SỐ 98 - THÁNG 4 NĂM 2023

Chuyện ôn mù ở bến Tuần

Trời như đang bắt đầu cho một ngày nắng.  Ôn Thiên cảm thấy mặt mình hây háp chút ấm của ánh mặt trời, lúc ôn ra khỏi nhà lần rải bước về phía bến đò. 

Nắng màu chi hè… Ôn lắc đầu lẩm bẩm rồi cười một mình. Nỗi ước ao rực rỡ màu sắc vùi ngủ trong ôn từ lâu lắm, sáng nay bất chợt thức giấc muộn màng. Bừng lên trong nhận chịu vô thức về một định mệnh đã an bài chợt bàng hoàng cánh phượng đỏ vấy nắng lung linh trong màu xanh của lá la đà trên mặt nước lúc đò chèo qua Thiên Mụ. Đã hơn sáu mươi năm, sau lần xuống Huế đầu tiên của thằng Thiên năm mười một tuổi. Cơn bệnh đậu mùa thập tử nhất sanh đã cướp mất ánh sáng của một đời người.

Ôn thở dài nghe gió về lao xao lướt trên mặt sông.  Tiếng máy đò khản nghẹt nặng nề như muốn chìm úng vào sông để mặc cho nguồn nước thượng dòng đẩy con đò trôi.  Đò xuôi về Nguyệt Biều, Long Thọ hay tấp qua Xước Dũ, Văn Thánh. Những thôn xóm nên thơ dọc theo thượng dòng sông Hương la đà màu xanh của từng khu vườn mít, thanh trà, hun hút êm đềm trong cái nhìn lan trải của trí nhớ một người mù.  Con sông nhỏ Bạch Yến lượn lờ uốn quanh Nham Biều, Ngọc Hồ, Hải Cát, Đình Môn, thả hương cây trái về xuôi cho giáng châu đỏ lòng Kim Luông xanh mướt vườn dâu.  Làng Hồ, quê ôn, với mùi mít chín thơm tay.  Anh đưa em tới làng Hồ. Em mua trái mít, anh bồ trái thơm...(Ca Dao).  Màu xanh của lá, màu vàng đỏ của bông hoa.  Ôn chợt nghe mình bâng khuâng thành lời từng miếng màu sắc đến từ trí nhớ đọng xoay trong hốc mắt khô rốc mỏi rời.

Tiếng gàu nước kéo từ sông lên, xối róc rách lên mạn thuyền gỗ.  Mùi chanh chùm kết từ dưới bến đò thơm vọng lên nơi ông đang đứng dưới bóng mát cây ngô đồng. Cây chưa già như ôn, nhưng ôn chẳng còn nhớ nó được trồng từ lúc nào. Có lẽ một ngày nào đó thời Ôn Diệm. Hay cây ngô đồng đã chẳng có ai trồng mà mọc?  Cây lớn lên với thời gian, bấm mình vào đất cứng, vươn dài cội rễ dọc ngang mà khứng chịu gió núi mưa nguồn như  ôn sống già với quanh quẩn mù lòa như một chứng nhân câm nín chẳng ai ngại ngần. 

Trước những năm chiến trận hung hăng tác loạn, cuốn hút mọi người, cuốn hút tất cả vào tàn hoại điêu linh, cả ôn Thiên mù lòa, tẩm quất kiếm sống qua ngày cũng phải nhắm mắt làm chuyện không ngờ để cùng người mà tất tả sống qua cuộc biển dâu.  Ôn Thiên rờ dọc theo thân ngô đồng, vỏ cây xù xì nhám nhúa.  Có người nói lá cây ngô đồng trở màu xám vào mùa đông.  Trời đã trọng xuân, có lẽ lá đang ngã qua màu lục đậm.

Ôn Thiên đi về phía bờ sông. Ôn vốc nước vả ướt mặt rồi đầm người xuống nước. Tiếng sóng bên tai âm trầm nhịp đập của dòng sông đang thở,  quyện lẫn đâu đó tiếng máy những con đò thầm lặng xuôi dòng. Ôn thấy trong trí nhớ mình xóm nhà của cha mạ, lô nhô bãi sông rãi đá mấp mé bờ nước. Những hòn cuội trắng vớt từ cơn mộng hằng đêm, buồn như nỗi nhớ đời mình…

Mỗi sáng sớm, ôn Thiên, người lão bộc mù lòa quanh quẩn suốt đời trong ngôi nhà được dùng làm quán trọ duy nhất ở bến Tuần vẫn chăm chỉ quét dọn căn phòng y nguyên chăn chiếu, vảng vất hơi hướng của người bạn vong niên sớm thành tri kỷ.  Ôn nhớ như in dáng nhỏ nhắn gầy còm của người họa sĩ ngày đầu ghé mướn phòng trọ. Ôn Lê đã mãi mãi ở lại bến Tuần.

Sau nhiều năm lưu vong xứ người, ôn Lê trở về thăm quê Bao Vinh ở cuối dòng sông Hương, rồi theo đò ngược lên bến Tuần vào một ngày sau Tết. Người họa sĩ im lìm sống trọ ở đó rồi chết, lặng lẽ như vỏ chai rượu nằm im lìm bên xác lạnh.

Ôn Thiên nhớ bạn hốc mắt quầng sâu, chòm râu thưa xơ xác, tiếng ho khan, và mùi thơm của những hớp rượu Tây uống vào buổi sáng.  Ôn sờ nắn từng bức tranh được treo ngay ngắn trên bức tường vôi nứt rạn.  Tay ôn run rẩy vuốt ve lên những tảng màu sông núi cau gợn tang thương. 

Ôn dừng ngón tay mình ở khoảng thân hình người thiếu nữ đứng tắm khỏa thân trong bức tranh cuối cùng người họa sĩ chưa kịp hoàn thành trước khi lìa đời. Ôn Thiên nhớ tới lần người họa sĩ cầm tay để ôn dò dẫm lên vùng quánh đặc giữa thân thể người đàn bà trong tranh, cắc cớ hỏi.  Ôn có biết chỗ ni là chi không?  Ôn Thiên lắc đầu khi nghe bạn giải thích về nơi cửa rừng đam mê đó.  Ôn Lê ! Cụ mi vẽ vời chi mà tô hô ra rứa, ai mà coi cho được?  Ôn Thiên trách cứ xong rồi nối giòng cười với bạn ...

Quán chiều bên bến đò im bặt tiếng cười nói của nhóm khách cuối ngày vừa rời quán cho kịp chuyến xe nôn nóng đợi trên cầu. Gió từ sông thổi ruồng qua dãy bàn ghế lỏng chỏng, trơ trọi hai ông già ngồi trăn trải lòng mình qua men cay.

Ôn Thiên lắng nghe tiếng dòng sông trôi về xuôi, xốn xang sóng động trong hồn. Biết bao mảnh đời đi qua bến đò Tuần bằng bước chân tình cờ của định mệnh. Họ tất tả lên rừng xuống phố, giết chóc khóc cười, sống vội sống mòn, than vãn trần tình, đi biệt. Ôn Thiên vẫn một đời ở lại, âm thầm như bóng, nghe ngóng loanh quanh. Từng âm động, tiếng người, rớt đọng vào tai rồi trầm tích trong ngăn phần trí nhớ suốt kiếp mù lòa. Xúc động theo câu chuyện tình của bạn, ôn Thiên nghe từ trong quá khứ trỗi dậy từng tràng âm thanh náo động đạn bom và giọng nói ngọt ấm của người thai phụ trẻ tuổi giữa những ngày hè năm sáu tám. Ôn xúc động lần tìm tay bạn. Những ngón tay già nua run rẩy vỗ về nhau, thiệt thà như tiếng khóc hóa mòn dấu đá in hằn trong ký ức vừa chợt nhão ra thành giọt nước mắt hoen bờ mắt sâu khép kín.

Ôn Thiên uống cạn ly rượu. Ôn ngồi quay mặt về phía dòng sông, bóng chiều trầm lặng phủ lên lũng mắt sâu kín niềm đau.

Ôn nhớ tới tiếng thở dài của bạn lặng chìm vào tiếng nấc nghẹn, rã rời men rượu. Còn ông lúc đó thì buồn bã nghĩ tới nơi sinh trưởng của mình. Làng Hồ. Thuở thằng Thiên mắt sáng, bàn chân tuổi chín mười rón rén bước theo tiếng chim rúc trên con đường làng lổ đổ bóng nắng trưa thơm mùi mít. Phần số mù lòa đẩy đưa ôn đi ngược dòng sông Hương đến bến đò Tuần rồi buộc chặt đời mình ở đó. Hơn sáu mươi năm qua ôn Thiên sống âm thầm kiếp đời nô bộc trong quán trọ nghèo nàn bên bến sông. Hòa bình. Chiến tranh. Quốc gia. Cọng Sản. Sống chết. Đói nghèo. Cười khóc... Tất cả tiếng đời quen lạ vây quanh là âm động cuồng quay vùng thính giác bơ phờ nghe ngóng. Trong gian phòng nhỏ cuối quán trọ, chiếc phản gỗ mít lâu đời trơn bóng là nơi ôn Thiên hành nghề tẩm quất kiếm sống qua ngày. Tấm gỗ dày cả gang tay có bao cát chắn quanh cũng là trần che chắn cái hầm trú ẩn đã bao lần giúp ôn sống còn qua hơn hai mươi năm súng đạn vô tình. Trên tấm phản đó biết bao thân xác rã rời đã trong một giây lát nằm lại thơ thới mà quên đi chiến trường mỏi mệt. Lính quốc gia, lính Sài Gòn, du kích, bộ đội, nam, nữ... chỉ là những sợi gân cốt mỏi rời được ôn xoa bóp chăm lo. Ở đó, có khi những mảnh đời đã được trải ra, kể lể, than thân... trong lúc ôn Thiên chỉ im lìm lắng nghe và cần mẫn làm tròn công việc với đôi tay nô bộc mù lòa.

Cho đến một đêm... Tiếng thở dồn dập lạ tai của o du kích và những ngón tay bấu chặt lên người khiến ôn Thiên dừng lại nghe ngóng hỏi han. Có tiếng trở người và chút âm thanh cấp bách vừa kịp ghì ríu trong cổ họng. Lúc tay vừa chạm vào đôi bầu ngực căng tròn của cô gái thì trong người ôn cũng chợt rùng rùng cảm giác trào ngợp khó tả làm tim đập nhịp liên hồi. Hai con thú hoang vồ siết nhau trên vùng châu thổ đam mê dập dờn con nước. Từ đó, căn hầm tăm tối là nơi họ tuột vào nhau cho thỏa thuê cảm giác mở toang trên từng phân li da thịt.

Ngày o du kích cho biết có thai, ôn Thiên vui mừng nhưng cô gái chẳng nói năng chi. Hai tháng sau, cô gái cho ôn biết tập thể đã đưa nàng ra kiểm thảo, buộc phải phá thai và đưa đi làm công tác giao liên ở vùng khác. Ngày chia tay, cô gái nói cho ôn biết nơi nàng quăng giấu cái bào thai rồi lặng lẽ bỏ đi. Ôn Thiên đã khóc suốt trên đường về làng Hồ nơi ôn chôn cất đứa con đã tượng hình hài. Và biết bao năm sau đó mỗi khi nghĩ tới cảnh sống cô đơn đời mình.

Mấy năm trước, trong ngày khánh thành chiếc cầu mới bắt qua sông gần bến Tuần, ôn đang đứng dưới tàng cây ngô đồng thì nghe có tiếng phụ nữ hỏi chào.

- Ôn Thiên đó hỉ !?

Giọng người đọng vào tai thì cho dù bao nhiêu năm ôn cũng chẳng thể quên. Huống chi... Ôn chợt rúng người, nghe tiếng mình bật hỏi.

- Rứa O đó hỉ !?
- Tui đây...

Tiếng trả lời nhỏ lại bước theo người. Ôn Thiên đang lóng ngóng thì có người đẩy ôn muốn té.

- Tránh ra cho Đồng chí Chủ tịch huyện đi cắt băng cầu mới.

Lời phát biểu của người đàn bà trong buổi lễ qua hệ thống khuếch thanh theo gió lờn vờn lúc gần lúc xa vọng xuống bến đò. Giọng nói chen vô đầu quẫy động lớp âm thanh đã từ lâu lắm ôn không hề muốn nghĩ tới. Bàn tay người tẩm quất mù đã khơi mở cơn thèm muốn ăm ắp lâu đời của o du kích khỏe mạnh mà xấu xí chẳng ai để ý tới. Ôn nghĩ tới những vết rổ sần kín trên mặt người đàn bà rồi chợt vuốt mặt mình lúc lần bước về phía bờ sông.

Tiếng chuyện vãn của nhóm đàn bà ở dưới vạn đò đi chợ về làm ôn Thiên tỉnh giấc mê ngày.

- Ôn Thiên ni thiệt, ra tuốt ngoài sông mà ngủ nướng. Ôn nằm trên nắng dưới nước như rứa coi chừng bị đau thương hàn đó nghe.
- Ôn Thiên răng mà giống như ngày càng lẩn, từ cái hồi ôn họa sĩ Việt kiều chết tới chừ. Tội nghiệp, đi Đông đi Tây cho bưa rồi về cái xó ni mà chết một mình.

Ôn Thiên ầm ừ vài tiếng khản nghẹt trong cổ họng chừng như để trả lời câu quở trách của mấy mụ o dưới đò thiếu chuyện nói. Đầu óc ôn bềnh bồng với ý nghĩ hình như mình đã nằm yên ở vị thế này từ lâu lắm. Cảm giác nóng rát trên mặt trên ngực vì ánh mặt trời trưa gay gắt khiến ôn muốn chuồi người hẳn vào lòng nước mát. Ôn biếng lười nằm yên lắng nghe tiếng mái chèo khua xuôi ngược trên sông, lắng nghe từng con sóng nhỏ thì thầm vỗ về quanh thân thể mình. Chỉ có dòng sông mới thấu hiểu được nỗi lòng người sống đời khốn khó, nổi trôi theo định mệnh u hoài của nó. Ôn mường tượng tới đôi bờ sông mãi ngó về nhau, cách biệt một dòng trôi, thất vọng lỡ làng. Sự cách biệt của đôi bờ, thời gian, kiếp người, cũng đau lòng như đắng cay không nói hết.

Ông Trời khiến ôn mù lòa quẩn quanh một chỗ lại cắc cớ bắt phải làm chứng nhân câm nín cho biết bao chuyện thương tiếc lỡ làng. Phải chi hai mẹ con người đàn bà ghé bến Tuần sớm hơn đôi ba ngày hay người họa sĩ sống thêm mươi hôm nữa. Ôn Thiên nghĩ tới hình ảnh cha con trùng phùng sẽ không bao giờ có trong sự thực mà cảm thấy lòng dạ mình đau như xé. Ôn đã giữ yên lặng để được nghe tiếng cười tràn ngập niềm vui của người mẹ và đứa con gái nhỏ nô đùa trên bến sông. Để rồi, buổi sáng hôm sau, khi họ đi rồi, ôn lại băn khoăn tự trách về sự im lặng của mình.
Hai mẹ con người đàn bà Việt kiều đến thăm bến Tuần chỉ mấy ngày sau khi người họa sĩ qua đời. Trên quãng đường ngắn từ quán nước về nhà trọ, tiếng trò chuyện bằng ngôn ngữ ngoại quốc thánh thót như chim của hai mẹ con chen lẫn trong tiếng cười khúc khích của cô gái nhỏ khiến ôn Thiên trong giây phút quên cả muộn phiền. Người mẹ nhanh nhân sánh bước với ôn Thiên.

- Xin lỗi bác Hai. Cháu nó nói tiếng Việt không rành lắm. Cháu vừa hỏi tôi, mắt ông Hai như vậy mà sao ông đi nhanh hay quá?
- Chỉ một khúc đường ngắn, đi tới đi lui mỗi ngày cả hơn sáu mươi năm ni nên chi quen rồi O ơi.

Ôn Thiên đưa hai mẹ con vào căn phòng khang trang duy nhất của quán trọ, nơi người họa sĩ đã sống mấy tháng cuối cùng của cuộc đời. Người đàn bà vui vẻ giúp ôn Thiên trải xếp lại chăn chiếu trong phòng. Lắng nghe giọng nói miền Nam hồn nhiên vui tai của bà khách trọ làm ôn Thiên cũng trở nên bặt thiệp góp chuyện.
Tiếng người đàn bà nói như reo từ phía cuối phòng nơi treo tranh của người họa sĩ quá cố.

- Sao nhà trọ có nhiều tranh của họa sĩ Lê vậy bác Hai? Ông ta ở Úc mà nổi tiếng qua tận bên Mỹ đó bác. Ủa, có một tấm hình như đang vẽ dở dang ...

Nghe nhắc tới bạn, ôn Thiên buồn đến lạc giọng.

- Ôn Lê về thăm quê ở Huế, rồi lên Tuần mấy tháng, uống rượu vẽ tranh. Ôn họa sĩ chết đột ngột chẳng kịp vẽ cho xong bức tranh ôn nuôi dưỡng trong đầu suốt một đời lưu lạc.

Tiếng người đàn bà chùng xuống ngậm ngùi.

- Tội nghiệp quá! Thuở sinh thời của cha mẹ, cháu nhớ họ không đề cập gì nhiều đến họa sĩ Lê. Có lẽ họ có quen biết nhau, một lúc nào đó thời son trẻ. Ngôi nhà cha cháu để lại bên Mỹ vẫn còn treo bức tranh thiếu nữ bên sông của họa sĩ Lê ký tặng mẹ. Bức họa cũ , tương tự như bức đang vẽ dở dang, nhưng màu sắc thì tươi thắm chứ không xám chìm ảm đạm thế này.

Ôn Thiên đứng lặng người, đôi hỏm mắt phủ mây đục nhướng lên cố nhìn ngoái vào vùng trí nhớ in hằn từng phiến tích âm động khóc cười của những nỗi đời sa chân bước qua bến Tuần một ngày một đêm nào đó.

- Mẹ con O về bến Tuần thăm ai rứa?
- Mẹ cháu mất lâu rồi, còn ông Ngoại của bé Thu qua đời đã gần ba năm. Trước ngày mất, ông trăn trối ân hận đã không về thăm lại bến Tuần một lần. Ông nói bến Tuần là nơi cha mẹ gặp nhau rồi thành vợ chồng ở đó. Thời đó ba cháu là sĩ quan quân đội miền Nam.
- Tui đui mù loanh quanh ở đây suốt đời, có khi đã gặp cha mẹ O rồi mà không nhớ. Rứa chớ mẹ O tên chi?
- Ba thế hệ, ba mùa. Mẹ là mùa Đông, gởi gắm mùa Xuân cho tôi. Tới đời cháu là Thu. Mùa Thu Bắc Mỹ đẹp lắm, lá rừng phong đỏ ối in hình xuống mặt hồ gương lắng đọng mây trời.
- Có giống màu đỏ của bông phượng không O? Tui chỉ còn sót lại màu đỏ của phượng trong trí nhớ. Và màu xanh của lá.

Ôn Thiên thẩn thờ bước ra cửa. Gió từ sông thổi ruồng qua hiên trống mát mùi hơi nước. Hình như có cơn mưa nguồn bay về tạt qua đây mang theo tiếng cười của đôi tình nhân lồng lộng suốt dọc một chiều sông dài đăng đẳng mấy mươi năm. Hình như có giọt lệ lắng đọng trong bóng tối của đôi mắt khép, sâu hút kỷ niệm. Ôn Thiên nuốt tiếng thở dài, quay vô nhà lần tìm chiếc dù, đưa cho cô gái nhỏ.

- Cháu đói bụng chưa ? Che dù cho mạ kẻo mưa ướt. Ra quán, vừa ăn vừa coi mưa, nói chuyện nhà.

Đứa bé che tay, thầm thì vào tai mẹ. Người đàn bà tát yêu vào má con, méc với ôn Thiên.

- Bé Thu vừa nói với cháu là ông Hai nên nói là nghe mưa thì mới đúng. Con bé này lí lắc thiệt mà...!

Bàn tay chai sạn ôn Thiên ngại ngần run rẩy xoa lên mái tóc mịn màng của đứa bé. Ôn nhớ tới đứa con chưa kịp ra đời đã phải đành cuộc vĩnh ly.

- Cha mi! Ôn ni coi mưa bằng hai lỗ tai mấy chục năm ni không sót một giọt.

Người đàn bà nhìn mưa giăng sa mù lên mặt sông. Những con đò mong manh như lá co ro nép vào nhau nhỏ nhoi tội nghiệp trên dòng nước bất chợt mênh mông . Bà bỗng nhớ quay quắt người mẹ hẩm hiu vắn số, nhớ tới người cha cam chịu sống đời cô đơn , trải lòng hy sinh cho con gái. Số phận nào đã khiến mẹ cha tất tả qua đây, tình cờ nào đẩy đưa họ gặp nhau nơi bến giang đầu rồi dắt díu nhau theo dòng mệnh hệ nổi trôi ?
Trong cơn mưa chiều từ một đầu sông xa lạ, quá khứ đời người trở về bồi hồi gõ nhịp như tiếng mưa đang thánh thót rơi đều trên mái lá. Lướt thướt theo làn mưa bay là hình ảnh từng chặng đời thương khổ của mẹ cha. Tháng ngày con thơ dại trong lòng quê nội, êm đềm như cây trái sông nước miền Nam. Năm tháng long đong cơ cầu mẹ vất vả nuôi con, nuôi chồng trong trại cải tạo. Cái chết oan khiên của mẹ trên đường vượt biển. Cuộc sống trầm lặng của cha trong suốt quãng kiều cư chấm dứt bằng căn bệnh trầm kha đã hành hạ đớn đau thân xác ông năm cuối đời. Hình ảnh kỷ niệm như khúc phim quay chậm trong sướt mướt mưa chiều, bật thành tiếng nấc kêu thương nghẹn chìm câu chuyện kể.
Người đàn bà ôm con vào lòng, cất tiếng cười nhẹ, cố dằn cơn xúc động.

- Trời nước ở đây buồn quá, có lẽ con người cũng đa cảm đa sầu lắm, phải không bác Hai?
- Thì lúc buồn, khi vui. Như tiếng khóc, tiếng cười, tui vẫn nghe vẫn nhớ tới mỗi ngày. Mãi rồi quen đi. Như O thấy tui cứ lần rải đi ra đi vô mỗi sáng mỗi chiều, rứa mà đã gần hết cuộc đời trên bãi sông quạnh quẽ ni.

Mưa vẫn rơi. Ôn Thiên ngồi lặng hồn nghĩ tới sự lỡ làng của thời gian, nơi chốn. Cũng chiếc ghế kia, chỉ vài ngày trước đây, người họa sĩ đã ngồi thương tiếc đời mình qua men rượu. Thôi thì cái chi rồi cũng có nguồn cơn. Cho dù là tiếng con khóc nhớ cha mẹ hôm ni hay tiếng người thương khóc số phần nhơn duyên mình ba bốn mươi năm trước. Tội nghiệp là mỗi con người phải đành theo ngả rẽ không vừa ý. Ôn Thiên nghĩ tới mười mấy năm luân lạc của người mẹ. Ôn cảm kích mối tình cao thượng của người sĩ quan miền Nam. Ôn không thể làm chi khác hơn là trân quý mối tình phụ tử của người cha đã suốt đời hy sinh cho con. Tình cảm mà suốt đời ôn chỉ là tưởng mơ vô vọng.

- Thôi, mẹ con O đói thì kêu cơm ăn đi nghe. Để tui về gói bức hình tự họa của ôn họa sĩ Lê tặng lại O đem về Mỹ treo kế bên bức họa con gái cho vui.

oOo

Lúc nhóm đàn bà đi chợ chiều ngang qua bến sông phác giác ôn Thiên nằm mê man, nửa người chìm trong nước sông thì đã quá muộn. Ôn qua đời trên đường chở tới bệnh xá. Người bến Tuần đưa ôn Thiên về làng quê Ngọc Hồ. Trời đã cuối mùa Xuân. Đò chèo theo con sông Bạch Yến thơm lừng mùi mít chín. Dòng sông vẫn lung linh bóng nắng của hàng phượng nở bông đỏ rực. Ôn Thiên đã chết rồi.

Phan Thái Yên

 

 

Copyright © biển khơi & tác giả 1998-2023