Vũ Hoàng Thư
Nơi tôi trọ, căn gác quay mặt về hướng tây. Khung cửa sổ mở ra
những chân đồi chạy thẳng vào phía núi ở xa. Một vài hàng cây thông
đây đó sừng sững trong những sáng sương mù. Đó là Đà Lạt của tôi,
mộng mị trí nhớ xa xưa của một thuở thiếu thời đến thăm cao nguyên.
Buổi chiều mặt trời lặn sau núi, ráng đỏ ối, Trường Sơn lại hiện
về, cao tắp và tím thẫm cho đến khi làn ranh giữa đỉnh núi và trời
là một màu xanh tím huyền hoặc. Đôi khi vài gợn mây đỏ vắt ngang
như một nhắc nhở của ánh dương tàn thoi thóp. Ngày qua và hoàng
hôn nhớ nhà...
Cũng từ khung cửa sổ đó, vài khi có tiếng rung đánh thức tôi dậy
giữa đêm hay nửa đêm về sáng. Lại cũng có khi tôi chợt thức không
lý do. Tôi chỉ biết trong chớp mắt, một vầng trăng thật sáng và
tròn đang đứng chếch bên cửa sổ nhìn tôi. Giác lai bán sàn nguyệt,
tỉnh giấc đã thấy nửa giường trăng, tôi thấy hiên thu của Bạch Cư
Dị đang phủ bằng những chiếc lá rừng của Phạm Duy khi nửa đêm
trăng đến đứng chờ ngoài hiên. Chờ ai nhỉ ? Trăng chờ người?
Người chờ trăng? Hay trăng chỉ là một cái cớ cho người chờ người
? Tôi không biết trăng đang cười hay nghiêm nét mặt vì lắm khi tôi
chỉ thấy một chiếc lưỡi liềm e thẹn khiêm nhường bên những chòm
sao. Đêm sâu thẳm, vành trăng khuyết lơ lửng phía trên cây bơ già
đã chết sau vườn, nhớ Tô Đông Pha và sự tương phản trong câu thơ
của ông, Khuyết nguyệt quải sơ đồng. Vành trăng non vắt
vẻo trên cành ngô đồng đã rụng lá. Chỉ tiếc tôi thiếu một cây ngô.
Khuyết nguyệt là vành trăng mới lớn, tràn đầy hứa hẹn của cô gái
xuân thì. Sơ đồng là lão già trơ trọi cuối mùa, hắn chỉ còn những
cành trơ. Một bên là khởi đầu cho một chu kỳ mới, bên kia là tàn
rụi của một kiếp đời. Ghép cô gái với lão già thì thật là oái oăm!
Nhưng có thật vậy chăng ? Khuyết nguyệt quải sơ đồng mở ra một mùa
thu đang chớm. Trăng non đang sắp sửa đến độ tròn, tròn trịa như
rằm Trung Thu. Ngô đồng đang thay lá chờ mùa xuân trước mặt. Tháng
tháng, trăng tròn rồi lại khuyết, hàng năm cây cối đổi lá đâm chồi.
Thì ra trong dòng đời lai láng, tôi thấy có người trẻ, kẻ già mà
thật sự là hai cô gái mặc hai sắc áo đang đứng với nhau, thấy vậy
mà không phải vậy. Nào có gì là oái oăm, có chăng cái “thấy” của
tôi oái oăm?
Cũng có đêm thức giấc, tôi ngước mắt tìm, mảnh trăng không ở bên
triền cửa sổ. Tôi vùng dậy, đến sát cửa đảo mắt quanh. Không có
trăng, chỉ có bầu trời đêm lóng lánh ngân hà. Tôi sực nhớ, có lẽ
cuối tháng âm lịch, trăng vắt vẻo trên kia khi tôi còn bận rộn với
chuyện cơm áo trong dòng ngày thác lũ trong cao ốc, của máy điện
tính tân kỳ, của xa lộ kẹt xe, vân vân và vân vân. Mảnh trăng vẫn
ở đó, trên cao, tôi nào có thấy. Hay đúng hơn, mảnh trăng thực tại
vẫn có đó nhưng lại biến mất dưới mắt của tôi, thậm chí liệu tôi
có chút thì giờ để tự hỏi bây giờ trăng đang ở đâu?
Đó là trăng có thành không.
Có hay không, nói đúng hơn, thấy hay không thấy, trăng luôn luôn
là người bạn thiết đưa đường cho tình nhân. Họ tìm đến nhau khi
trăng lên và giã từ khi trăng tàn. Trăng ngã về tây, Thôi Oanh Oanh
phải tống biệt chàng Trương ở mái hiên tây, Romeo vội vã leo tường
bỏ lại Juliette còn rạo rực bên gối nồng. Trăng lặn, tình xa hay
tình tạm ngưng cho đến đêm mai, cứ thế hẹn nhau cho hết những mùa
trăng...
Trăng treo lơ lửng mà ta không thấy, trăng thành không. Thế rồi,
bối rối của biệt ly làm phân tâm, khi tình trăm mối ngổn ngang,
một con trăng có thể biến ra làm hai, hay làm ba làm bốn không chừng.
Khi Kiều chia tay với Thúc Sinh ở Lâm Chuy, một trăng biến thành
hai :
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
Trăng bây giờ của Kiều có chia cách, có nhớ nhung. Trăng không
còn là một vệ tinh quay đều quanh trái địa cầu như là một thực tại
khách quan nữa. Trăng bị “xẻ” trong giây phút này để thành “trăng
của thiếp” và “trăng của chàng”. Cùng một lúc trăng có mặt ở hai
không gian, vừa soi nỗi cô đơn trên mặt gối vừa dõi theo bóng ai
trên đường lộ xa xăm. Mảnh trăng trên mép bờ tâm lý trở thành không
thực, biên giới của không gian và thời gian lộn nhập, một thành
hai, mà trong thực tại, vẫn đó, chỉ một vầng trăng tương tư.
Lúc đầu, trăng có mà thành không, bây giờ trăng một lại thấy thành
hai, nghe ra có có, không không như chuyện nhà thiền. Này nhé, một
đêm kia từ vườn khuya có một lão thi sĩ ngồi ngắm trăng. Trời vào
thu, cây lá bắt đầu tàn úa, giàn mướp mới hôm hè vàng ươm ả, nay
cũng không qua được lẽ vô thường, có thân giả hợp nào mà không đến
hồi tan rã. Vườn khuya, hoa lụi tàn, hết còn cơ duyên đẩy đưa, ong
bướm đi ngủ, vườn khuya thành vườn không. Không hoa, không bướm,
không người. Lão thi sĩ quên lắng chuyện đời, ngồi xếp sách ở thư
phòng. Bất chợt một giọt sương rơi ngoài song. Trong nhấp nháy của
một sát na, trăng chiếu qua giọt sương, lão thi sĩ “nắm bắt” được
một “giọt” trăng tà từ hạt sương long lanh. Ông ghi lại như thế
này,
Thu lạnh mướp tàn hoa
Vườn không ong bướm qua
Song khuya ngồi xếp sách
Sương lóng giọt trăng tà
(Khuya vắng – Quách Tấn)
Sương lóng giọt trăng tà ? Chữ lóng nói đến một điều bất chợt và
đang là, cái đang xảy ra trong chớp mắt hiện tiền. Trong hạt sương
hiển lộ một vầng trăng ? Có thể nào ? Trăng sáng lênh láng như bất
tận ngoài kia – trăng bao la. Trong hạt sương lóng lánh, trăng thu
gọn vào một giọt – trăng trở thành nhỏ bé. Làm thế nào trăng vừa
bao la vừa nhỏ bé ? Thưa rằng Quách Tấn đang mang cặp mắt của một
thiền sư, ông mượn trăng mà nói bóng gió về cái MỘT và cái TẤT CẢ,
cái ta và vũ trụ, cái tiểu thiên và cái đại thiên thế giới. Tưởng
trăng chỉ sáng soi núi đồi cảnh giới ngoài kia, ngờ đâu trăng vẫn
có mặt trong một hạt sương. Trong hạt sương nhỏ nhoi không thiếu
ánh trăng đang rạng rỡ bên ngoài và trăng đang rạng rỡ bên ngoài
long lanh trong một hạt sương. Đó là tư tưởng Hoa Nghiêm, sự sự
vô ngại pháp giới của Một trong Tất cả, Tất cả trong Một.
Sương lóng giọt trăng tà. Ngay bây giờ, không trước, không sau.
Khái niệm thời gian là khái niệm đo lường “trước”, “sau” về thế
giới hiện tượng mà thế giới hiện tượng là một sự liên tục của những
sát na sinh diệt liên lĩ. Như vậy hiện tượng không phải là một thực
hữu riêng biệt có tự tính để có thể tồn tại biệt lập đối với các
sự vật khác. Tất cả hệ thuộc và gắn bó với nhau như một bó nùi vô
tận của lý duyên sinh.Thời gian chỉ là giả danh vì nó dùng để đo
lường những cái mà những cái ấy lại phụ thuộc vào những cái khác
trong một vòng móc xích vô tận, không thể nhận ra được đâu là móc
đầu, đâu là móc cuối. Cho nên những phân biệt trước/sau, hôm qua/ngày
mai, đi/đến, quá khứ/tương lai làm ta quên mất đi thực tại, đó là
có một vầng trăng thật sáng ngay bây giờ. Đào hoa y cựu tiếu
đông phong, thấy hoa bây giờ nhớ hoa năm trước. Thấy trăng
liền xẻ trăng làm hai. Loay hoay không chừng ta trở thành hai với
chính mình. Ta tự đánh mất chính ta, còn có gì buồn hơn ?
Khi thời gian thôi là trước sau, khi không gian hết còn xa gần,
không là một, cũng không là khác, thì trăng tối nay là trăng đêm
trước, hoa năm mới nào có khác hoa năm xưa, Tuệ Trung Thượng Sĩ
thấy như vậy,
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt
Tân niên hoa phát cố niên hoa
(Đốn tỉnh - Tuệ Trung)
Trăng rọi tối nay : trăng tối trước
Hoa cười năm mới: hoa năm qua
(Huệ Chi dịch)
Như thế hàng đêm trong mùa trăng, từ khung cửa sổ trăng ghé qua
với tôi. Nhiều đêm tôi không hề thức dậy, lẳng lặng trăng tà. Một
đôi khi nằm mộng thấy trăng, tôi bừng tỉnh mở mắt, sương từ mái
nhỏ giọt, những giọt trăng thoáng qua, tiếng rơi rất nhẹ. Rồi tôi
thiếp đi trong tiếng sương. Buổi sáng thức dậy, không còn nhớ là
trăng có thật hay trăng trong mộng tối qua. Chỉ một điều tôi biết
chắc chắn là có những giọt trăng thoáng rơi trong đêm, đôi khi rất
thực, lại có khi như mộng. Nhưng thế nào là thực và mộng, cuộc đời
há không phải là một cơn mộng lớn đó hay sao ?
Vũ Hoàng Thư
Santa Barbara
Tháng 10, 2003
|