SỐ 81 - Xuân KỶ HỢI - THÁNG 1 NĂM 2019

A Thousand Splendid Suns 
Ngàn ánh dương rực rỡ

 

Khaled Hosseini
Trúc Hà dịch

Chương 21

Người tài xế taxi dừng xe lại để nhường cho một đoàn dài xe jeep Liên Xô và xe chở vũ khí đi qua. Tariq chồm qua khỏi người tài xế ở ghế trước và hét to, “Pajalusta! Pajalusta!”, “Cứ tự nhiên! Cứ tự nhiên!”

Một chiếc xe jeep nhấn còi và Tariq huýt sáo đáp lại, mặt rạng rỡ, tay vẫy chào vui vẻ. “Súng đẹp lắm!” nó hét. “Xe tốt lắm! Quân đội tài lắm! Nhưng rất tiếc phải chịu thua một đám nông dân bắn súng cao su!”

Ðoàn xe đi qua hết. Ngưòi tài xế hòa nhập lại vào dòng xe trên đường.

“Còn bao xa nữa?” Laila hỏi.
“Nhiều nhất một giờ,” người tài xế bảo. “Trừ khi lại gặp đoàn xe hay trạm kiểm soát nào nữa.”

Laila, ba nó và Tariq đang làm một chuyến đi chơi xa một ngày.

Nhỏ Hasina cũng muốn đi theo, nó van nài cha nó nhưng ông không cho. Chuyến đi là do ý của ba Laila. Mặc dù lương ông không cho phép, ông cũng đã thuê xe và tài xế cho cả ngày. Ông không chịu tiết lộ về địa điểm họ sẽ đến mà chỉ nói rằng, với nơi này, ông muốn góp phần trong việc giáo dục Laila.

Họ đi từ năm giờ sáng. Qua kính xe phía Laila, phong cảnh chuyển từ những đỉnh núi tuyết phủ đến sa mạc rồi đến những hẻm núi và những vách đá cháy nắng. Dọc đường, họ đi qua những căn nhà vách đất mái tranh và những cánh đồng điểm đầy những bó lúa mì. Xa xa đây đó trên những khoảng đất bụi mù, Laila nhận ra những căn lều màu đen của dân du mục. Và nhiều lần, xác những chiếc xe tăng Liên Xô bị cháy và những chiếc trực thăng bị bắn rơi. Ðây, Laila nghĩ, chính là A Phú Hãn của anh Ahmad và anh Noor. Ðây, ngay tại những tỉnh lỵ, chính là nơi cuộc chiến đã xảy ra. Chứ không phải ở Kabul. Kabul phần lớn được bình yên. Ở Kabul, nếu không có tiếng súng thỉnh thoảng bùng nổ, nếu không có những người lính Liên Xô hút thuốc trên vỉa hè và những chiếc xe jeep chạy đầy đường, thì có lẽ chiến tranh đã chỉ là một tin đồn mà thôi.

Cuối buổi sáng, sau khi đã qua hai trạm kiểm soát nữa thì xe tiến vô một thung lũng. Ba cho Laila chồm qua ghế để chỉ cho nó một loạt các bức tường có vẻ cổ xưa, màu nắng đỏ, ở xa xa.

“Ðó là Shar-e-Zohak. Thành phố Ðỏ. Từng là một thành trì kiên cố dựng lên khoảng chín trăm năm về trước để bảo vệ thung lũng, chống quân xâm lược. Vào thế kỷ thứ mười ba, cháu nội trai của Thành Cát Tư Hãn tấn công thành nhưng bị giết chết. Sau đó chính Thành Cát Tư Hãn đã phá hủy thành.”

“Và đó, các bạn trẻ thân, là câu chuyện về đất nước của chúng ta, hết kẻ xâm lược này đến kẻ xâm lược khác,” người tài xế nói và gạt tàn thuốc qua cửa xe. “Nam Tư. Ba Tư. Á Rập. Mông Cổ. Rồi bây giờ Liên Xô. Tuy nhiên, mình giống như những bức tường trên kia. Bầm dập, nhìn chẳng đẹp đẽ gì, nhưng vẫn còn đứng vững. Có đúng không, ông anh?

“Ðúng như thế,” ba Laila đáp.

oOo

Nửa tiếng sau, người tài xế cho xe dừng lại.

“Xuống đi, hai con,” ba nói. “Xuống mà coi này.”

Họ ra khỏi xe. Ba đưa tay chỉ. “Kia kìa. Thấy không.”

Tariq há hốc mồm nhìn. Laila cũng thế. Và nó nhận biết ngay là dù nó có sống đến trăm tuổi cũng sẽ không bao giờ lại được nhìn thấy một thứ gì lộng lẫy như thế nữa.

Hai pho tương Phật to kinh khủng, sừng sững cao hơn nhiều so với sự tưởng tượng của Laila qua tất cả những tấm hình nó đã được nhìn thấy. Ðược tạc trong vách đá bạc màu nắng, hai pho tượng nhìn xuyên xuống cha con nó như gần hai ngàn năm trước, Laila tưởng tượng, đã chăm chú nhìn theo những đoàn xe đi ngang qua thung lũng trên Con Ðường Tơ Lụa. Hai bên pho tượng, dọc theo chỗ lõm trên vách đá cheo leo, chi chít vô số những hang nhỏ.

“Cháu cảm thấy mình thật nhỏ bé,” Tariq nói.
“Các con muốn leo lên không?” ba hỏi.
“Leo lên tượng hả?” Laila hỏi. “Ðược không ba?”

Ba mỉm cười và chìa tay ra. “Ta đi nào.”

Tariq leo thật khó khăn, nó phải vịn vô cả hai cha con Laila để từng bước nhích lên những bậc thang quanh co, chật hẹp và thiếu ánh sang. Trên đường leo, đâu đâu họ cũng nhìn thấy những cái hang tối tăm và những đường hầm chi chít như tổ ong trong vách đá.

“Cẩn thận khi đặt chân nhé,” ba nói. Tiếng ba vang to. “Ðất trơn nguy hiểm đó.”

Nhiều chỗ, những bậc thang hở, nhìn được vào bụng tượng Phật.

“Ðừng nhìn xuống dưới, các con. Cứ nhìn thẳng trước mặt.”

Trong khi leo, ba nói cho hai đứa biết thành phố Bamiyan một thời đã là một trung tâm Phật giáo phồn thịnh cho đến khi rơi dưới sự cai trị của Hồi giáo Á Rập vào thế kỷ thứ chín. Những vách đá sa thạch từng là nơi trú ngụ của các sư Phật giáo, họ đục hang trong đá để có chỗ ở và cho khách hành hương nghỉ ngơi, trú ẩn. Ba nói các sư đã vẽ những bức họa tuyệt đẹp trên vách và trên nóc hang của họ.

“Có một thời,” ba nói, “đã có năm ngàn vị sư sống ẩn dật trong những hang này.”

Khi họ lên tới đỉnh, Tariq gần như đứt hơi. Ba cũng hổn hển. Nhưng mắt ba ngời sáng vì hăng hái.

“Mình đang đứng trên đỉnh đầu của tượng,” ba nói, vừa lau trán với chiếc khăn tay. “Ở kia có chỗ lõm, mình có thể đứng nhìn ra ngoài.”

Họ nhích từ từ ra tới chỗ vách đá giốc đứng hiểm trở, đứng sát cạnh nhau, ba ở giữa, và ngắm nhìn  thung lũng phía dưới.

“Ồ, xem kìa!” Laila kêu lên.

Ba nhoẻn miệng cười. Bên dưới, thung lũng Bamiyan được trải thảm bằng những mảnh ruộng tốt tươi. Ba nói đó là những ruộng lúa mì mùa đông và cỏ linh lăng với cả khoai tây nữa. Những hàng bạch dương bao bọc xung quanh, những con suối và mương lạch chằng chịt trên ruộng, những dáng phụ nữ tí hon ngồi xổm giặt quần áo trên bờ. Ba đưa tay chỉ những cánh đồng lúa và lúa mạch phủ kín triền dốc. Trời mùa thu và Laila nhìn thấy rõ trên nóc những ngôi nhà gạch bùn màu đỏ, những người dân trong chiếc áo dài màu tươi sáng đang trải lúa ra phơi. Con đường chính đi qua thị trấn cũng trồng bạch dương hai bên. Hai bên đường có những cửa hàng nhỏ, những quán nước trà và những người thợ hớt tóc bên lề đường. Xa khỏi thị trấn, khỏi con sông và những con suối, Laila thấy những chân đồi trần trụi, bụi nâu, và xa hơn nữa, tách xa khỏi mọi thứ khác ở A Phú Hãn, là dãy núi Hindu Kush phủ tuyết.

Bên trên mọi thứ này, bầu trời xanh trong vắt, không gợn chút mây.

“Yên tĩnh quá,” Laila hít thở. Nó nhìn thấy những con cừu và ngựa tí hon nhưng không nghe được tiếng be be và tiếng hí của chúng. 

“Ðó là điều ba nhớ nhất về chỗ này,” ba nói. “Sự yên lặng và sự an bình. Ta muốn các con trải nghiệm điều đó. Nhưng ta cũng muốn các con nhìn thấy tận mắt di sản của đất nước các con, để các con hiểu được quá khứ phong phú của nước mình. Các con thấy không, cũng có những điều ta có thể dạy cho các con. Một số điều học từ sách vở, nhưng cũng có những điều các con phải chứng kiến tận mắt và cảm nhận tận nơi.”

“Nhìn kìa,” Tariq kêu lên.

Họ nhìn theo một con chim ưng đang lượn vòng trên không.

“Ba đã dẫn má lên đây bao giờ chưa?” Laila hỏi.

“Ồ, rất nhiều lần. Trước khi sanh mấy anh. Và sau đó nữa. Má con hồi đó tánh mạo hiểm và … sinh động lắm. Cô ta gần như là người linh hoạt nhất, vui vẻ nhất mà ba từng gặp.” Ông mỉm cười khi nhớ lại. “Cô ta có giọng cười đặc biệt. Nói thật, đó là lý do ba cưới má con đó, Laila, vì giọng cười của cô ta. Không thể nào cưỡng lại được giọng cười đó.”

Một làn sóng trìu mến bỗng dâng lên trong lòng Laila. Kể từ nay, nó sẽ luôn luôn nhớ đến ba trong  hình ảnh này: ba hồi tưởng về má, đứng chống khuỷu tay lên tảng đá, hai tay ôm cằm, mái tóc rối bời vì gió, mắt nheo vì nắng.

“Cháu đi xem vài hang động nhé,” Tariq bảo.
“Cẩn thận nhé,” ba nói.
“Dạ,” tiếng Tariq vang lại.
  
Laila theo dõi một nhóm ba người đàn ông đứng tít dưới kia nói chuyện, gần bên con bò cột bên hàng rào. Chung quanh họ, cây cối đã bắt đầu đổi sang màu vàng, cam và đỏ thắm.

“Ba cũng nhớ các anh chứ, con biết không,” ba nói. Mắt ông hơi rung rưng. Cái cằm run run. “Tánh ba không… Còn má con thì, vui hay buồn gì cũng quá độ. Má không dấu được. Trước giờ vẫn thế. Còn ba thì có lẽ khác. Ba có xu hướng… Nhưng cái chết của các anh con cũng khiến ba tan nát. Ba cũng nhớ chúng lắm. Không có ngày nào mà ba không… Khổ lắm con ơi. Thật khổ.” Ông chùi nhanh hai khóe mắt bằng ngón tay cái và trỏ. Lúc ông cố nói, giọng ông nghẹn ngào không nói được. Ông khép môi, cắn răng và chờ. Ông hít hơi thật lâu và thật sâu, rồi nhìn Laila. “Nhưng ba mừng vì ba còn có con. Mỗi ngày ba đều cám ơn Thượng Ðế đã ban con cho ba. Mỗi ngày. Có đôi khi, những hôm má con chán đời nhất, ba có cảm tưởng như ba chỉ còn có mỗi mình con thôi.”

Laila đứng sát vào ba và tựa má lên ngực ông. Ba có vẻ hơi giật mình – khác với má, ba hiếm khi tỏ tình thương bằng cử chỉ. Ba đặt một nụ hôn thật nhanh lên đỉnh đầu Laila và cũng vòng tay ôm nó một cách vụng về. Họ đứng như thế một lúc lâu, nhìn xuống thung lũng Bamiyan bên dưới.

“Ba yêu mảnh đất này vô cùng, nhưng có những lúc ba nghĩ phải rời bỏ nơi đây,” ba nói.
“Ðể đi đâu?”
“Nơi nào cũng được, miễn dễ quên. Có lẽ Pakistan trước. Một năm, có thể hai năm. Trong khi chờ đợi thủ tục giấy tờ.”
“Rồi sau đó?”
“Rồi sau đó, chà, thế giới mênh mông. Có thể Hoa Kỳ. Chỗ nào gần biển. Cựu Kim Sơn (California) chẳng hạn.”

Ba nói Mỹ là dân tộc hào phóng. Họ sẽ giúp mình tiền và thực phẩm một thời gian cho đến khi gia đình mình có thể tự túc được.

“Ba sẽ tìm được việc làm, rồi sau vài năm, khi mình đã dành dụm đủ tiền, mình sẽ mở một tiệm ăn A Phú Hãn nhỏ. Chẳng cần sang trọng, con à, chỉ cần một chỗ nhỏ khiêm nhường thôi, vài cái bàn, dăm bức thảm. Hoặc giả treo vài tấm ảnh của Kabul. Mình cho người Mỹ thưởng thức hương vị thức ăn A Phú Hãn. Và với tài nấu nướng của má con, người ta sẽ xếp hàng dài ngoằn trước tiệm.”

“Và con, con sẽ tiếp tục đi học, tất nhiên rồi. Con biết ba nghĩ sao về việc này mà. Ðó sẽ là ưu tiên hàng đầu của mình, cho con được học đến nơi đến chốn, hết trung học rồi vào đại học. Tuy nhiên, những lúc con rảnh rỗi, nếu con muốn, con có thể giúp một tay, chẳng hạn như ghi đơn hàng, châm nước, đại loại như thế.”

Ba nói tiệm mình sẽ nhận tiệc sinh nhật, lễ cưới hỏi, họp mặt Tết. Tiệm ăn sẽ trở thành nơi gặp gỡ của  những người A Phú Hãn, giống như mình, chạy trốn chiến tranh. Rồi tới khuya, sau khi hết khách và tiệm đã dọn dẹp xong, ba người sẽ ngồi uống trà giữa những chiếc bàn trống, mệt nhưng đầy lòng biết ơn cho sự may mắn của mình.

Sau khi dứt lời, ông trở nên im lặng. Cả hai cha con đều im lặng. Họ biết má chẳng đi đâu. Rời khỏi A Phú Hãn là một điều không tưởng đối với má lúc hai anh Ahmad và Noor còn sống. Bây giờ hai anh đã chết thì việc cuốn gói bỏ chạy lại càng là một sự sỉ nhục, phản bội, chối bỏ sự hy sinh của hai người con của má.

Sao anh lại có thể nghĩ đến chuyện đó hả? Laila như nghe được lời má nói. Cái chết của hai con mình không có nghĩa lý gì đối với anh hay sao? Niềm an ủi duy nhất của em là em biết mình đang bước chân trên mảnh đất đã thấm máu con mình. Không. Không bao giờ.

Và ba thì không bao giờ đi nếu không có má, Laila biết chắc, mặc dù bây giờ má không còn làm đủ bổn phận người vợ đối với ba, và người mẹ đối với Laila. Vì má, ba sẽ gạt qua một bên giấc mơ này của mình, giống như ông phủi những vết bột trên áo choàng mỗi khi ông đi làm về. Và như thế, họ sẽ ở lại. Ở lại cho tới khi chiến tranh kết thúc. Ở lại để đón nhận mọi thứ đến sau chiến tranh.

Laila còn nhớ có lần nghe má nói với ba là má đã lấy phải một người đàn ông thiếu cương quyết. Má đâu có hiểu. Má đâu có hiểu là nếu má tự soi gương thì sẽ thấy ngay kẻ thiếu cương quyết đang nhìn má.

Một lúc lâu sau, khi họ đã ăn bữa trưa với trứng và khoai tây luộc cùng với bánh mì, Tariq đánh giấc trưa dưới gốc cây bên bờ suối chảy róc rách. Anh chàng cẩn thận xếp chiếc áo choàng làm gối đầu, hai tay khoanh trước ngực. Người tài xế đi vô làng để mua hột hạnh nhân. Ba ngồi dưới gốc một cây keo to đọc sách. Laila có biết cuốn sách này. Ba đã có lần đọc cho nó nghe rồi. Sách kể câu chuyện một ngư phủ già tên Santiago câu được con cá khổng lồ. Nhưng đến khi đưa được chiếc ghe về đến bến an toàn thì con cá chẳng còn gì nữa; lũ cá mập đã rỉa nó tiêu tan.

Laila ngồi bên bờ suối, ngâm chân trong giòng nước mát lạnh. Trên không, muỗi bay vo ve và hột bông gòn nhảy múa. Một con chuồn chuồn bay vo vo gần đó.

Laila ngắm đôi cánh chuồn chuồn phản chiếu tia nắng khi bay vo vo từ ngọn cỏ này qua ngọn cỏ khác. Ðôi cánh chớp màu tím, lục, rồi cam. Bên kia suối, một đám con trai địa phương đang lượm phân bò khô bỏ vô bao bố buộc sau lưng. Ðâu đó có tiếng lừa kêu. Cái máy phát điện bắt đầu nổ máy.

Laila lại ngẫm nghĩ về giấc mơ nhỏ của ba nó. Một nơi nào đó gần biển.

Có một điều nó đã không nói với ba lúc đứng trên đỉnh tượng Phật: đó là do một lý do quan trọng, nó mừng vì nhà không đi được. Nó sẽ nhớ nhỏ Giti với vẻ mặt nghiêm trang đến khó chịu, thật thế, và ngay cả nhỏ Hasina với giọng cười độc ác và lời trêu chọc vô ý tứ nữa. Nhưng hơn hết, nó còn nhớ quá rõ nỗi khổ mà nó không tài nào thoát được của bốn tuần lễ vắng mặt Tariq lúc anh chàng đi Ghazni. Nó nhớ quá rõ thời gian dài đăng đẳng như thế nào khi thiếu Tariq, nó đã nặng nề lê gót và cảm thấy chán nản, mất thăng bằng như thế nào. Thì làm sao nó có thể đương đầu nổi với sự thiếu vắng Tariq vĩnh viễn?

Có thể đó là điều vô tâm khi thiết tha muốn sống kề cận một người ở nơi đây, trên một đất nước mà súng đạn đã phá tan thân xác hai anh nó. Tuy nhiên, chỉ cần hình dung Tariq tấn công thằng Khadim bằng cái chân gỗ của nó, là không có gì ý nghĩa hơn đối với Laila trên đời này.

oOo

Sáu tháng sau, tháng tư năm 1988, ba về nhà với tin tức quan trọng.

“Họ đã ký hiệp ước!” ba nói. “Ở Genève.” Chính thức rồi. Họ đang rút đi. Trong vòng chín tháng nữa thôi sẽ không còn bóng dáng một tên Liên Xô nào ở A Phú Hãn nữa!”

Lúc đó má ngồi dậy trên giường. Má nhún vai.

“Nhưng chế độ cộng sản vẫn còn đó,” má bảo. “Najibullah là tổng thống bù nhìn của Liên Xô. Ông ta không đi đâu. Không, chiến tranh sẽ còn tiếp diễn. Chưa hết đâu.”

“Najibullah sẽ không ở lâu,” ba nói. “Họ đang rút đi mà. Họ đang thực sự rút quân!”

“Hai cha con cứ ăn mừng, nếu muốn. Còn tôi, tôi sẽ không yên được cho tới khi nào thánh chiến  quân Hồi diễn hành mừng chiến thắng ngay tại thủ đô Kabul này.”

Nói xong, má lại nằm xuống và kéo chăn đắp lên người.    

(còn tiếp)                                         

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1999-2019