SỐ 93 - XUÂN NHÂM DẦN - THÁNG 1 NĂM 2022

 

http://www.gio-o.com/GioO10Nam/20VuHoangThuYLan.JPG
Vũ Hoàng Thư ở buổi thuyết trình tại Berkeley, photo: Ỷ Lan P. Faulkner

diễn ngôn được trình bày tại buổi sinh hoạt
20 năm Gió-O nắn Net
Đại học UC Berkeley, California chiều Chủ Nhật 19/12/2021

Vũ Hoàng Thư

tản mạn hay... tản mạn?

Khoảng những năm cuối thế kỷ trước khi văn học VN tại hải ngoại bắt đầu leo net, tôi bắt gặp một bài tản mạn rất tình cờ. Đọc vài đoạn tôi giật mình sửng sốt, không biết mình đang đọc một tản văn hay đang đọc một bài thơ? Cách dụng chữ mới lạ, cấu trúc ngang ngửa khiến người đọc như bị thọc mạch tim, phấn khích tăng dần.Thế rồi tôi bỏ quên chuyện thắc mắc là thơ hay văn. Vì chất thơ quá đỗi của bài viết, thơ dẫn tôi lên xuống núi đồi Đa lạt. Chẳng phải Đà Lạt mà Đa lạt như âm tôi vẫn nghe lúc thiếu thời về tên thành phố cao nguyên này. Người thiếu nữ ấy xuống phố hát thầm “Đi với em chiều nay / Xuống phố hát sầu câu” (LTH). Câu gì mà ngược giọng, không là câu sầu, lại móc dựng lưỡi cong thành sầu câu? Để câu lấy một mối sầu? Ôi mênh mông trầm tịch, ôi bát ngát cô liêu những buổi chiều xuống phố việt nam. Đó là bí ẩn của Mỵ nương sầu, của người đàn bà đã ngoài bốn mươi. Nàng qui cố hương. Nơi nàng “trầm mình trong những tĩnh từ tiếng mẹ đẻ” và bắt gặp một xứ sở đã để cho nhiều thi sĩ bị điên, một xứ sở tệ quá đi thôi. Đâu là tiếng sáo thần cho lệ Mỵ chảy tan trong chén ngọc? Khi nào thi sĩ Việt Nam thôi bị đày đọa để họ khoác chiếc ao len tím than thẫm lên vai nàng Mỵ trong một đêm u trầm Đa lạt? Hỏi là để trầm ngâm sa mạc, để làm kẻ láng giềng thơ mộng của tịch nhiên lưu ly.

Một thi sĩ có ý tưởng chết đi vì những câu thơ, thi sĩ ấy đáng hưởng một bất ngờ.
(Đà Lạt Mỵ Nương Sầu – Lê Thị Huệ)

Bất ngờ thật, tôi yêu “Đà Lạt. Mỵ Nương Sầu” hơn 20 năm trước, và ấn tượng đầu tiên của tôi vẫn không thay đổi, vì thế tôi đã chọn bài này, dù có rất nhiều bài viết khác thật xuất sắc của nhà thơ Lê Thị Huệ, khi biên tập cho tuyển tập “Gió-O 20 năm tản mạn”.

Nhân cơ hội biên tập này tôi được dịp đọc lại những bài tản mạn từ nhiều tác giả ở Gio-O. Yêu thích làm sao một thể văn phóng khoáng và đa dạng. Như một con chim được chắp thêm nhiều cánh, tản mạn đưa người viết cũng như người đọc bay vút qua không biết bao nhiêu quãng trường khác nhau của nghệ thuật sáng tác. Có nên tự đặt câu hỏi “tản mạn là gì” chăng?.

Nhớ 10 năm trước, nhân ngày kỷ niệm Gio-O lên net được 10 năm, Chủ Biên Lê Thị Huệ có đặt câu hỏi với tôi như thế này:

Lê Thị Huệ:  Trên Gió O, tôi thích dùng từ "tản mạn" cho dễ "gặp gỡ" với bất cứ đề tài nào, cách viết nào không phải là nghiên cứu (có trích dẫn công phu từ những nguồn uy tín, đáng tin cậy). Nhưng nếu có tác giả nào yêu cầu ghi theo cách của họ, thì tôi cũng làm theo yêu cầu. Tùy bút, tùy ký, tản văn, tạp văn, tạp ghi, tạp bút vvv ... anh thích dùng từ nào ? Và tại sao ?

Vũ Hoàng Thư: Vậy thì hãy thử “tản mạn” đôi chút về từ “tản mạn” nhé. Nói theo mấy cụ đồ thì “tản” có thể là tan như mây bay, là rời rạc không quy tắc, lại cũng có nghĩa là nhàn rỗi. Rồi tản là hạt mưa rơi xuống gặp môi trường khí hậu đầy đủ đóng thành hạt đá nhỏ, gọi là mưa đá. Sự kết tinh khi gặp đúng nhân duyên ? Tản còn là cái dù che nắng, che mưa […đá nhỏ]. Cho nên khi nhàn thì ta cứ “tản” một cách không cần quy củ, nói nôm na là rất cà khịa. Và cà khịa một cách rất chịu chơi các thứ. Bây giờ xoay qua chữ “mạn”. Một nghĩa của động từ “mạn” là khinh thường, tỉnh từ “mạn” là tràn đầy, bao trùm, sáng láng, phó từ “mạn” là thong thả, là phóng túng. Danh từ “mạn” cũng nói đến một thể từ đời nhà Tống. (“mạn” đôi khi cũng hàm ý [xấu] lười biếng). Ta sẽ chọn nghĩa nào khi kết “tản” và “mạn” cùng nhau ? Có lẽ sẽ nổ bung thế giới. Nổ bung trong ý nghĩa hủy diệt để tái tạo. Nó hàm chứa sự rộng rãi, phóng túng, bao trùm, thông tuệ một cách rất là bất quy tắc. Như hạt mưa. Có khi là nước, có lúc là tuyết, những hạt sẽ theo dòng tan vào đại thể, đại dương bao la kia… Tôi bỗng thích từ “tản mạn” của chị.’

Hãy nghe Nguyễn Tuân - nhà văn nổi tiếng viết tùy bút hàng đầu của Việt Nam - đã thừa nhận: "Nguyên tắc quan trọng nhất của tùy bút là không có nguyên tắc gì cả".

Và Đào Duy Anh định nghĩa từ “tùy bút” là "tùy thời mà biên chép" trong Hán Việt từ điển (trang 320).

Như vậy ta có thể dùng tản mạn như là một danh xưng bao gồm các thể tùy bút, tùy ký, tản văn, tạp văn, tạp ghi, tạp bút,...v.v... và rút tỉa hai đặc tính căn bản của thể văn tản mạn như sau:

- Tản mạn có khuynh hướng tự do và phóng khoáng. Tuy cũng có phân tích, bàn cãi nhưng ngôn ngữ tự nhiên xuất phát từ ký ức, kinh nghiệm từng trải của tác giả, những cảm nhận, giải bày tâm tư, cảm xúc của chính mình. Dù là viết về người khác, sự việc khác, nhưng trọng tâm vẫn mang hình ảnh và tình ý của tác giả trong đó. Nhắc đến diễn biến bên ngoài chỉ là phần nhỏ, như là một cái cớ để khêu gợi, bộc lộ nội tâm bên trong. Một ý nghĩ bất chợt, một khoảnh khắc thoáng về, một liên tưởng giữa thực tại và người viết, có lẽ đó là cái đích, trọng tâm được ghi lại của hầu hết các bài tản mạn.

- Chủ đề của tản mạn bao hàm mọi đề tài về lịch sử, xã hội, triết học, thi ca, nghệ thuật, v.v... Phong phú đa dạng về chủ đề nhưng mang đậm cá tính, bản sắc và lăng kính nhìn của tác giả.

Trong 20 năm qua, rất nhiều tản mạn tập trung ở Gió-O từ nhiều tác giả khắp nơi trên thế giới. Họ viết nhiều đề tài: tình tự hoài hương, đời sống mới nơi chốn định cư, nhận định văn chương, nghệ thuật, triết lý, v.v... Những bài viết thật sâu sắc, xúc tích và quý hiếm. Xin trích đoạn từ một đôi bài tiêu biểu cho những đề tài nêu trên dưới đây.

Tâm thức tỵ nạn lưu vong là điểm xuất phát và bộc lộ rõ nét nhất. Quê hương bỏ lại, đối đầu với những vật lộn ở xứ người luôn là nỗi ám ảnh của người Việt hải ngoại. Có thể không hẹn nhưng đa số tác giả Gió-O đều cùng chung một hành trình đi tìm lại thời gian đã mất. Nhớ tưởng về chốn cũ mang quê hương lại gần hơn bao giờ hết cho dù địa lý xa cách nghìn trùng.

Âm và màu chứa đủ quê hương khi âm là tiếng hát ve sầu và màu là hàng phượng đỏ rực nắng.

Không có tiếng ve sầu, nhưng vẫn còn giọng ve kêu. Không hàng phượng đỏ rực, mùa hè vẫn âm ỉ chói nhói qua tim.
Quá khứ dội về bằng âm và màu. Dù mùa hè còn có nước và dòng sông chảy không vang. Với hương ngát không kêu, như hương sen trên dãy hào bao quanh hoàng cung.” 
(Mùa hè săn đuổi – Thi Vũ)

Khi quê hương đã khác xưa, nơi ấy đã dập vùi những gì là quý giá thiêng liêng nhất của kẻ lưu xứ, thi sĩ gióng lời tuyên ngôn:

 “Tôi nhân danh là một nàng thơ. Tôi nhân danh là một người nữ trong thơ, phản đối xứ sở đã tra tấn những thi sĩ và biến những hoa khôi thành những nàng Mỵ áo rách.
(Đà Lạt Mỵ Nương Sầu – Lê Thị Huệ)

Rồi quê hương trở lại trong giấc mơ, những con hẻm tăm tối của Saigon xưa òa về không dứt. Những con hẻm hằng ghi ký ức và những gì nằm trong trí nhớ thì chẳng có ai có thể chiếm đoạt được. Quê hương vì vậy chưa hề mất.

Giữa đường hẻm là dòng nước chảy vì có người nào đó đổ chậu nước giặt đồ lên sân. Thức giấc tôi thấy bàng hoàng. Những cảnh này vừa quen lại vừa lạ. Quen vì chúng giống những ngõ hẻm Sài Gòn, quận Tư hồi trước tôi sống ở đó, lạ là vì trong giấc mơ những chi tiết về cảnh trí khác với trong trí nhớ của tôi. Đây không phải là lần đầu tiên tôi mơ về những đường hẻm này. Chúng cứ trồi sụt trở đi trở lại trong giấc ngủ của tôi, mỗi lần mơ lại thấy cảnh khác đi một chút, nhưng vẫn biết là mình đã từng gặp những giấc mơ như thế này.
(Hẻm Sài Gòn Trong Tôi – Nguyễn Thị Hải Hà)

Không chỉ con hẻm từng sống đã đi vào giấc mơ, người tha hương mang theo mình cả một di sản ẩm thực có từ nghìn năm chẳng có gì thay thế được, những kỹ xảo từ ông bà, tổ tiên chẳng có trường học nào có thể đào tạo. Đọc cách làm bánh khúc của Nguyễn Tà Cúc tôi bắt đầu nhìn những gói xôi khúc bày bán ở Little Saigon bằng một cặp mắt khác xưa.

Bánh khúc chính hiệu là những viên bánh làm bằng bột pha với rau khúc băm nhỏ bao ngoài nhân đậu xanh thịt hành tiêu thơm ngát. Những viên bánh này, được bọc ngoài bằng một lớp nếp, khi hấp xong trông như những viên ngọc thạch xanh nhạt vẩn lên những sợi tơ màu xanh lá cây đậm, là chứng tích của rau khúc thái nhỏ lẫn vào bột. Những sợi rau khúc, ngoài phận sự giúp bánh khúc một màu xanh đặc biệt còn giúp cho bánh cứng cáp. Tôi đã từng phải băm rau khúc, sau khi đã giã nát cả lá và thân cành, đến tím cả lòng bàn tay. Thế nên, khi dọn ra đĩa, các viên bánh khúc có thể chiếm một chỗ huy hoàng, giữ nguyên hình trạng như một quả trứng, mà không nằm ẹp xuống như một tiểu thư ốm đau kinh niên của cái loại bánh khúc giả hiệu chỉ có màu xanh pha nhợt nhạt thê thảm kia. Cũng chính vì cứng cáp như thế nên bánh khúc làm khéo chỉ có đúng một lớp nếp bao ngoài, bạn có thể gắp riêng từng chiếc bánh khúc từ một đĩa bánh mà không bị giằng theo cả một tảng xôi, đến nỗi khi ăn xôi đi đằng xôi, khúc đi đằng khúc.
(Những mười lăm năm ấy biết bao nhiêu là … - Nguyễn Tà Cúc)

Và bạn còn nhớ bầy chim di vần vũ bay đi khi bầu trời thường xám ở buổi ngày thu và cung điệu nức nở của câu hát J'ai cueilli ce brin de bruyère? Nhành thạch thảo, hương thời gian, ta đã ngắt một khung trời và níu lấy chân mây? “Thi nhân khóc tiếng bi ai / Cho vàng thu vương dấu lệ”, Julie Quang duyên dáng kể về giai thoại một thời, Mùa Thu Chết.

“Mùa Thu Chết là một kết hợp của Thi Ca – East meets West – thai nghén và sinh ra bởi những Cổ Thụ như Apolinaire Bùi Giáng và Phạm Duy thì làm sao không đáp ứng được nhu cầu Thời Thế. Duyên may cho tôi kết tụ tại đấy…”
(Mùa Thu Chết – Julie Quang)

Nhắc đến Bùi Giáng liền bắt gặp Phạm Chu Thái, một cây viết bát ngát chữ nghĩa làm tôi không khỏi không liên tưởng đến Trung niên Thi sĩ. Anh sống mình riêng một cõi theo lời anh, “hồ như chẳng bỏ vốn, chỉ thuần là ‘vay mượn Đất-Trời’, chế gây thành ‘mây-gió’ cho nó làm của riêng, bảo sao lại chẳng giàu có trong thanh đạm, bảo sao lại chẳng an nhiên cô liêu viễn xứ một góc trời nơi hải giác thiên nhai. Mai mốt nó đi, còn gì nữa không để mà buồn” (PCT). Hãy đọc thử một đoạn trong “Biết trả lời sao” của Phạm Chu Thái:

Ai bảo Nhan-Hồi là nghèo? Không, thầy Nhan rất giàu sang trong nội thức, hoa tâm nghìn năm không héo; xưa kia nếu Lão-tử có cơ may gặp được Nhan-Hồi, thì sẽ chẳng còn can đảm đâu nữa để mà viết sách, bởi tất cả những gì được nói đến trong Đạo-Đức-Kinh của Lão thì Nhan-Hồi đã âm thầm thể hiện trọn vẹn trong kiếp đời ngắn ngủi đạo hạnh dư dục vô ngôn - huyền chi hựu huyền. Khổng Phu-tử rơi lệ xót xa mãi người học trò tâm truyền của mình, là vì thế. Les plus pures récoltes sont semées dans un sol qui n’existe pas – René Char, ý nghĩa là thế.
(Biết trả lời sao – Phạm Chu Thái)

Một tác giả khác, Văn Cầm Hải, hành văn trong sáng và minh triết , tuy đóng góp không nhiều trên Gió-O nhưng những tản mạn của anh là những hành trình trực nhập lý thú về phương Đông thâm viễn.

Không có mưa nơi nào, giống mưa ở Tây Tạng.
Mưa xứ Huế buồn thâm không gian. Bầu trời mây da diết mờ ánh mắt. Không biết mưa xuất xứ từ đâu đến.
Mưa Bắc Âu mịt mù biển lạnh. Người đi trong cô đơn sụt sùi băng tuyết. Không dám ngẩng mặt lên đòi hỏi nguồn gốc đất trời.
Mưa Tây Tạng là loài mưa sinh ra từ ánh sáng. Mưa rơi rất trinh! Nếu chăm chú, người ta có thể theo dõi được đường bay của một hạt mưa từ lúc xuất phát cho đến khi vỡ tan trên nền đất. Hơi lạnh Himalaya và gió cùng ánh sáng đã sinh ra loài mưa trong veo.”
(Đi Với Tang, Dưới Mưa Lhasa! – Văn Cầm Hải)

Nguyễn Thị Khánh Minh với những nhận định về chữ nghĩa, sáng tác, về những nhà thơ, nhà văn đương thời với cô ở hải ngoại trong cảm thức bóng bay gió ơi,

A, Gió ơi, đó là những con chữ. Người bạn tâm tình khó tính. Cũng không một hẹn hò. Mở laptop ra và một trang trắng để sẵn sàng tí tách thì nó như con ma, biến mất. Lắm lúc đang, như nấu nướng, hay cắm cúi đánh máy layout bài vở sinh nhai, thì nó nhởn nhơ huơ huơ trước mắt mình một đóa bleuet xanh, nó mở một cánh vườn rực vàng daffodil, nó thả xuống một cánh thư mây xa, thế là, hoặc, ngâm ngấm nó trong đầu, làm tiếp công chuyện, hay, bỏ hết, để chạy theo nó. Hụt hơi về tay không là thường. Hoa mầu đầy tay, của hiếm. Ông chồng bảo “như con cú đêm” khi thấy mình lục xục ánh đèn khuya lắc.”
(Bóng bay gió ơi... – Nguyễn Thị Khánh Minh)

Bên cạnh đó, bạn đọc sẽ bắt gặp những chuyện khôi hài dí dỏm của nhà văn Hồ Đình Nghiêm, giọng văn châm chọc của anh đã khiến người đọc đôi khi phải xót xa vì những nham nhở, đổi thay của cuộc đời. Họa sĩ Hà Cẩm Tâm hiên ngang bất cần đời, cười vào mũi những trơ trẽn của xã hội với một tâm hồn xông xáo tuấn mã. Và nghe Hoàng Hải Thủy kể lại những tháng ngày đen tối khi làn sóng đỏ ở vào thời kỳ cao điểm sau 1975.

Tuyển tập “Gió-O 20 năm Nắn Net tản mạn” từ 18 tác giả là một tuyển chọn từ hàng trăm bài viết của rất nhiều tác giả trên Gió-O mà tôi được hân hạnh dự phần. Thật đáng ngưỡng mộ những đóng góp của họ cho một nền văn học nhân bản ở hải ngoại cũng như công sức gìn giữ, duy trì một trang mạng văn học sáng giá của chủ biên Lê Thị Huệ. Các nữ lưu Gió-O đã nắn và uốn Net cho văn chương chữ nghĩa Việt tròn đầy biết bao năm qua. Xin trân trọng giới thiệu tuyển tập đến tất cả mọi nhà cùng lưu giữ, một cách duy trì tích cực nhất cho nền văn học tự do của người Việt hải ngoại cũng như hải nội.

Vũ Hoàng Thư
Tháng 12, 2021

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20ANDY3920.png

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20ANDY0327.png

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20ANDY0338.png
Vũ Hoàng Thư , Thi Vũ Võ Văn Ái

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20ANDY3383.png
Vũ Hoàng Thư và Kim Phượng

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20ANDY3922.png

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20ANDY3925.png

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20ANDY3932.png

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20VuHoangThuE.jpeg
trái sang phải, hàng trước: Thi Vũ Võ Văn Ái, Vũ Hoàng Thư.
hàng sau: Kim Phượng, Lê Thị Huệ, Nguyễn Vũ Khuyên, Ỷ Lan, Ngô Bắc, NAT

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20ANDY3934.png

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20VuHoangThuA.jpeg
trái sang phải: Vũ Hoàng Thư, Kim Phượng, Lê Thị Huệ,
J. Vy Trân, Ngọc Quỳnh, Mây Lan, Quang Đại Hiệp

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20VuHoangThuB.jpeg

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20VuHoangThuF.jpeg
Cung Minh Huân, Vũ Hoàng Thư

http://www.gio-o.com/VuHoangThu/20VuHoangThuG.jpeg
Vũ Hoàng Thư, Lê Thị Huệ, Cung Minh Huân

photo: Andy Nguyen, Kim Phượng
(Nguồn: http://www.gio-o.com/GioO10Nam/20VuHoangThuTanMan.htm)

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2022