Cafe  Âm U
               
 
                Nhà thơ Phạm Thiên Thư 
                
                “...Cõi  người có bao nhiêu
  Mà tình sầu  vô lượng…”
   [PhạmThiênThư]
              Khi bay tới Havana, tôi không ở  tại thành phố có những kiến trúc nửa cổ điển, nửa tân kỳ. Những  hào nhoáng của vài building, cố gắng hết sức để từa tựa như White  House hay Toà Nhà Quốc Hội ở Washington DC.
              Đáp chuyến xe lửa ầm ĩ, còn  nguyên những trăm năm của một chuyến tàu vừa chậm chạp, vừa cũ kỹ.  Từ Havana tôi ghé Matanzas Town. Loanh quanh trong những xóm nghèo, tôi  tìm ra con phố bé xíu, nơi tôi hỏi thuê một gian nhà nhỏ, chẳng có  chút tiện nghi nào. Tiện nghi? Có phải đã chẳng đâu bằng nước Mỹ,  nhất lại là California...
              Khi đến với Cuba, tôi mê những heo  hắt, những nắng tàn mưa sớm, cùng sự quạnh hiu của mỗi đêm về, trong  những khu xóm nghèo nàn. Mỗi chiều, tôi hay ngồi cafe ở một quán nhỏ  ngoài trời. Dựa lưng bên tường vôi loang lở, nhìn những vũng nước chẻ  đôi chẻ ba trên nền gạch vừa nghiêng chao, vừa như sắp vỡ.
              Tôi ngồi đó tới tối, chờ khi  ánh đèn măng xông thắp sáng. Cái ánh sáng không tối, cũng chẳng bao  giờ đủ sáng, hắt ra từ cái xóm lạ mà như đã rọi soi, đã theo tôi  tìm về chút tàn rơi, của một đời sống từ những tháng ngày vô cùng  xưa cũ…
              oOo
              Ôm ấp nhiều mơ màng,  tuổi 15, 17 tôi mang thơ Phạm Thiên Thư  rải trên tóc thơm tho, viết trong tà áo trắng.
              “...Anh khoác áo nâu sòng
                  Em chân trời biền biệt…
              ...Bây giờ anh qua đó
                  Còn thấy chữ trong chuông…”
                                          [PhạmThiênThư] 
              Và rồi khi đất nước điêu linh năm  1975. Những thơ, những văn chương chữ nghĩa đã rụng rơi theo mọi thứ  hoang tàn, của một quê hương lầm than với đầy những tai ương, và điên  đảo.
              Lần đầu tiên anh đến nhà chúng  tôi ở Cư xá Thanh Đa, Phạm Thiên Thư chẳng mang dáng vẻ gì của một Thi  sĩ như tôi từng tưởng tượng, qua những vần thơ hằng đọc thời thiếu  nữ. Anh cũng chẳng màng gì̀ nữa đến chuyện thi ca, văn chương hay thơ phú.
              Nghiêu Đề và Phạm Thiên Thư, hai  nhân vật sống vất vưởng trên mây, giờ phải ngồi giữa nhà, bàn chuyện  cơm áo. Đó là những tháng ngày của đầu năm 1977. Anh nói với giọng  điềm đạm, chậm rãi. Chú chó nhỏ của tôi nằm bên bàn tay ve vuốt của  Anh mà như sắp ngủ. 
              “Con chó liêm sỉ ”, tên mới chúng  tôi gọi, khi qua đã nhiều ngày mà nó nhất định không ăn bo bo, mì  sợi, khoai sắn, như chúng tôi đã phải ăn mỗi sáng, mọi trưa và chiều  tối. 
              Nó có liêm sỉ hơn chúng tôi, nó  quyết liệt, nó thà nhịn đói, nó thà chết...
              oOo
              Phạm Thiên Thư giận dữ với câu  chửi thề hiếm hoi, quăng hộp diêm mà dù cố gắng lắm, cũng chẳng có  que nào cháy, vô lò than. Loại than mà không phải riêng anh, cả nước  đã không ai nhóm nổi. Có lần tôi đã phải đầm đìa nước mắt vì khói  và với cả tức giận, vì sau 2 tiếng loay hoay, tôi cũng không biết làm  sao cho than cháy trước bữa cơm chiều.
              “Quán” Cafe mà luôn chỉ có 2  người. Anh Nghiêu Đề và tôi.
              Một ông yêu thơ Phạm Thiên Thư, có  căn nhà trên đường Phan Thanh Giản, tốt bụng cho Anh Chị kê 2 chiếc bàn  nhỏ bên góc hiên nhà để bán cafe, đặc biệt là chỉ được bán buổi  chiều, sau 5 giờ.
              Quán không có điện, chút ánh  sáng vật vờ từ những ngọn đèn đường, không đủ cho chúng tôi nhìn rõ  mặt nhau. Nhờ chút ánh lửa từ lò than rực rỡ, có khi đã làm cho đêm  bớt tối tăm, và như đã sưởi ấm bốn người chúng tôi, nhỏ to quanh  những câu chuyện mà ai cũng chỉ dám thì thào, nho nhỏ...
              Khởi đầu cho những tiếng cười,  luôn là lúc anh Nghiêu Đề quăng gói Vàm Cỏ trên bàn mời mọc: “Hút đi  ông, hút đại đi cho nó bổ”.
              Mỗi tháng, “Văn nghệ sĩ” được  mua 4 gói thuốc lá, anh Phạm Thiên Thư phải để dành Vàm Cỏ để bán  lẻ cho khách, anh chỉ hút thuốc “lá đu đủ Lạng Sơn”. Rất chậm rãi,  và lặng lẽ, anh quấn những sợi thuốc lá trong tờ giấy lịch, hình  ảnh trông hiền lành, lại có chút gì như sắp cam tâm.
              Để ý, tôi thấy anh chỉ sôi nổi  khi bàn về ‘Dưỡng Sinh Điển Công”, một môn Đông Y mà sau 1975 rất nhiều  người theo học, vì cả nước có nhu cầu mà chẳng bao giờ được đầy đủ  thuốc men.
              Bạn bè thường nhờ anh hướng dẫn  về thuốc Nam, nhân tiện anh giúp bấm huyệt cho hết nhức mỏi, đau tứ  chi, hay cả đau đầu...
              Có khi tôi thấy anh có tướng của  một ông thày bốc thuốc hơn là một Thi sĩ. Tôi đã dần quên đi một  Phạm Thiên Thư có những vần thơ trác tuyệt, một PTThư đã mang đầy  hương lửa, vào giấy vở học trò thơ mộng của chúng tôi.
              Thay vào đó, chị Mai Trinh, hiền  thê của anh, và cũng là ái nữ của nhà văn Hoàng Ly
              Với đôi mắt long lanh sáng, bên  bếp lửa Cafe, chúng tôi thường được nghe đọc những bài thơ Chị làm  cho Phạm Thiên Thư. Những vần thơ đẹp như trăng, và rất nồng nàn…
              Cafe Phạm Thiên Thư vắng tanh, với  những im lìm, dù quán chỉ xao xác với 2 chiếc bàn nhỏ.
              Thỉnh thoảngThi sĩ Bùi Giáng,  vai khoác chiếc túi rách tả tơi, tay kéo theo sợi giây dài có gắn  rất nhiều lon sữa bò sét rỉ. Với vẻ mặt hóm hỉnh, Ông nghênh ngang  tới ngồi ở chiếc bàn còn lại.
              Tiếng kêu của những lon sữa kéo  lê, khi chầm chậm, lúc vội vã trên nền ciment, tạo ra một âm thanh vừa  kỳ quái, vừa dễ sợ. Cộng thêm là tiếng cười man dại, đầy cuồng điên  của Bùi Giáng…
              Nhưng đó là những âm thanh, những  lao xao duy nhất của Cafe Âm U.
              oOo
              Tôi uống tới ly cafe thứ 4, trong  buổi chiều cuối cùng ngồi với Cuba.
              Mưa lất phất lạnh, tôi vẫn dựa  lưng trên vách ướt ngoài trời, vẫn ngó mông xa ra con hẻm nhỏ, có  những mái nhà hoang sơ ướt.
              Chủ quán múa tay cho tôi hiểu,  phố xá đang bị cúp điện. Bà muốn tôi vô trong ngồi cho ấm áp..
              Hơ đôi tay lạnh, tôi nhìn ngọn lửa  đỏ chấp chới trong bếp nấu cafe. 
              Ánh lửa làm bùng cháy nỗi nhớ  của tôi về quán cafe tăm tối của Phạm Thiên Thư 40 năm về trước. Cái  quán mà bàn ghế cũng quạnh hiu, chỉ có 4 chúng tôi buồn rầu ngồi  thở than cùng ế ẩm. Cafe âm u tối, Cafe với những mưa bay, và gió se  sắt lạnh của Sàigon.
              “Quán cúp điện” ở tận Cuba, mà  sao tôi lại thiết tha nhớ về những con đường tăm tối? Những ngày  Sàigon, nhiều khi ánh điện đã chẳng tới được bất cứ nhà ai.
              Đêm đó, cũng như mọi đêm không  đèn đóm. Cafe Phạm Thiên Thư ngoài ánh lửa, còn có chút trăng soi. 
                Trăng nghiêng trên tóc anh, và lần  đầu tiên chúng tôi nghe anh thầm thì, lan man đọc lại những vần thơ  cũ.
              “Xưa em làm kiếp chim
                  Chết mục trên đường cỏ
                  Anh làm cội băng mai
                  Để tang em mấy thuở
              Xưa em làm chữ biếc
                  Nằm giữa lòng cuốn kinh
                  Anh là Thiền Sư buồn
                  Ngồi tụng dưới ánh trăng…”
                  [Phạm Thiên Thư]
              oOo
              Rời Cuba khi trời còn mờ mờ  tối, quán Cafe tôi hay ngồi vẫn chưa mở cửa.
              Phía trước tôi, là một ông Cuban. Trong ánh sáng  mù câm, tôi chẳng thấy gì, chỉ nghe tiếng rớt rơi của những chiếc  lon, mà Ông đang quăng ra từ vài đống rác nhỏ ven đường.
              Chút lúng túng của những tiếng  rơi, sao tôi nghe như nhiều gần gũi?
              Suốt chuyến bay dài, tôi đã  chẳng nghe thấy gì khác. Bên tai tôi là vang vọng cái âm thanh lạ kỳ… 
              Âm thanh từ những chiếc lon được  kéo rất ngập ngừng, nhưng lê thê buồn của Bùi Giáng.
              Lê Chiều Giang