga. Giàn bông giấy trước sân nhà rực tím màu hoa khuất sau vách cổng cao vừa khép làm ngại ngần gã học trò lơ đãng lỡ chọn lối rất xa để trở về nhà. Những dịp nghỉ bất ngờ hai giờ sau thì luôn quá ngắn cho chuyến phà qua sông, theo con đường dương liễu dẫn tới Mỹ Khê rộn sóng hay đạp xe thành bầy qua ngả Đò Xu êm đềm bến nước, chát chát chua chua trái ổi sân chùa Bà Quảng.

Bóng mát hàng cổ thụ thả xuống khoảng sân gạch mát rượi của những ngôi đình làng cuối cùng của thế hệ Nho phong. Những mái đình Hải Châu, Thạch Thang, Thạc Gián, Nại Hiên, cũ kỹ xanh rêu rải rác trong thành phố còn ghi lại biết bao kỷ niệm êm đềm của thời thơ trẻ. Bầy học trò mải mê “đá xóm” dưới bóng những cây bàng, mù u. Vị ngọt ngọt chát chát của trái bàng, trái mù u và nước giếng thì luôn sẵn sàng cho lúc nghỉ mệt giữa trận đấu. Banh là trái bưởi lấy trộm từ miếu Tân Thành đem ra đình Nam Dương để đá phục thù cho cuộc chiến bại hôm qua. Bãi cát cuối đường Triệu Nữ Vương trước đình Thạch Thang, một tối thứ Năm mỗi tháng, là đấu trường quần vật của đám con nít xóm trước đồn Cảnh sát Hoàng Diệu trong khi chờ xem phim. Ty Thông Tin chiếu thời sự Tổng Thống Diệm đi kinh lý trước khi vào những phim chính như  Chúng Tôi Muốn Sống, Ánh Sáng Miền Nam, Đất Lành mà bọn trẻ hầu như đứa nào cũng thuộc từng cảnh phim.

Ngôi trường tiểu học ở đầu ngả vào thành phố, khuất sau xóm nhà tranh nép mình dưới bóng mát hàng cây sầu đông dọc theo lối đi lầy cát. Từng chùm hoa màu tím nhạt lấm tấm trắng, phất phơ trong gió cuối xuân, tỏa hương nồng ngát đến tận đình làng phía sau trường học. Ngôi đình bề thế có voi chầu hai bên sân gạch rộng, nhìn xuống bàu nước phủ hoa bèo chen lẫn với những nụ bông súng trắng hồng. Nằm trên lưng voi, hấp háy nhìn sợi hoa xoài đong đưa theo tầng mây trắng trên cao, đôi mắt trẻ thơ chợt ríu lại êm đềm. 

Đường đi học là quãng đường quê từ xóm Mả Vôi, băng qua đường rầy xe lửa rồi men theo bàu Thạc Gián mát rượi bóng tre trước khi đến trụ sở xã nhìn ra phía đường Hùng Vương. Cống nước ngã ba Cây Quăng chảy xiết vào những ngày mưa, chiếc rớ cất lên, vài con cá mắc nạn hốt hoảng búng mình bạc trắng. Sáng nào cũng thế, cậu bé rẽ vào Vườn ương Thạc Gián đứng chờ đứa bạn cao hơn mình cả cái đầu từ ngôi nhà nhỏ cuối góc vườn ương đi ra để cùng đến trường. Chia nhau mẩu bánh mì, củ khoai lang, hai đứa đi dọc dưới hàng cây vừa-mù-vừa-u đến tận ngã ba Cai Lang rồi rẽ theo lối cát vào trường.

Đầu năm lớp Tư, phải hết mấy tuần, cậu bé mới viết và gọi đúng tên người bạn mới.

Huờn. Tôn Thất Huờn. Người cha dòng dõi vương tộc mà cục mịch ít nói, suốt ngày lo phụ việc chăm sóc cây con trong vườn ương. Huờn không thích tên của mình mấy vì có lần cậu bé nghe hắn cằn nhằn với mạ. Răng hồi nớ cha mạ không đặt tên tui là Hùng hay Hưng  nghe cho hay? Gán chi cái tên mà bạn bè không đứa mô kêu được hết... Bà mẹ thương con, an ủi. Ôn nội mi chữ nghĩa cả bồ, đặt tên cháu ý nghĩa cao siêu, mi vói chưa thấu rứa thôi. Đừng chê mà tội ôn con ơi...

Ở đâu rồi đứa bạn của một thời tuổi nhỏ. Những người bạn một thuở lớn lên. Đâu rồi chiếc nôi êm trong căn nhà kỷ niệm. Cơn lốc chiến tranh thổi tràn qua quê hương, quay cuồng trong đó một lũ người tuổi trẻ, chọn lựa, tan tác, điêu linh... Họ cùng trở nên già nua từ bên kia biển ngó về nhau, hoang mang một thời để nhớ, lồng lộng hoa niên.

Mới đây ông tình cờ đọc bài viết từ trong nước của một người bạn thời trung học. Bài văn hay, thành thật nỗi gợi nhớ man mác về một mùa hoa sữa đơm hương trên thành phố miền Nam Trung Phần nơi gia đình anh sống từ hơn bốn mươi năm qua. Bài viết còn nhắc đến “cốm mới” Hà Nội như một gợi nhớ để mà hoài niệm về cốm ở Quảng Nam, quê nhà anh đã bỏ đi để tha phương cầu thực bao năm.  Bài viết mang lại cho ông nỗi ưu phiền. Phải chăng ông đã xa quê hương quá lâu hay bạn ông đang mất mát một quê xưa tự cõi lòng mình? Hay đấy chỉ là ước lệ mới, buồn cười, của một số người viết bên đó, hiện giờ? Dù sao thì ông thà được buồn cười hơn là phải vướng mang thêm một nỗi buồn. Những năm gần đây, phải đợi đến sau khi một anh chàng nhạc sĩ  Huế ra Hà Nội viết được bài hát hay về mùa Thu ngoài đó, người ta chợt thấy nhan nhản thơ nhạc nhiều màu về hoa sữa, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ, “mùa cốm xanh về”...

Kỷ niệm là con đường ngắn nhất đến từ tim, không vòng vo, đứng lại, đi quanh. Nhớ về Nha Trang nào ai quên được hàng dương liễu dọc theo đại lộ Duy Tân, con đường ven biển từ Tòa Tỉnh đến Cầu Đá. Ôi Nha Trang! liễu xanh, biển xanh, khi mái tóc còn xanh... như lời thở than của người bạn lưu vong mỗi khi nhớ về thành phố biển quê nhà. Người bạn nhớ về những cây bàng gần trường Võ Tánh lá trở màu khi trời bắt đầu thu, nhớ “hàng me cao lá hát như reo” dẫn đến trường Nữ Trung Học dọc theo quân y viện Nguyễn Huệ. Như ông nhớ về tuổi thơ Đà Nẵng mát rượi bóng cây kiền kiền hay vết xước chùm trái chà là trên lối núi Phước Tường. Nhớ Đường Hàng Đoát nón lá che nghiêng, nhớ trưa nắng Kim Long rạo rực bóng dâu, nhớ đường phượng bay thắm xa ngả về Tây Lộc, nhớ nước Bến Ngự êm đềm bóng tre của những ngày hè ở Huế... Quên sao đành, cho dù cơn lốc cuồng xoay vẫn thổi rạc rài qua từng mùa chướng. Kỷ niệm thật thà chỉ đến từ dòng sông cũ, từ bóng mát tuổi thơ của riêng mình. Khác hơn, chỉ còn là thất thoát thương tâm.

Sương lan kín mặt hồ. Nửa vầng trăng chơ vơ trên ngọn cánh rừng phong hư huyễn tìm bóng mình khuất chìm đâu đó dưới đáy hồ thu. Tiếng vịt gọi bầy bảng lảng gần xa, quay quắt mơ tìm một bến bờ để dừng đôi cánh mỏi.

Phan thái Yên
Một cuối Thu

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2018