SỐ 91 - THÁNG 7 NĂM 2021

NHỮNG NGÀY NẮNG HIẾM

Tôi thường bị khó ngủ lúc nửa đêm về sáng. Nằm mãi cũng không thành mộng nên tôi thường mò xuống bếp nói chuyện Sài Gòn với Quân trong lúc bạn tù cải tạo vẫn còn đắm chìm trong giấc ngủ mệt nhọc.Bếp lửa với tôi luôn luôn là một niềm vui. Sáng nay thì khác, trong bóng tối tôi lặng lẽ sắp xếp áo quần tấm đắp, tấm trải vào ba lô sửa soạn cho chuyến đi lao động xa trại với một nhóm bạn tù. Từ trên chòi canh ở sườn đồi phía bên kia đầm nước ngăn chia khu nhà cán bộ và trại tù tiếng kẻng báo tập thể dục vang lên phiền toái.

Màng hơi nước trắng đục che kín mặt đầm làm chiếc cầu tre bắc ngang qua trở nên mỏng manh và xa xôi hơn. Trên cầu bóng gã vệ binh lầm lũi bước theo vệt sáng của chiếc đèn bấm lắt lay như một bóng ma. Ngoài sân chỉ lèo tèo một nhóm nhỏ thật sự sắp hàng nhảy những động tác thể dục, số còn lại vẫn nằm trên chõng tre miệng hô to một, hai, ba, bốn rất ăn nhịp. Tiếng quát tháo của gã vệ binh từ phía đầu dãy trại khiến chúng tôi đành phải tiếc rẻ bỏ cơn ngủ nướng.

Mọi người lục tục xuống nhà ăn để lãnh nước sôi và phần ăn trưa chuẩn bị cho ngày lao động dài. Sau khi tập trung điểm danh ở hội trường, vệ binh dẫn chúng tôi ra vùng lao động. Họ canh gác, ngủ gà ngủ vịt ở đó rồi dẫn chúng tôi về lúc chiều tối. Những ngày này nhiệm vụ của trại là dọn cả trăm mẫu rẫy để chuẩn bị trồng khoai mì. Chỉ tiêu của nhóm bốn người chúng tôi là ra vùng Phước Bình, cách trại hơn hai mươi cây số, mỗi ngày tìm chặt và chất đầy hai chuyến xe GMC cây khoai mì để làm giống. Hai mươi xe. Công việc sẽ rất vất vả nhưng niềm vui được đi xa trại đã làm tôi không ngủ được tối qua.

Trong bếp ba người bạn tù Bình, Việt, và Lập đang đấu láo với “anh nuôi” Quân chờ lãnh gạo.
Việt xòe tay nhanh nhảu.

- Mười ngày lao động cọng với hai ngày đường là mười hai. Với tiêu chuẩn mười lăm ký gạo một tháng, như vậy mỗi đứa tao sẽ được lãnh sáu ký. Chịu chưa!? Đong đi!

Hắn hả miệng cười, dang rộng miệng bao cát trước mặt Quân như người ăn xin. Quân cự nự.

- Thằng này khôn tổ mẹ! Tiêu chuẩn trại là mười lăm ký lương thực chớ không phải mười lăm ký gạo. Mầy có nhớ là bao nhiêu lần bắp nấu, khoai mì, bột mì, bo bo tụi mình phải nhai một tháng không?

Tôi giảng hòa.

- Thôi, ăn gian không được thì bỏ! Đong cho tụi tao mỗi đứa ba ký được rồi. Đào mót khoai mì ngoài rẫy của dân cũng dư sức mưu sinh.

Chờ cho nhóm xách gạo ra khỏi bếp, Quân khều tôi lại đưa cho khúc xôi nấu ống lồ ô. Quân nháy mắt cười đểu.

- Vậy là tao phải đi rẫy thăm người đẹp miền cao một mình rồi!
- Mầy liệu hồn. Vệ binh bắt được là mút chỉ, hết ra trại luôn.

Quân đưa thêm mấy cục đường tán nhắc tôi nhớ ghé bệnh xá gặp bác sĩ Lãng để hắn đưa mấy tên thuốc cần mua cho anh Minh.

Thỉnh thoảng tôi và Quân lén lội suối qua khu rẫy Thượng tìm nấm mèo và chặt cây xá xị về nấu. Có lần bóng dáng người đàn bà Thượng còn trẻ đang làm rẫy đã làm chùng chân hai gã đàn ông gần ba năm xa phố xa nhà. Hai đứa ngồi lại dưới bóng cái chòi nhỏ giữa rẫy lúa gợi chuyện với người người đàn ông Thượng đứng tuổi đang chẻ lồ ô đan thúng. Không dám nhìn lâu cặp vú nâu bóng cong lửng của người đàn bà Thượng, tôi quay lưng lại hỏi thăm chuyện nương rẫy.

Câu chuyện trở nên đậm đà khi người đàn ông Thượng cho biết đã đi lính gần hai mươi năm ở tiểu khu Phước Long. Mấy năm sau này người lính Thượng về gác nhà ông Đại Tá ở đường Trần hoàng Quân, Sài Gòn. Sau bảy lăm, sống ở thị xã Phước Bình, bộ đội lui tới rầy rà quá nên dẫn gia đình về đây từ mùa rẫy năm ngoái. Người cha gọi cô con gái vào bắt lửa lên nấu xôi. Dồn nếp vào ống lồ ô tươi chèn kín bằng lá chuối, người đàn bà đặt ống tre bốn mươi lăm độ trên bếp lửa, thỉnh thoảng xoay ống cho lửa nướng đều. Xôi nấu ống lồ ô ăn rất dẻo và để dành được lâu. Tôi và Quân phải nài nỉ mãi hai cha con mới chịu lấy tiền xôi. Từ đó người lính Thượng già đã trở thành bạn vong niên.

Lúc chúng tôi tới hội trường cạnh khu nhà cán bộ thì một người vệ binh cầm súng đang đứng chờ. Dáng hắn lơ đãng, ba lô trên nền đất. Bình nói nhỏ.

- May quá thằng Chanh đi theo mình chớ không phải thằng Hùng.

Hùng tên bộ đội người Hải Phòng vẫn thường ba hoa không giấu giếm cái quá khứ du đãng trộm cắp hàng hóa từ các tàu buôn Ba Lan, Tiệp Khắc ở bến cảng Hải Phòng những năm cuối cuộc chiến. Lúc mới về trại, hắn vẫn thường hống hách kiếm chuyện trói cải tạo viên vào gốc cây hoặc để nằm trên nền đất không cựa quậy được hằng nửa ngày trời. Sau lần bị bộ đội gốc miền Nam chận đánh phải đi nằm bệnh xá cả tháng, hắn đã bỏ bớt thói du đãng nhưng vẫn không được ai ưa.

Dừng lại ở đầu con dốc dẫn vào tỉnh lộ 10, người vệ binh vắn tắt về kỷ luật chúng tôi phải tuân theo trong thời gian lao động xa trại. Phía dưới chân đồi từ mấy dãy trại, cải tạo viên với cuốc xẻng trên vai, áo lính bạc màu, lục tục bước qua cầu đi về phía hội trường. Đoàn người lê bước ngoằn ngoèo như con rắn bò buồn bã. Một ngày nữa. Một ngày dài lao động nữa trong đời người cải tạo đang bắt đầu. Sức mạnh nào đã giúp bạn thức dậy sáng nay? Cơn mơ nào sẽ giúp anh mớm sức cho ngày sắp tới? Những cơn mơ có khác nhau nhưng tôi biết chắc tất cả chúng ta ai cũng đã mơ giấc mơ đẹp đêm qua. Mơ trở về nhà. Bếp lửa. Con thơ. Vợ hiền. Gối chăn. Cơn mơ rất người đã làm bạn thức giấc nửa đêm, tiếc rẻ nỗi giật động bơ vơ mệt nhoài. Xin tạ ơn trời chúng ta vẫn còn một giấc mơ để sống. Từng ngày.

Gần hai năm trước, vùng đồi rẫy gần tám cây số dọc theo tỉnh lộ 10 này đã bao phủ bởi một màu xanh đặc của từng cánh rừng lồ ô bạt ngàn nối tiếp nhau. Đoàn xe motolova cũ kỹ bít bùng chật như nêm, chở chúng tôi chuyển trại từ Long Khánh lên. Trời mới nửa chiều mà đã nhá nhem tối bởi tàng lá rừng đan đặc che kín trên đầu. Sức người đã làm con đường mòn trở thành đường cái quan. Dọc theo phía triền cao của con đường nối tiếp nhau những cánh rẫy đã gặt xong mùa đầu. Vài tháng tới đây sẽ tràn một màu xanh non của bắp sắn. Bên triền thấp những dãy trại dựa sâu vào lưng đồi tìm kiếm sự chở che của đất. Màu mái tranh chen lẫn với màu đỏ của mái lá trung quân khiến tôi trong một giây ngắn ngủi tưởng mình đang đi trong rừng thu miền Đông Bắc nước Mỹ. Đôi má cô sinh viên trường đại học Providence đỏ thơm như trái mận chín.

Chúng tôi đã dựng nhà cho mình, cho cán bộ vệ binh, dựng hội trường, nhà khách, nhà bếp, nhà kho. Chúng tôi đã gắng sức gầy dựng cho mình những tiện nghi tối thiểu để sống còn với bất ổn, với thường trực tai ương đến từ người từ trời. Lúa bắp rau đậu tỉa trồng chăm bón thâu hoạch về phải cân đong cho nhà nước, đổi lại là mười lăm ký lương thực một tháng và một năm vài lần có được chút thịt nhân mấy ngày lễ tết.

Khu bệnh xá trung đoàn là hai dãy nhà tranh nằm không xa ngã ba trên đường đi Phước Bình phía tay phải và Bù Gia Mập phía trái. Vệ binh Chanh đồng ý cho chúng tôi ghé lại bệnh xá. Hắn chỉ tay về phía dãy nhà dành cho cán bộ.

- Mấy anh thăm bạn xong thì qua tìm tôi ở bên đó. Đừng ở lâu quá, còn phải đi gần hai chục cây số nữa mới tới chợ Phước Bình.

Bác sĩ Lãng đã thức dậy từ sớm đang sửa soạn món ăn nổi tiếng của hắn, bánh mì khô hấp hơi ăn với nước mắm mỡ hành. Với anh chàng bác sĩ tốt nghiệp trường Y Khoa Huế này, cái gì cũng phải từ tốn nghệ thuật.

- Bánh mì Hàng Xanh đó, món này phải ăn nóng mới ngon. Hấp mỗi lần một hai miếng thôi, ăn xong miếng này rồi chờ hấp miếng mới chớ không...

Bình cười cướp lời.

- ... bánh mì trở lại nguyên bổn của nó là bánh mì phơi khô 100 ngày!

Lập cự nự.

- Cái thằng này! Đã cho ăn rồi còn chê, không nhớ ơn “cách mạng” gì cả!

Việt nhìn quanh.

- Đốc Tiến đâu rồi đốc Lãng?

Anh Minh từ trong phòng vừa ho xụ xụ vừa nói.

- Hai thằng suốt ngày cãi nhau chuyện trường Huế, trường Sài Gòn. Tao bực quá, đuổi hết một đứa rồi.

Lãng móc trong túi áo anh Minh tiền và miếng giấy có tên mấy thứ thuốc trụ sinh đưa cho tôi.

- Bệnh chớ cái mỏ còn nhọn lắm. Thằng Tiến nó dọt đi quán Ba Cô từ hồi sớm rồi. Đi kiếm mua cà phê thiệt cho thằng chả đó, chê không chịu uống cà phê gạo rang.

Tôi vỗ vai anh Minh.

- Ráng thuốc men vô cho ngon lành vài bữa vợ lên thăm, thằng Lãng nó cho mượn phòng ở bệnh xá tha hồ mà làm ăn.

Lãng nhắc tôi.

- Mầy rán kiếm cho ra mấy thứ thuốc trong toa đồng thời kiếm cho được một ống tiêm cỡ lớn và kim dài để tao hút nước trong phổi ra cho ảnh.

Nhìn ánh mắt của Lãng tôi biết là bằng mọi cách tôi phải tìm cho ra thuốc và ống tiêm càng sớm càng tốt.

- Chiều mai mầy nhớ canh chuyến xe chở mì, mua được thuốc tao sẽ gởi theo xe.

Vừa ra khỏi bệnh xá Lập, vì làm ở lò rèn không đi lao động ngoài, tò mò hỏi ngay quán Ba Cô ở đâu.

Mới hơn tháng nay trên khoảng đường gần hai cây số về phía Bù Gia Mập, ba người đàn bà trẻ từ Sài Gòn lên mở quán bán cho mấy toán thợ lâm nghiệp để kiếm sống. Khám phá ra địa điểm và ai là chủ quán đã là tin sốt dẻo và vui cho tất cả chúng tôi. Cách đây vài tuần, tôi và hai bạn tù đánh liều làm việc thật nhanh xong chỉ tiêu sớm xách rựa băng rừng đi tìm quán Ba Cô. Vừa kịp nhận ra ba cô chủ quán chỉ có cái nhan sắc rất bình thường lũ chúng tôi đã choáng ngợp bởi nỗi rung động của một tình cảm rất thân thuộc đậm đà - quán cà phê và nhạc tình. Bài hát không quen những năm về trước, buổi chiều hôm đó sao nghe như tiếng lòng mình. Thành phố buồn nhớ không em. Ngày chúa nhật ngày của đôi mình. Thành phố nào vừa đi đã mỏi...

Trên đường đi Phước Bình cách bệnh xá chỉ vài cây số là làng Phước Thành, căn cứ tiếp liệu của dân cải tạo. Hầu hết dân trong làng gốc người Quảng Nam. Những người dân nghèo cùng cực vùng Thăng Bình, Chợ Được đã theo kế hoạch dinh điền của Tổng Thống Diệm khăn gói lên đây lập nghiệp mấy chục năm trước. Đi ngang qua một bộng dầu, Việt xin người vệ binh vào mua bánh đậu. Dân trong làng đem đậu phụng tới đây để ép lấy dầu phụng. Bã đậu sau đó được ép lại thành bánh để nuôi heo. Đối với dân cải tạo chúng tôi bánh đậu là nguồn dinh dưỡng rẻ tiền mà hữu hiệu. Bỏ vào chút muối kho với nước thế là có ngay món ăn bổ dưỡng. Hai cô gái nhỏ khoảng mười hai mười ba nói chuyện với nhau, giọng rặt tiếng Quãng.

- Bán rẻ rẻ cho mấy chú tù binh.

Trong hoàn cảnh của mình tôi thà chấp nhận hai tiếng tù binh hơn cải tạo. Những người cọng sản cùn mòn đó đã chẳng cải được gì trong đầu óc chúng tôi. Việt vẫn giấu kỹ cuốn All Quiet On The Western Front để học lén tiếng Anh. Giúp Việt đọc, tôi xạo để hắn học cho nhanh.

- Gần tới đoạn hấp dẫn rồi đó. Rán đi. Tới đoạn tụi nó đem bánh mì lội qua sông để kiếm chị em ta là mầy hết biết luôn.

Con người trong cùng cực có thể làm nhiều chuyện khó ngờ để sống còn. Trên vùng rừng núi miền Đông này và biết bao nhiêu vùng rừng núi khác trong Nam ngoài Bắc, sự cùng cực thua nhục đã là cái giá chúng tôi phải trả làm người lính thất trận. Cái giá quá đắt cho chuyện được thua giữa anh em trong nhà.

Gồng gánh ra tới chợ Phước Bình thì trời đã quá trưa. Chia nhau khúc xôi nấu ống lồ ô. Tôi ăn vội cho đỡ đói rồi xin phép đi tìm mua thuốc trụ sinh cho anh Minh. Người vệ binh tốt bụng chỉ tay về phía nhà lồng chợ.

- Tôi thường mua ký ninh ở trong đó. Thuốc hiếm có lẽ phải theo người ta đi vào nhà mới có. Đi cho lẹ lên, còn mấy cây số nữa mới tới khu trồng mì.

Thuốc trụ sinh kiếm ra dễ hơn tôi nghĩ nhưng cái ống tiêm lớn thì quá hiếm hoi. Người đàn bà buôn thuốc tây dẫn tôi đi gần hết khu phố chợ mà vẫn chưa tìm ra được.

Chị ta vừa đi vừa càu nhàu.

- Hồi đó quăng không ai thèm lượm giờ thì quý như vàng, thắp đuốc kiếm không ra. Cái thời gì đâu.

Cuối cùng chị dẫn tôi vào nhà một người đang hành nghề y tá.

- Ông này hồi xưa là Trung sĩ Quân y. Ổng mà không có là tôi chịu thua luôn.

Sau khi nghe tôi kể chuyện bác sĩ Lãng điều trị cho Minh, người Trung sĩ Quân y Ngụy im lặng vào nhà sau đem ra hai ống tiêm lớn và gần một tá kim chích dài.

- Tôi có giữ cũng không biết sử dụng, nhờ anh đưa cho bác sĩ để ổng cứu người.

Anh từ chối nhận tiền còn ân cần đưa cho tôi gói thuốc Sài Gòn Giải Phóng và nhờ đem về cho bác sĩ Lãng một gói. Bắt tay từ giã người lính quân y Ngụy tôi nghe tiếng mình khản lạc vì nỗi xúc động trào dâng. Nỗi vui nhen ấm lòng như một ngày nắng hiếm hoi giữa đông dài.

Ở đầu dốc, người vệ binh và ba bạn tù đang kiên nhẫn ngồi chờ. Chanh cầm súng chỉ về phía con lộ đất đỏ cắt ngang khu rừng cao su.

- Rán đi hết con đường này khoảng bốn cây số nữa là tới khu lấy gốc mì.

Nơi chúng tôi tạm trú trong mười ngày tới là khu xóm nhỏ ở bìa một khu làng yên tĩnh. Màu ngói cũ kỹ của mái nhà ẩn hiện sau hàng xoài xanh là chứng tích cuối cùng của sự trù phú mà giờ đây chỉ còn là âm vang trong chắc lưỡi, trong câu nói ngậm ngùi bắt đầu bằng hai tiếng... hồi đó.

Trời đang giữa chiều, nắng vẫn còn gay gắt. Học trò tan trường lác đác về nhà, chậm chân nhìn chúng tôi bằng ánh mắt tò mò. Người vệ binh ra dấu cho chúng tôi đứng chờ dưới bóng mát rượi của hàng xoài xanh. Vàng chen trong tàng lá dày kín lủng lẳng mấy trái xoài muộn. Hắn chỉ tay về phía ngôi nhà gần đó.

- Họ là gia đình cách mạng, tôi báo cho các anh biết để cảnh giác khi tiếp xúc. Tôi sẽ ở trong nhà đó, các anh thu xếp chỗ ăn ngủ bếp núc quanh mấy cây xoài này. Cuối hàng xoài băng qua con lộ xuống hết con dốc là suối nước, chỗ tắm giặt.

Chanh nhìn về phía người chủ nhà đang đứng dưới hiên nhà nhìn ra, nhỏ giọng lại.

- Các anh đừng đi đâu xa, tôi bị kiểm điểm thì mệt lắm.

Chiếc võng vải dù thật dày có mùng và cả lớp che mưa tôi có từ những ngày Giang Đoàn tận dưới Đồng Tháp Mười mấy năm nay đã giúp tôi sống còn với muỗi rừng Phước Long. Tôi nằm duỗi người trên võng, nghỉ đôi chân mỏi sau một ngày dài đi bộ.

Mơ màng giữa ranh giới thức ngủ, trái xoài chín trên cành đẹp như một miếng nắng nhỏ. Tôi chợt thèm một chút tự do. Phải rồi. Tiếng suối reo từ dưới chân đồi vọng lên như lời mời gọi. Ba cái võng đã máng, gạo mắm bếp núc đã ngăn nắp sắp xếp quanh gốc xoài ở giữa nhóm nhưng ba người bạn tù thì vắng bóng. Nửa đường xuống suối tôi gặp Bình và Lập đang ì ạch xách nước lên dốc, áo quần giặt xong vắt trên vai ướt sũng.

- Tụi tao lên nấu cơm. Ăn một bữa cơm không độn với cá khô nướng cho đã, tới đâu thì tới, tính sau.

Dưới chân đồi khoảng trời rộng chợt mở ra đột ngột. Dòng suối đổ tuôn qua từng tảng đá lớn xếp chồng chất lên nhau rồi chảy dồn vào vùng nước phẳng lặng rải rác mấy phiến đá bằng mặt. Dòng nước hẹp dần lại len lách qua đá rồi khuất sau bờ cỏ và hàng hàng lớp lớp cây cành mục rã phía dưới xa.
Nhìn suối, nghe tiếng suối vỡ òa bọt trắng, tôi bỗng nhớ lại năm học đệ ngũ ở Đà Nẵng, trường Phan châu Trinh,

đứng trước lớp đọc bài thuyết trình về Khái Hưng. Ông thầy là văn sĩ Trần nhất Hoan gật gù đứng nghe... Anh phải sống để nghe tiếng suối reo để nhìn gánh hàng hoa hay đời mưa gió. Nhưng không ngờ chàng đã nửa chừng xuân một phen trống mái bên dọc đường gió bụi... Gia đình anh, vợ con anh vẫn đợi chờ người Tiêu Sơn tráng sĩ. Nhưng người tráng sĩ ấy đã không bao giờ trở lại. Chàng đã thoát ly chế độ độc tài để khỏi lâm vòng tục lụy.. (Tú Mở)

Việt ngồi học Anh văn trên tảng đá lớn giữa dòng. Tôi nằm nghe tiếng suối reo. Trời xanh và cao. Tôi đang sống. Tôi mơ màng tới buổi chiều xưa gió lộng sông Hàn. Vợ chồng thơ thẩn đi dọc theo bờ sông trên đường về Trẹm, lòng vun hạnh phúc bàn tính chuyện đứa con đầu lòng. Tôi mơ màng tới khoảnh khắc vĩnh cửu vợ chồng đứng yêu nhau bên cửa sổ, nụ hồng phía ngoài song lung linh giọt mưa tinh khiết. Cho tôi mơ giấc mơ dài. Đừng lay tôi nhé cuộc đời đắng cay... Đời đắng cay mà giọng đọc tiếng Anh của Việt cũng phiền toái không kém. Thỉnh thoảng tôi lại mắt nhắm mắt mở giúp hắn nghĩa tiếng Việt và cách phát âm.

Có tiếng nói cười của phụ nữ từ trên dốc vọng xuống. Hai người đàn bà trẻ bỏ dở câu chuyện, nghiêm mặt gật đầu chào chúng tôi rồi lặng lẽ giặt áo quần ở tảng đá bên cạnh. Họ ném tia nhìn tò mò về phía hai đứa tôi rồi thầm thì trao đổi với vẽ nghi vấn. Những khi Việt ngưng đọc để hỏi nghĩa tiếng Việt những chữ hắn không hiểu ánh mắt của họ còn có thêm vẻ nghe ngóng. Người đàn bà có nước da trắng giặt xong bước theo mấy tảng đá về phía cuối dòng, trầm mình vào nước đứng khuất sau một phiến đá để tắm. Áo quần cô gái thấm nước dính sát vào da thịt lồ lộ thân hình rất đẹp. Bỗng dưng Việt ngưng đọc nhìn chăm về hướng cô gái rồi chỉ tay miệng hả to hứng khởi. Chưa kịp bụm miệng đã nghe hắn la lớn.

- Xà lách xon!

Việt nhảy vội qua mấy tảng đá về phía cô gái đang tắm, tiếp tục bương bã về phía bờ bên kia con suối ngồi lom khom nhổ xà lách xon. Tôi thở phào hoàn hồn, men theo bờ suối ngồi phụ nhổ rau với bạn tù. Việt khá nổi tiếng về việc phát ngôn bừa bãi.

Lúc leo lên dốc về lại chỗ ở, tôi nói với Việt về chuyện tính bụm miệng hắn. Việt tỉnh bơ.

- Tao thấy chớ sao không nhưng cải thiện là hàng đầu, đã không xơ múi gì lại phải vẽ bản đồ mất sức, xà lách xon bổ hơn nhiều.
- Chưa chắc đâu cha. Bác sĩ Lãng nói ăn xà lách xon nhiều mất máu.

Lúc chúng tôi đang ăn cơm, tôi thấy hai cô gái đi ngang qua. Họ đi về phía đầu rặng xoài rồi bước khuất vào một ngôi nhà tôn lớn, bên ngoài có tấm biển đỏ sơn chữ vàng: Nhà Tập Thể Giáo Viên.

Buổi chiều miền núi xuống rất nhanh. Tôi viết vội bức thư ngắn cho Lãng trước khi trời sụp tối. Tôi kể cho hắn biết về chuyện thuốc trụ sinh và ống tiêm cho Minh, về món quà bất ngờ đầy tình nghĩa của người lính Ngụy không quen. Cuối thư tôi chọc Lãng. Chiều nay tao thấy một nàng tiên sa xuống trần tắm suối, nếu mầy muốn làm Chữ Đồng Tử để nhìn tiên sa tắm trần dưới suối thì chạy chọt ra đây lượm gốc mì với tụi tao. Gói kỹ mọi thứ vào trong tờ giấy báo Sài Gòn Giải Phóng cũ mà Lập đã dùng để gói cá khô sáng nay, tôi quấn thêm mấy vòng dây chuối khô cho chắc. Quanh bếp lửa chúng tôi ngồi nói chuyện vẩn vơ chờ ngủ.

Rẫy mì chỉ định cho ngày lao động đầu tiên nằm dọc theo con đường cái giữa làng nên công việc tiến hành rất nhanh. Lựa những thân mì còn tốt bó lại, vác ra để thành đống bên vệ đường sẵn sàng cho xe đến chở. Xe chưa tới mà đống thân mì có vẽ đã đủ cho hơn một chuyến. Chúng tôi đào mót củ mì, nổi lửa nướng chín để làm bữa ăn trưa. Dưới bóng mát cây mít, chúng tôi vừa ăn củ mì nướng với đường tán vừa chẻ lồ ô làm lạc cho buổi chiều. Vệ binh Chanh ăn một miếng củ mì nhỏ làm khách rồi lấy trong ba lô ra một thỏi lương khô Trung Quốc nhai lơ đễnh. Lập gợi chuyện hỏi người vệ binh gốc người miền nào. Hình như chỉ chờ để được hỏi, Chanh ngồi kể về những ngày mới lớn của hắn ở Bến Kéo, Tây Ninh.

- Năm bảy mốt tui đang học đệ tứ, một bữa đi chơi về khuya bị Nhân Dân Tự Vệ bắt, tui cự nự bị tụi nó đánh cho một trận nhừ tử. Hồi đó tui có ông anh họ đi du kích, thỉnh thoảng ổng khoe cho coi AK47, lựu đạn chày. Đương lúc tức tụi nhân dân tự vệ, tui bỏ học theo ổng luôn. Cuối năm bảy tư, bộ đội ở Củ Chi về tuyển người, tui được cắt đi. Má tui bả khóc quá trời nhưng hồi đó tui hăng lắm gia nhập liền. Tui theo trung đoàn giải phóng Phước Long hồi đầu năm bảy lăm rồi quanh quẩn trên này từ hồi đó tới giờ.

Chanh phân trần.

- Nói mấy anh để bụng chớ hồi đó tui mà không bị cái vụ nhân dân tự vệ chưa chắc tui đã theo du kích.

Đám bụi mù từ chiếc xe chở mì đang lăn bánh trèo lên con dốc như một thực tế đã giúp người vệ binh nhận ra mình đã nói hơi nhiều.

- Thôi bỏ qua mấy chuyện đó đi, chuyến tới mấy anh rán chất cho nhanh tui sẽ nói đồng chí lái xe quay trở lại liền để mấy anh xong chỉ tiêu cho sớm mà nghỉ.

Tôi đưa gói thuốc cho vệ binh Chanh nhờ hắn nói giúp người lái xe dừng lại ở bệnh xá đưa cho bác sĩ Lãng.

Chuyến xe thứ hai xong rất nhanh. Nhìn chiếc xe GMC với đống thân mì chất cao nghều đang lăn bánh xuống dốc trên đường trở về trại, chúng tôi nhìn nhau thở ra nhẹ nhõm.

Con đường làng thẳng tắp. Nhà dọc theo hai bên lộ đều đặn những hàng xoài mít mướt xanh màu lá. Gần hai mươi năm trước khu làng có lẽ đã là một trong những thành công điển hình của nền Đệ Nhất Cộng Hòa - kế hoạch dinh điền của Tổng Thống Diệm. Khu trù mật giờ đây chỉ còn là một vang bóng. Tiếng gà xao xác gáy trong buổi xế chiều không làm giảm đi chút nào sự vắng lặng của thôn xóm. Ngôi giáo đường cũ kỹ thiếu chăm sóc giờ đây đã trở thành trụ sở của một hợp tác xã nông nghiệp. Tấm khẩu hiệu bằng vải đỏ xiêu vẹo vắt ngang cổng nhà thờ vụng về hàng chữ vàng đề cao lao động. Chiếc thập tự giá trên nóc nhà thờ vắng con chiên cũng cô đơn như cánh cửa đóng im lìm bên dưới. Tôi nghĩ tới vần thơ cũ. Tha La. Âm thanh lững lờ tiếng kêu thương, man mác ngậm ngùi. Tha La không còn là một địa danh. Tha la là chuyện ra đi hư hao và mất mát người về.

Đây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh
Ngậm ngùi Tha La bảo
Đây rừng xanh rừng xanh...

Cuối ngày. Tiếng suối reo giờ đây là tiếng hẹn hò. Nằm giữa trời giữa nước, lòng vơi nhanh bao nỗi phiền hà. Tôi ước muốn dòng suối là của riêng mình để khỏi bị ai dò xét nghi ngại nhưng bóng hai cô giáo trên lưng chừng con dốc đã đưa chúng tôi về lại với thực tế. Sự yên lặng giữa hai nhóm người đã trở nên khó chịu. Cuối cùng một cô giáo nhìn về phía tôi hỏi với vẻ phân trần.

- Xin mấy anh tha lỗi, có phải mấy anh ở trong trại tệ nạn xã hội ra ngoài công tác không?

Việt há miệng định hung hăng cải chính thì Bình đã chua chát đỡ lời.

- Tụi tôi còn gấp mấy lần tệ hơn cả tệ nạn xã hội nữa.

Cô-giáo-tiên-sa của tôi chợt phá ra cười rất thân mật.

- Thôi em biết rồi, mấy anh là Sĩ Quan Cải Tạo. Ở gần đây có một trại tù cho người tệ nạn xã hội, xì ke ma túy nên tụi em tưởng... Xin lỗi các anh nhé!

Cô giáo nói giọng Bắc nghe rất ngoan.

- Em là Phương, chị này là Minh. Tổ giáo viên chúng em có sáu người, ba nam ba nữ. Chỉ có chị tổ trưởng là thuộc gia đình cách mạng, đang đi công tác xa. Gia đình em ở khu kinh tế mới gần đây. Gia đình chị Minh ở ngoài thị xã.

Sau khi giới thiệu qua lại chúng tôi đã trở nên thân mật hơn. Cô giáo Minh nhìn Phương, nói với chúng tôi.

- Phương là con gái ông Đại tá Tiểu Khu Trưởng đó! Bố Phương đang đi học tập ngoài Bắc.

Trong lòng đầy thích thú tôi nghĩ ngay tới người bạn vong niên trên rẫy Thượng. Tôi ỡm ờ với Phương làm cô giáo cứ tròn xoe đôi mắt kinh ngạc.

- A, thì ra Phương là cô bé ở Trần hoàng Quân đây mà!

Phương quá ngạc nhiên, lay tôi hỏi dồn.

- Làm sao anh biết Phương được?
- Hồi đó có ngày nào mà tôi không đi ngang qua nhà vài lần, khấn trời khấn Phật để được nhìn thấy mặt.

Phương cảm động thật sự ngồi e lệ đong đưa đôi chân trong dòng nước. Cô giáo Minh nửa tin nửa ngờ, còn ba thằng bạn tù thì đang cố gắng tìm hiểu tôi đã làm thế nào có được chi tiết Trần hoàng Quân để dựng đứng câu chuyện cứ như thật.

- Ngày hôm qua nghe mấy anh nói tiếng Anh sáng nay ở trong lớp em mắc cỡ quá, dạy học trò đọc mà cứ sợ lỡ ai nghe được thì chỉ có nước độn thổ.

Bình nhìn Phương, đùa bỡn.

- Nó là thằng Mỹ con mà, tối ngủ nó mớ bằng tiếng Anh.

Tôi vắn tắt kể về những ngày đi học ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Những trận cười chung giòn giã đã giúp chúng tôi trong một giây phút quên đi cảnh đời riêng buồn bã cùng cực của mình. Không muốn bước sâu thêm vào trò chơi đang trở nên nguy hiểm tôi nói thật về câu chuyện trồng cây si của mình. Phương lườm tôi, láu lĩnh.

- Mặc kệ, em lỡ thương lại rồi!

Tôi kể cho Phương nghe về người bạn Thượng của mình. Phương reo lên mừng rỡ.

- Trung sĩ Phàng! chú Phàng! Em phải về kể cho Má biết tin mừng này. Có lần chú dẫn cô con gái về Trần hoàng Quân chơi mấy ngày. Hai đứa em thân nhau rất nhanh. Em mặc nính cái xịnh Thượng, Má em cứ khen hoài.

Chờ cho hai cô giáo về nhà tập thể trước, một lúc lâu sau chúng tôi mới leo dốc im lìm về lại chỗ trú của mình. Ham vui nấu cơm trễ, chúng tôi ăn cơm thầm dưới bóng trăng vẩn mây đen mờ ảo. Bốn đứa chia nhau hai điếu thuốc Sài Gòn Giải Phóng. Việt xuýt xoa.

- Xài sang quá! Tiêu chuẩn cán bộ!

Người vệ binh từ trong nhà bước ra cho biết hợp tác xã nông nghiệp không để cho trại lấy thêm gốc mì ở làng này nữa.

- Sáng mai các anh tranh thủ thức dậy sớm dọn dẹp sạch sẽ chỗ ở trước khi đi. Chúng ta sẽ đi tới chỗ mới cách đây khoảng vài cây số.

Trong đêm tiếng suối xa xôi vỗ vào bờ đá xót xa từng tiếng thở dài. Tôi chợt thèm được nằm lại trên phiến đá bên triền suối để nghe quanh mình thân nước vỗ về. Dưới bóng trăng non lẩn khuất sau tàng lá dày im lìm say ngủ, tôi cảm thấy mình bất lực trước một ước muốn rất nhỏ nhoi. Mơ ước trở về chỉ còn là mộng ảo đau lòng. Có ai trong chúng ta đã làm được gì cho sự ra đi, quay về hay chia lìa, sum họp. Thôi thì hãy chọn cho mình một niềm vui rồi giữ lấy. Trong tâm tưởng. Để sống. Từng ngày.

Phan thái Yên

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2021