SỐ 94 - THÁNG 4 NĂM 2022

VÀI Ý VỀ THƠ HAY TỨ TUYỆT

Nguyên Lạc

THƠ TỨ TUYỆT ĐƯỜNG LUẬT

1. Thế nào là Tứ Tuyệt Đường luật

Theo Dương Quảng Hàm thì tứ 四 là bốn, tuyệt 絕 là đứt“
Tên gọi Tứ Tuyệt (Đường Luật) là vì thể thơ này ngắt bài thơ Đường Luật bát cú (tám câu) ra rồi lấy bốn (tứ) câu mà thành.

2. Các cách ngắt làm thành thơ Tứ Tuyệt Đường Luật
Theo cách hiểu Tứ Tuyệt này thì ta có một số cách cắt bốn câu của một bài bát cú để thành một bài Tứ Tuyệt như sau (theo niêm luật của một bài bát cú).
Có nhiều cách ngắt nên cũng có nhiều cách làm thơ Tứ Tuyệt Đường Luật:
– Ngắt lấy bốn câu trên hoặc 4 câu dưới
– Ngắt lấy 4 câu giữa
– Ngắt lấy 2 câu đầu và 2 câu cuối
– Ngắt lấy hai câu 1-2 với hai câu 5-6

a. Ngắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dưới đối nhau
Thí dụ:
Con voi (Lê Thánh Tôn)
Xông pha bốn cõi bể chông gai,
Vùng vẫy mười phương bụi cát bay.

Phép nước gọi là tơ chỉ buộc, [3]
Sức này nào quản búa rìu tay.[4]
……….
[3] và [4] đối nhau.

b. Ngắt 4 câu giữa, thành ra bài thơ 2 vần, cả bốn câu đối nhau
Thí dụ:
Khóm gừng tỏi (Ôn Như Hầu)
Lởm chởm vài hàng tỏi [1]
Lơ thơ mấy khóm gừng [2]
Vẻ chi là cảnh mọn, [3]
Mà cũng đến tang thương [4]
……….
[1] và [2] đối nhau, [3] và [4] đối nhau .

c. Ngắt 4 câu dưới, thành ra bài thơ hai vần, hai câu trên đối nhau, hai câu dưới không đối
Thí dụ:
Đề chùa Vô vi (Vô danh)
Vắt vẻo sườn non Trạo [1]
Lơ thơ mấy ngọn chùa. [2]
Hỏi ai là chủ đó?
Có bán tớ xin mua

………..
[1] và [2] đối nhau.

d. Ngắt 2 câu đầu và 2 câu cuối, thành ra bài thơ 3 vần, cả 4 câu không đối
(Cách này nhiều người sử dụng nhất)
Thí dụ:
Tình xưa (Quách Tấn)
Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm
Trông chừng bến cũ biệt mù tăm…!
Cảm thương chiếc lá bay theo gió
Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm.

f. Ngắt hai câu 1-2 với hai câu 5-6 , thành ra bài thơ 3 vần hai câu cuối đối nhau
Thí dụ:
Con cóc (Lê Thánh Tôn)
Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
Tép miệng năm ba con kiến gió
[3]
Nghiến răng chuyện động bốn phương trời [4]
……….
[3] và [4] đối nhau.

Nếu câu thơ trong bài chỉ có năm chữ, ta gọi đó là bài ngũ ngôn Tứ Tuyệt; bảy chữ ta gọi thất ngôn Tứ Tuyệt…
Thơ Tứ Tuyệt Đường Luật tuân thủ theo vần luật… nghiêm ngặt.

THƠ TỨ TUYỆT

1. Ý nghĩa

Thơ tứ tuyệt bàn ở đây theo nghĩa phóng khoáng hơn: Tứ vẫn là bốn nhưng “tuyệt” chỉ có nghĩa là dứt, chấm dứt, không thêm nữa.

(Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức giải thích thêm như vầy: “Tuyệt là cắt, là dứt nhưng là dứt câu, dừng bút để trọn một ý bài thơ, sau khi viết câu thơ thứ tư. Bởi vì một câu chưa thành thơ, hai câu mới thành một vế đối liên, ít nhất bốn câu mới có vần, khi đó mới thành bài thơ”)

Ngày nay, cách hiểu này được nhiều người chấp nhận hơn.

Vậy:

“Thơ tứ tuyệt là những bài thơ 4 câu – không giới hạn số chữ trong câu- diễn tả trọn vẹn những gì thi sĩ muốn nói”

– Tuy 4 câu thơ nhưng diễn tả đầy đủ ý tác giả muốn nói; nếu không, chúng không phải là thơ tứ tuyệt, chỉ là thơ bốn câu. (Thơ bốn câu diển tả chưa trọn vẹn ý tác giả, muốn đầy đủ, trọn ý thì cần phải làm thêm vài câu thơ nữa. Cũng có thể xem như chúng là trích đoạn từ một bài thơ dài)

– Mỗi câu thơ của tứ tuyệt không giới hạn số chữ: có thể 5, 6 , 7, 6/8 … tùy.

2. Bàn về thơ Tứ Tuyệt

Để bàn về thơ Tứ Tuyệt, tôi xin giới thiệu những lời của thiền sư Muju (Nhật/Japan), chúng sẽ giải thích và minh họa hầu các bạn:

– Người ta hỏi một thi sĩ Nhật nổi danh rằng làm thế nào viết được một bài thơ tứ tuyệt của Trung Hoa. Thi sĩ giảng giải: Câu đầu chứa phần khởi nhập; câu hai là phần chuyển tiếp của câu đầu; câu ba chuyển từ đề mục và bắt đầu một ý mới; và câu bốn gồm ba câu trước hợp lại với nhau. Một khúc dân ca Nhật minh họa ý này:

“Hai cô con gái của một người bán lụa ở Kyoto,
Cô chị hai mươi, cô em mười tám.
Một anh lính có thể giết người với lưỡi kiếm của anh ta,
Nhưng hai cô gái này giết đàn ông với đôi mắt của các nàng.” [1]

THƠ HAY TỨ TUYỆT

1. Thơ Hay là thơ đọc qua liền nghe lòng mình thổn thức, thuộc và nhớ rất lâu; như người nữ đẹp (giai nhân), gặp qua một lần là suốt đời không quên.

Đọc một bài tứ tuyệt, muốn biết nó đáng được gọi là Thơ Hay hay không, thì phải thẩm xem câu cuối (câu kết) có mang lại cho ta bất ngờ tự nhiên, sảng khoái không? Nếu không thì hỏng.

2. Nét độc của bài Thơ Hay là phải đảm bảo được nguyên tắc “mạch kỵ lộ” của thi pháp thơ Đường: Nghĩa là mạch thơ tối kỵ bị để lộ ra. Nhà thơ phải cách nào để đến câu cuối cùng, điều mình muốn nói, muốn nhắn nhủ mới lộ ra; gây bất ngờ cho người đọc. Bất ngờ càng lớn, ngược lại được những đoán định, thì sức lay động sẽ càng mãnh liệt. Vì thế, câu cuối cùng thường là câu gánh vác nhiệm vụ thể hiện chủ đề của bài thơ. Những câu đầu dù nói nhiều điều, tả nhiều thứ vẫn chỉ là sự chuẩn bị cho sự xuất hiện của câu cuối.

3. Đề nghị cách làm thơ Tứ Tuyệt
Nào! ta hãy thử phân tích bài thơ sau đây dựa theo hướng dẫn của thiền sư Muju.

Con sông Vàm Cỏ Tây trong vắt {1}
Trong vắt như đôi mắt lá răm {2}
Chiến trường trăm trận chưa hề bại {3}
Mà chết vì em tuổi nguyệt rằm. {4}
(Phạm Hồng Ân)

Căn cứ vào những lời thiền sư Muju giảng giải trên, ta thấy:

{1} là phần khởi nhập,
{2} là phần chuyển tiếp của [1]
{3} chuyển từ đề mục và bắt đầu ý mới
{4} gồm ba câu trước lại với nhau đưa tới chủ ý.

Rõ ràng quá phải không các bạn! Các bạn làm thử đi, chắc phải tuyệt thôi!

4. Giới thiệu vài bài thơ tứ tuyệt hay:
Dựa vào những điều đã bàn trên, tôi xin giới thiệu vài bài thơ tứ tuyệt hay dưới đây. Xin nói trước, đây chỉ là cảm nhận chủ quan của tác giả, có thể bạn không hoàn toàn đồng ý; đó là điều đương nhiên.

1.
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
[2]
(Phong Kiều dạ bạc- Trương Kế)

2.
Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa
[3]
(Bạc Tần Hoài- Đỗ Mục)

3.
Khứ niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
[4]
(Đề đô thành nam trang -Thôi Hộ)

4.
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương
[5]
(Tĩnh dạ tứ- Lý Bạch)

5.
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba thức lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thức nào hay thức nấy:
– Họa chăng chừa rượu với chừa trà!

(Chừa ruợu – Trần Tế Xương)

6.
Chớm chừng đã chợt bỏ ra
Đừng say mút chỉ rầy rà tít mây
Chơi mà mút chỉ đứt dây
Còn chi mà nói thang mây phiêu bồng

(Uống Rượu Yêu Đời – Bùi Giáng)

7.
Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn

(Cúng dường- Tuệ Sỹ) [6]

8.
Rồi mai huyệt lạnh anh về
Ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa
Trăng tà đổ bóng cây thưa
Mộng trần gian đã hái vừa chưa em?

(Tịch mạc – Nguyễn Đức Sơn)

9.
những tưởng học làm Vũ Hoàng Chương
nào hay uống rượu suốt đêm trường
em ơi rượu chẳng say người chết
đời vắng em rồi say nhớ thương!

(Thơ say – Nguyễn Tất Nhiên)

10.
Đêm nở trắng ngần bông thược dược
những cánh hoa đánh thức vầng trăng
em về vạt áo sương mùa hạ
vàng đẫm trên vai một mảnh rằm

(Thược Dược – Trần Mộng Tú)

Nhận xét các bài tứ tuyệt trên, ta thấy đúng theo giải thích của thiền sư Muju : “Câu đầu chứa phần khởi nhập; câu hai là phần chuyển tiếp của câu đầu; câu ba chuyển từ đề mục và bắt đầu một ý mới; và câu bốn gồm ba câu trước hợp lại với nhau”.
Các bạn thơ hãy thử làm xem sao!

LỜI KẾT

Xin được kết thúc bài viết này bằng bài thơ tứ tuyệt mà tôi đã làm theo những điều đã bàn trên. Có gì bỏ quá cho và tha lỗi cho sự mạo muội này.

Không là thu sao biết vàng lá khóc?
Không là sương sao tan với muôn trùng?
Đêm tha hương đắng môi người lữ khách
Bóng nguyệt sầu đáy rượu ngất hư không!

(Thu tha hương)

Nguyên Lạc


[1] Thạch sa tập – Thiền sư Muju (bản dịch của Đỗ Đình Đồng – Góp nhặt cát đá)

[2] Dịch thơ:
Trăng tà, chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

(Bản dịch: Tản Đà)

[3] Dịch thơ:
Thuyền Đậu Sông Tần Hoài
Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát;
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.
Cô gái không hay buồn nước mất,
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa

(Bản dịch: Trần Trọng San)

[4] Dịch thơ:
Cửa đây năm ngoái cũng ngày này,
Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây.
Má phấn giờ đâu, đâu vắng tá,
Hoa đào còn bỡn gió xuân đây.

(Bản dịch: Nam Trân)

[5] Dịch thơ:
Đầu giường trăng tỏ rạng
Đất trắng ngỡ như sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương

(Bản dịch: Hải Đà)

[6] Tác giả bài viết tạm phóng dịch:
Cúng dường
Cơm tù hẩm kính Thế Tôn
Lòng thành đảnh lễ cúng dường Tôn sư
Thế gian không dứt hận thù
Ôm bình bát lệ xuân thu không lời

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2022