Hoàng Quốc Việt
Mấy hôm sau có một tai nạn thương tâm bên khu biệt phái. Một giáo
chức trong lúc làm "anh nuôi" sơ ý cầm nguyên bịch thuốc
bồi pháo binh đến gần lò lửa phực cháy phỏng nặng. Bạn bè khiêng
anh lên bệnh xá tiểu đoàn. Nói là bệnh xá nhưng chỉ là một phòng
trống ở xa đám đông để người bệnh tự do rên la và để tập thể vô
tư... không nghe không thấy. Anh được đưa lên giường "cấp cứu"
bằng cách... cho nằm trong mùng 24/24 để ngăn ngừa ruồi muỗi bu
chích và "chữa trị" tận tình bằng cách chia bạn tù thay
phiên nhau đứng bên giường... quạt... cho mát.! Vài ngày sau anh
qua đời để lại bao xót xa trong lòng những người biết tin!
Tôi có dịp ghé thăm bệnh xá đó. Một hôm tạp dịch dọn rác trên tiểu
đoàn, lúc về ngang qua đó một người trong nhóm tên là Hiếu trước
kia là Trung Úy Nhẩy Dù rủ vào thăm người bạn cùng tổ đang nằm điều
trị vết thương mông, do trước kia, lúc còn trong quân ngũ bị bệnh
phải chích thuốc, xui xẻo thay gặp y tá đơn vị cẩu thả không nấu
nước sôi sát trùng kim kỹ lưỡng trước khi chích nên bị "áp
xe" làm độc. Vô đây bị "xì" ra phải đưa lên bệnh
xá. Gặp bạn đến thăm, anh mừng rỡ ngồi dậy đón tiếp.
- Sao? vô đây uống thuốc gì mà trông xanh xao vàng vọt quá vậy?
Hiếu hỏi
Nghe câu đó người bệnh trả lời ngay.
- Thuốc đó đó, kia kìa, thiếu gì! rồi chỉ bánh thuốc lào để trên
bàn và tiếu lâm:
Lên đây toàn chơi thứ này, nhức nhối không có thuốc uống thì lấy
thuốc lào say ra kéo một hơi dài cho quên đớn đau chớ có thuốc
men chữa trị gì đâu. Hai tuần thuốc mới về một lần, mỗi lần về
một loại, lần nào cũng toàn là thứ vớ va vớ vẩn gì đâu... thuốc
đỏ, thuốc tím, thuốc sốt rét rừng, thuốc xổ, thuốc trụ sinh kể
như đừng nghĩ tới, thuộc loại xa xí phẩm không tới tay mình, hên
lắm mới gặp thuốc đúng bệnh, còn không thì phải chờ... hai tuần
sau lên xem về thuốc gì, đau cũng phải lựa bệnh mới khổ. Từ lúc
vô đây tới giờ chỉ có một lần lên xin là có thuốc, mà phát thật
nhiều, ra về hớn hở, đến lúc lấy ra uống mới nhận ra rằng trong
phòng năm thằng khai năm bệnh khác nhau nhưng lại được phát cùng
một thứ thuốc "không tên" như nhau, cả đám thắc mắc
không hiểu tại sao thằng nhức đầu chóng mặt mà cũng uống chung
thuốc với thằng đau bụng ỉa chảy là thế nào, chắc thuốc làm bằng
bột gạo bột mì uống vô "vô thưởng vô phạt" nên mới phát
thả giàn "không suy tư" như vậy. Tụi này gọi nó là "thuốc
an thần"... uống vô để yên chí lớn là mình vừa nuốt một viên
thuốc thật vào bụng chớ không phải "nhồi" thuốc "khắc
phục "... vào đầu! Lên đây buồn chán lắm, thà ở trại sướng
hơn, trông mong đủ điều, mới lên trông về, trông thuốc, ở lâu
còn thêm cái trông "hại bạn"nữa là... trông người...
lên đây nằm... để có "bạn bệnh" nói chuyện cho đỡ buồn.
Bạn vừa xổ bầu tâm sự xong thì Hiếu lại bồi tiếp:
- Còn bệnh của mi thì BS tụi nó nói thế nào, sao tao thấy mi
đi đứng không thẳng lưng, lom khom như thằng gù nhà thờ Đức Bà
vậy.
oOo
Nghe câu đó, anh lơ đãng nhìn mông lung vào hư không trả lời...
vu vơ : thì lúc nào cũng lải nhải "một âm quen"... khắc
phục vậy thôi chớ có nói thêm gì đâu! Rồi như sực nhớ ra một điều
gì quan trong anh lết vội tới đầu giường lục lọi trong túi sách
lấy ra một tờ giấy nhăn nhó được gấp lại ngay ngắn cẩn thận đưa
cho Hiếu rồi nói:
- Tao có cái toa thuốc này của y tá bộ đội viết cho, nó nói là
thuốc gia truyền để trị "sâu quảng", mày xem có thể
giúp tao tìm những vật liệu trong đó được không?.
Hiếu đọc xong bậm môi để khỏi bật cười, đưa tay lấy cái điếu cầy,
vừa vói vừa nói:
- Mi nói giỡn hay nói chơi, tờ giấy này mà mi bảo là toa thuốc
à, chắc lấy lộn rồi, tao nghĩ nó là tờ điếu đóm!
- Ấy chết, đừng nói bậy, đừng đốt đi, toa thuốc gia truyền thiệt
đó, nó là niềm hi vọng bấy lâu nay của tao ở đây, mầy không thấy
tao cất kỹ nó ở dầu nằm đó sao?
Hiếu đưa "toa thuốc" bèo nhèo viết trên giấy vở học trò
xé ra nham nhở, chữ nào chữ nấy to bằng con ruồi nhăng, khoảng trên
chục chữ đã chiếm đầy trang giấy cho mọi người xem trong đó có cả
Bác Sĩ Trần xuân Ninh, một BS giải phẫu nổi tiếng ở bệnh viện Nhi
Đồng thời bấy giờ. Liếc sơ qua "bài vị" trong toa thuốc
đó tôi cứ tưởng là để chuẩn bị nấu một món đặc biệt gì đó... cho
mèo ăn! Nó chỉ vỏn vẹn mấy chữ sau đây:
Vật liệu :
Con chuột chù, Sả, Gừng, Giềng, Tỏi, Hành, Mì chính. Cỏ mực, Mắm
tôm... và thêm vài thứ rau cỏ lạ nữa tôi không nhớ hết. Chỉ thế
thôi chớ không bầy vẽ chỉ dần cách "nấu sào " thế nào
hay nói rỏ đây là thuốc uống hay thuốc... ăn! Thế mà anh bạn đáng
thương của mình lại đặt hết niềm tin vào đó mới tội. Đọc xong một
người bông đùa:
- Tôi nghĩ toa thuốc này để chữa trị cho con mèo ốm đói kén ăn...
thịt chuột chù... thì có lý hơn! Tại chưa có con chuột chù đó
thôi, chớ có rồi làm thành thuốc để trước mặt là anh sẻ... nín
thở... đem đi đổ liền! Chuột chù hôi tanh lắm, con mèo nhà tôi
cũng sợ không dám vồ. Anh gạt phắc đi ngay:
- Giỡn hoài! tại anh không ở trong hoàn cảnh tôi nên mới nói
vậy, rồi ngây ngô dẫn giải:
Chữa trị lối này đại khái cũng giống như dùng mẹo để trị sán xơ
mít trong ruột vậy... nhịn ăn cho con sán thật đói rồi ngồi ngâm
mông trong thau nước ấm pha đường hay thức ăn loãng mà con sán thích
để dụ nó chui ra ngoài. Nan giải nhất là con chuột chù, chờ mải
đến bây giờ chưa có. Tên y tá bộ đội hứa hẹn là khi nào tìm được
con chuột chù thì nó sẻ tự tay biến chế thành "thuốc "...
đắp lên vết thương để dụ con "sâu quảng" mò ra ăn của
lạ. Nghe xong tôi cũng ngây thơ quay qua Bác Sĩ Ninh hỏi:
- Anh Ninh, anh là Bác Sĩ, anh thấy làm như vậy có đúng không?
Bệnh nhân trố mắt nhìn BS Ninh không chớp chờ đợi. Sâu sắc hơn,
không nỡ giết đi niềm tin của người bệnh tù bất hạnh, nhất là trong
hoàn cảnh này, BS Ninh trầm ngâm một hồi ra ve đắn đo suy nghi rồi
trả lời một câu thật khéo:
- Tôi không rõ khoa này cho lắm nhưng chắc nó cũng đúng... theo
cổ y!
Gương mật bệnh nhân tươi hẳn ra, đôi mắt long lanh những tia hi
vọng. Tôi lặng người nhìn anh xót xa thương cho thân phận hẩm hiu
bọt bèo và đau lòng hơn khi thấy ngón áp út bàn tay anh lại... đeo
nhẫn!
Chúng tôi từ giã ra về, anh lom khom tiễn ra tận cửa, luôn miệng
dặn dò cầu khẩn từng người ráng cứu giúp anh, ráng tìm con chuột
chù cho anh, anh rất biết ơn, khi nào bắt được nhớ tìm mọi cách
đem nó lên đây cho anh ngay đừng quên.... thật là tôi nghiệp! Đây
là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng tôi gặp anh, thật ngắn ngủi,
trong chốc lác, nhưng "dư âm" câu chuyện mãi đến tận bây
giờ cũng không quên!
Nghĩ lại cũng thương và tội cho anh, trong tận cùng của tuyệt vọng,
của khổ đau, không tin vào đó thì biết tin vào đâu bây giờ, có còn
hơn không, chờ uống thuốc "con chuột chù" chưa bất được
trong đầu coi bộ cho anh nhiều "sức sống" hơn là chờ uống
thuốc "khắc phục" trên miệng vẹm. Anh như người kiệt lực
sắp chết đuối giữa dòng, thấy xác chết trương sình lình bình trước
mặt cũng mừng rỡ như gặp vị cứu tinh... hồ hởi phấn khởi gom hết
tàn lực bơi nhanh tới đó để bám... làm bè... tìm sự sống trên thây
ma hôi thối đó!
Trên đường về Bác Sĩ Ninh mới nói hết sự thật cho chúng tôi biết
là người bệnh đó đang ở vào giai đoạn cuối cùng của cuộc đời mình,
sở dĩ anh bị cong lưng rút cổ không đứng thẳng được là vì "cái
con sâu quảng" mà chúng mình nghe nôm na ban nãy đã ăn sâu
vào tận tủy sống của anh rồi, đến tình trạng này là kể như hết thuốc
chữa, y học cũng bó tay, chỉ chờ chết mà thôi. Bệnh này thật ra
không phải là một bệnh nan y không chữa trị được, mới phát hiện
đem giải phẫu nạo bỏ lớp thịt ung thối ấy đi thì đâu có gì nguy
đến tánh mạng. Nếu chữa trị "khắc phục" theo kiểu đó cứ
để anh ở lại trại chữa trị "dã chiến" chắc cũng không
đến nỗi như bây giờ. Ít lâu sau Hiếu báo tin anh không còn nửa.
Lần này nghe tin một người lìa đời tôi lại không buồn mà lại còn
mừng cho anh nữa là đằng khác... sống làm gì kiếp sống khốn khổ
khốn nạn đó, chỉ thắc mắc một điều là trước khi nhắm mắt lìa đời
anh có còn tin vào toa thuốc gia truyền đó nữa không, có nhận thức
ra rằng mình chết là vì lòng "nhân đạo khoan hồng" của
đảng và nhà nước quá... "tàn nhẫn vô nhân"... giết anh
từ từ chầm chậm không gươm không đao, đẻ anh chết dần chết mòn hẩm
hiu cô quanh trong đớn đau tuyệt vọng chớ không phải vì thiếu..
con chuột chù trong cái toa thuốc quái đản đó.!
Tôi cũng đã có dịp làm phụ tá "rờ vịn" cho BS Ninh trong
một ca mổ "bỏ túi" cho một OC quen biết trong đây tên
là Hợp, khóa 11 OCS. Lúc đó ở Long Khánh, không hiểu vì sao một
ngón chân cái của anh không thấy dấu vết gì trầy trụa mà lại sưng
vù lên, xanh lè, đau nhức, mang giày mang guốc không được nên phải
đến cầu viện nhờ BS Ninh chữa trị. BS Ninh vui vẻ nhận lời ra tay
"cứu độ" ngay. Đồ nghề do bệnh nhân mang tới gồm một bếp
than và nồi nấu nước nhỏ, một khăn dày nhỏ, một ít bông gòn và đặc
biệt Hợp cũng tìm đâu ra, mượn đâu được một lưỡi dao mổ nhỏ thứ
thiệt trông rất sắc sảo đẹp mắt, so với dao cải tạo "có công
mài sắt có ngày nên dao" hay lưỡi lam cạo râu cắt tóc thì hiện
đại hơn nhiều, chắc nhờ trại chúng tôi đang ở trước đây là căn cứ
của một Đại Đội Quân Y thuộc SĐ 18 BB nên mới có thứ này. Trước
khi bắt tay vào việc anh phân công đám "phụ tá"ôm giữ
bệnh nhân để anh dễ dàng làm việc đề phòng con bệnh giãy giụa, nhìn
lại toàn dân Hải Quân không, người ôm mình, người vịn chân, người
nắm tay, người giữ đầu. Lo xong "cái ghết mổ " anh bắt
qua chuẩn bị tinh thần cho con bệnh, nhìn Hợp anh nói :
- Mổ "tự nhiên" không thuốc tê, không painkiller như
thế này đương nhiên là đau rồi, chỉ biết cắn răng chịu đựng mà
thôi, vì thế nên tôi mới nhắn anh đem theo một cái khăn lau mặt
sạch là vậy, tuy nhiên nếu biết vận dụng ý chí tinh thần chúng
ta có thể chế ngụ được phần nào cái đau. Theo tâm lý học ta có
hai chọn lựa sau đây:
Một... là mình nghĩ tới người mình thương yêu nhất trên đời, chẳng
hạn như bó mẹ mình, người yêu mình, vợ mình, con mình v. v. đó
là tôi chỉ thí dụ gợi ý cho anh thôi chớ còn người yêu quý nhất
trên đời của anh là ai thì tùy anh lựa chọn. Nhưng một khi đã
chọn rồi thì trong lúc mổ anh ráng tập trung tư tưởng nghĩ về
người đó mà thôi chớ đừng phân tâm nghĩ qua chuyện khác.
Hai... là mình nghĩ tới người mình thù ghét nhất trên đời, chẳng
hạn như người đã làm cuộc đời mình tan nát, nhắc tới là kinh tởm,
là chỉ muốn "ăn tươi nuốt sống" hay nguyền rủa cho họ
bị "trời đánh thánh đâm" mà thôi. Nói như vậy nghe có
vẻ độc ác nhưng có được một người như thế để ghét mới là người...
lý tưởng number one! Thôi, nói thế đủ rồi, bây giờ tôi để cho
anh toàn quyền chọn lựa, người thương, người ghét tùy anh, nhưng
ráng chọn... đúng người mới có hiệu lực... nhớ nhé!
Nói xong, anh mới trở về lo phần việc của anh... nấu nước sôi
sát trùng dao mổ, rửa tay bằng xà phòng cho sạch sẽ vệ sinh. Chưa
mổ chỉ nghe bấy nhiêu thôi mà gương mặt Hợp cũng tái mét như Hợp...
lãi nhà mình, cặp kính cận xệ xuống cũng chẳng buồn kéo lên. Một
anh bạn HQ khóa 22 NT cùng tổ với Hợp giờ tôi không nhớ tên lên
tiếng"trấn an":
- Ôi!... nhằm nhò gì cái lưỡi dao bé bé xinh xinh đó, suy nghĩ
chọn lựa làm gì cho mệt óc, chừng nào bị mổ bằng dao mổ heo mổ
bò mới lo. Bây giờ kéo một "bi" lấy lại tinh thần cái
đã!
Sát trùng xong BS Ninh lấy lưỡi dao ra để lên miếng bông gòn rồi
bảo Hợp tháo cặp kính cân ra và kê cái khăn dày giữa hai hàm răng.
Chúng tôi sẵn sàng... "thế ghì xiết thủ thế"... Hợp ngồi
trên cái sạp ngủ đưa chân ra ngoài, Trung khỏe mạnh ôm người, tôi
ốm yếu ghì chân... không đau, trước khi ra tay BS Ninh cũng không
quên nhắc lại câu chuyện "ban nãy" mà tất cả chúng tôi
kể cả Hợp đều quên phứt đi sau màn "giải nao thuốc nào",
cứ nghĩ đó là câu chuyện làm quà... "nghe qua rồi bỏ":
- Sao? nãy giờ anh đã chọn được " người lý tưởng" ấy
chưa? người thương hay người ghét? nếu chưa để tôi chọn hộ cho
anh cũng được... Nầy nhé, nghe kỹ đây nhé, để hết hồn mình nghĩ
tới người tôi sắp nói ra đây... người ấy chính là bác Hồ của chúng
ta chớ còn ai vào đây nửa! Nói tới đây là anh "khai dao"
liền, tay làm miệng nói:
Này nhé,... bác Hồ vĩ đại nhé!
Này nhé... bác Hồ kính yêu nhé!
Mỗi tiếng "này nhé" phát ra là lưỡi dao ấn mạnh ấn sâu
xuống da thịt, rọc một đường dài dọc theo đầu ngón chân... máu xanh
máu vàng phọt mạnh ra. Hợp ưỡn người lên, chân tay quíu lại... chúng
tôi ghì xiết "thực tình", người cũng "rung động"
theo cơn rung rẩy của nạn nhân, răng cũng nghiến chặt kèn kẹt như
người trong cuộc. Mở miệng khai thông cho máu mủ trào ra xong là
anh buông dao dùng hai tay nặn bóp chung quanh đầu ngón chân...nước
nhờn xanh lè vàng khè tuôn trào xuống đất, nạn nhân có vẻ đau hơn,
oằn oại tê mê, mắt nhắm nghiền, mồ hôi mồ kê chảy ra như tắm. BS
Ninh không quên nhiệm vụ "vừa đánh vừa đàm" vừa nặn vừa
nói:
Này nhé... bác Hồ đó là lòng ta yên tĩnh nhé!
Này nhé... bác Hồ đây là chân ta hết đau liền!
Này nhé.... chưa nói hết câu thì một giọng lạ xen vào
- Các anh làm gì mà tụ lại gọi lớn tên bác Hồ lên vậy! ...mọi
mái đầu quay về phía phát ra câu hỏi đó...
Tôi bật miệng thành tiếng: Chết mẹ quản giáo... ! rồi biết lỡ lời
im ngay nhưng vẩn lầm bầm trong bụng : lại thêm chuyện rắc rối cuộc
đời... "thần khẩu hại xác phàm" nữa rồi, chưa xong chuyện
này đã tới chuyện kia, không biết hắn đến từ lúc nào, có biết chuyện
chọn lựa điều một điều hai này không? Tiếng "này nhé"thắng
lại tức khắc...im bặt... ca mổ lạng quạng, mất khí thế... may nhờ
tiếng "rên không nên lời" vì miếng khăn dày ngậm đầy trong
miệng Hợp phát ra.... kéo mọi mái đầu trở lại với... máu mủ... lấy
lại tinh thần... quên đi "dép râu nón cối" đang đứng "coi
cọp" sau lưng! BS Ninh "xệ" thấy rõ, tay rung rung,
mặt biến sắc, không còn linh động hoạt bác chủ động như trước. Thiếu
tiếng "này nhé"...xoa dịu niềm đau nhân thế của anh, không
khí "mổ tự nhiên" bỗng dưng trở nên tẻ nhạt, ngột ngạt,
khó thở... không người lái... thỉnh thoảng còn đệm thêm tiếng thở
dài ngao ngán của đám rờ vịn"tiếp sức" với tiếng ú ớ xuýt
xoa đau đớn của bệnh nhân...Rồi những dòng máu đỏ bắt đầu xuất hiện
báo hiệu ca mổ xắp tàn và... báo hiệu cho BS Ninh chuẩn bị tinh
thần cho ca "mổ xẻ" cái miệng... hại cái thân kế tiếp!
Lấy bông gòn rủa sạch vết thương bằng nước sôi xong là anh vội vàng
đứng lên "thanh minh thanh nga" rất có bài bản, chắc có
lẻ vừa nghĩ ra trong lúc nặn máu mủ:
- Thưa anh, sở dĩ ban nãy anh nghe tôi gọi tên bác lên là thế
này: Mổ không có thuốc tê như thế này thì đau lắm, nhưng chúng
ta có thể "khắc phục" được nó bằng cách tập trung hết
tinh thần tư tưởng nghĩ tới một người mình kính yêu nhất trên
đời chẳng hạn như đức Phật, đức Chúa hay những bậc vĩ nhân thế
giới, tiền nhân dân tộc.. . Sau khi hội ý với nhau " đề bạc
bình bầu " trong nhóm thánh nhân trời đất, chúng tôi đã đồng
lòng nhất trí chọn bác Hồ vĩ đại của chúng ta làm người "mẫu"
để anh đây chỉ nghĩ tới trong lúc mổ đau.... Sợ mất "tự giác",
thiếu "tập trung" nên tôi phải luôn miệng nhắc nhở tên
bác cho anh đây... " nắm"! Bởi thế anh luôn nghe tội
gọi lớn tên bác Hồ lên là vậy!
Hắn gật gù ra vẻ đồng tình rồi cao húng lên lớp "bồi dưỡng"
thêm cho chúng tôi một " bài học thuộc lòng" bốc thơm
bác mà hắn được nhồi sọ từ thuở ấu thơ lúc mới cắp sách đến trường:
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Bác Hồ hơn cả... mẹ cha!!!
Mênh mông trời bể... bao la biển trời!!!
Rồi đắc chí nói : Đó, bác chúng ta vĩ đại thế đó, tôi hoàn toàn
nhất trí với các anh, chọn như vậy thật là... hết ý!. Chúng tôi
nghe xong... rởn tóc gáy, nhưng cũng thở phào nhẹ nhõm mừng cho
BS Ninh thoát nạn chớ không phải mừng cho con bệnh hết đau. Anh
đã miệng bằng tay, tay bằng miệng, tài tình khéo léo "giải
khổ" cho bệnh nhân và cho cả chính mình!
Thôi tạm gác lại chuyện ốm đau bệnh tật chết chóc tang thương
sang một bên để kể chuyện năm hết Tết đến trong vòng rào như thế
nào? Tháng ngày hờ hững trôi qua, đã qua mùa học tập, hết mùa vác
củi nhưng chưa tới mùa tan... tù! Một ngày như mọi ngày, lãng quên
ngày tháng nhưng đêm đến khéo co cách mấy trên cái chiếu tôn cũng
không thấy ấm mới biết tiết trời đổi thay, năm cùng tháng tận sắp
qua... ngoài rào! Lịch đời Tam Tông Miếu ba trăm sáu mươi lăm ngày
dầy cộm bóc hoài cũng hết mà lịch tù "thập thiên thu"
mười ngày "ăn" mỏng dính gạch mãi vẫn còn... dan dở, gia
hạn thêm không biết bao nhiêu lần cái mười ngày đó mà cũng chẳng
thấm vào đâu. Lạnh lẽo nhớ nhà, nôn nóng mong về chớ ai đâu mong
chi Xuân đến gợi thêm sầu trong cái cõi đời toàn là những ngày sầu
này làm gì. Đầu óc cứ tơ tưởng đến chuyện ân xá nhân dịp xuân về,
nhìn đàn én bay lượn trên cao không rạo rực được một mùa xuân trong
lòng mà lại gợi nhớ tự do mới khổ! Mỗi lần thấy bóng dáng nón cối
dép râu cầm tờ giấy nhỏ đi xăm xăm về hướng trại là nghĩ đến chuyện
phóng thích và ước ao có tên mình trong đó. Nếu đảng sáng suốt biết
dừng lại nơi đây thả về lúc này thì hay biết mấy, đắc nhân tâm cỡ
nào! Không tội mà tù than trời không được, chỉ biết đêm đêm co ro
cúm rúm như con cuốn chiếu chấp tay vô háng cầu xin khấn "
dái "... bác... sống khôn thác thiêng hiện hồn về soi đường
dẫn lối cho đám đảng ngu si đần độn trở về với đường lối dân tộc,
lấy trí nhân thay cường bạo, đem tình thương xóa bỏ hận thù, học
khôn bài học sử thời Trần thời Lê... sai đem đốt đi thùng tài liệu
mật thám ghi tên những kẻ tình nghi hợp tác với giặc trước mặt bá
quan văn võ triều đình để trấn an trăm họ, dẹp bỏ nghi kỵ, khôi
phục nhân tâm, chung sức nhất trí kiến tạo lại đất nước sau tàn
phá chiến tranh chớ đừng say men chiến thắng trả thù hành hạ kẻ
thất trận, quên đi đại nghĩa dân tộc... đánh người chạy đi chớ đâu
ai đánh người trở lại! Chúng tôi chỉ có cái tôi duy nhất là sanh
sống ở miền Nam, "ăn cây nào rào cây nấy" nên lớn lên
phải đáp lời sông núi, đội nón sắt, mang bốt đờ sô, cầm M16 bảo
vệ miền Nam tự do, chớ nếu sanh ra và lớn lên ở miền Bắc thì khỏi
nói, chạy trời không khỏi nắng cũng đội nón cối mang dép râu ôm
AK 47 làm kẻ chiến thắng rồi! Không khéo không cải tạo được ai mà
lại còn đào tạo họ trở thành những con người chống cộng kiên trì
nhất trên đời này. Cải tạo càng lâu, hận thù càng dầy, chống đối
càng dai! Tôi dám chắc cả miền Nam trước kia không có trường huấn
luyện chống cộng nào tuyệt vời bằng trường cải tạo của đảng cả.
Học xong một khóa "đảng đã tôi ta thế đấy" bảo đảm chống
đến cùng, chống đến nơi, chống không còn chỗ nào chê hết, ôn hòa
hay quá khích cũng đều chất lượng cả!
Đó là chuyện về lâu về dài, còn bây giờ chuyện trước mắt là phải
"phục tòng" mừng Xuân ăn Tết theo lời Đảng biểu cái đã.
Trước hết là viết thơ " vòi quà" để nhà gởi vô ăn Tết,
kế đến là viết báo liếp báo tường đọc chơi Xuân và sau cùng tập
dợt văn nghệ văn gừng mừng năm mới. Chu đáo thế đấy, đầy đủ vật
chất lẩn tinh thần! Mục đầu coi bộ hấp dẫn, cả trại hưởng ứng nhiệt
tình, hết mình! Quà hai ký mà cắm đầu hí hoáy miệt mài liệt kê một
"toa hàng" đầy hai mặt giấy, cái gì cũng cần, cái gì cũng
xin, nhẹ nhẹ nhiều nhiều, từ cây kim sợi chỉ, thuốc bổ thuốc bịnh
đến cái áo lót quần thung thay đổi hàng ngày. Không cần thấy hai
chữ đói rách te tua trong thơ, chỉ cần đọc cái danh sách dài lê
thê lết thết thiếu điều có thể mở một tiệm chạp khô trong đó là
nhà biết liền. Trên nửa năm trời rồi còn gì, cái gì mà còn, cái
gì mà chịu nổi, cạn tào ráo máng, còn lại tấm thân gầy như bộ xương
cách trí này là hay lắm rồi! Viết xong gởi đi là bắt đầu bấm đầu
mấy ngón tay tính từng ngày từng đêm canh quà đến, nghe gọi tên
lên lãnh quà sướng như được gọi tên lên lãnh phần thưởng danh dự
vậy, ôm gói quà "nhẹ ký nặng tình" mừng mừng tủi tủi nước
mắt rưng rưng! Đúng là đảng đã cho ta một mùa Xuân... đón quà...
chớ không phải đón giao thừa! Nhận quà xong hai mục sau kể như chìm
vào quên lãng, ai nấy bùi ngùi nghĩ chuyện nếu Xuân này vắng anh
hay nếu con không về chắc mẹ buồn lắm chớ tâm trí đâu nghĩ chuyện
viết lách đọc chơi và tập dợt ca hát ngày Tết cho tù vui Xuân. Rầu
nhất là mục báo chí, tờ " Liếp Xuân" thành lập cả tháng
nay mà chẳng lên được liếp nào, chủ nhiệm chủ bút được trên chỉ
định đảm trách kêu gọi khản cổ mà chẳng có bài vở nào gởi tới, dụ
dỗ ban bố đặc quyền đặc lợi miễn mọi công tác lao động cho người
hợp tác cũng chẳng có ma nào tham gia. Tết gần kề mà báo chưa ra
làm trên nổi giận dùng biện pháp mạnh cưỡng bách viết lách. Ra lệnh
bỏ nguyện một buổi " buông cuốc xuống cầm bút lên ", bắt
buộc mỗi người phải viết một bài, thơ văn gì cũng được, không cho
khất lại ngày mai, ai không viết bài thì viết tờ... tự kiểm! Khôn
hồn mà liệu, muốn vừa cười vừa viết hay vừa khóc vừa viết! Thể là
cả trại tuân theo răm rắp ngồi lại bên nhau... tập làm thơ văn!
Quen viết sơ yếu lý lịch, tự phê tự kiểm, thu hoạch học tập theo
ý đảng mớm mà giờ bảo viết lách thơ văn theo ý mình nghĩ thì khó
vô cùng, không biết nghĩ gì, viết gì cho hợp mình, hợp đãng, hợp
Xuân... tù! Những nhà thơ nhà văn bất đắc dĩ cứ đực mặt ra như bị
táo bón, đăm chiêu bất động cắn bút suy tư, ngắm nhìn... nắng xuyên
khe vách, gió lùa tơ nhện tìm cảm hứng viết truyện... ruồi bu! Khổ
còn hơn ngồi trong phòng thi nửa, vì đi thi gặp bài khó làm không
được thì đứng lên bỏ cuộc thi nộp giấy trắng ra về, còn đằng này
phải nộp giấy có chữ mới được... yên phận tù đầy! Viết bài cho cả
trại đọc không được cũng khổ mà viết tự kiểm tự đọc cho cả tổ nghe
cũng còn khổ hơn, năm cùng tháng tận mạc rận đời tù là thê! Thấy
mấy người viết xong thảnh thơi đánh cờ chiếu tướng mà bắt thèm.
Ngồi đồng rặng mải không ra chữ nào, đầu óc trống rỗng, tự trách
mình đần độn ngu si "khôn nhà dại chợ".... viết thơ vòi
quà thì hết ý bất tận mà viết văn đăng báo lại cạn ý hết chữ! Bí
quá, ngồi nữa cũng vậy, tôi bèn đứng lên đem tờ giấy trắng qua tổ
của Nguyễn Cư kế bên gặp Trung cầu viện vì biết Trung thơ văn một
bung, Nho Hán một cây, ngủ thư tứ kinh thông suốt. Đến bên Trung
tôi mở lời nhờ vả chẳng chút ngượng ngùng:
- Ông có thể làm giùm một bài thơ cho tôi đem nộp được không,
khổ quá, động não suốt buổi mà giấy trắng vẩn hoàn trắng giấy!....rồi
im lặng hồi hộp chờ câu trả lời, Trung mỉm cười nói:
- Ông muốn bài dài hay bài ngắn, được đăng hay không được đăng?
Mừng rỡ tôi trả lời ngay không cần suy nghĩ:
- Càng ngắn càng tốt, càng dở càng hay, chỉ cần để nộp chớ không
cần để đăng. Nói xong muốn tìm hiểu thêm cho ra lẽ tôi hỏi tiếp:
- Ngắn thì sao mà dài thì thế nào, nghe ông nói sao dễ như ăn
cơm sườn vậy! Ông làm thế nào nói cho tôi biết.Trung trả lời giải
thích:
- Ngắn thì bốn câu còn dài thì sáu, tám hay dài nữa tùy ý mình.
Thí du bốn chữ Cung Chúc Tân Xuân, thì từ từng chữ riêng biệt
Cung, Chúc, Tân, Xuân, mình làm một câu, mỗi câu bồn, năm chữ
cũng tùy mình là có một bài thơ ngắn liền. Còn dài thì tìm câu
nào nhiều chữ hơn như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam như vậy
là mình có bài thơ tám câu mà muốn dài nữa thì thêm mấy chữ Độc
Lập Tự Do Hạnh Phúc, vậy thôi, chớ có khó khăn gì đâu! Làm "nhà
thơ" hay thì khó chớ làm "thợ thơ" dở thì dễ ợt,
vài phút là có thể làm một bài thơ theo tiêu chuẩn ông nói. Còn
nếu làm theo thể thơ "con cóc" thấy sao viết vậy người
ơi mà mình học trong sách giảng văn lớp đệ thất:
Con cóc trong hang,
Con cóc bò ra,
Con cóc ngồi đó,
Con cóc nhảy đi... thì còn nhanh hơn nửa! Nghe qua mừng húm tôi
trả lời liền.
- Vậy thì ông làm ơn thảo giùm tôi một bài thơ con cóc đi, nhớ
làm cho thiệt dở để bị loại không được đăng cho tôi. Trung nói
như thật:
- Nếu vậy chọn câu "Đừng Nghe Hãy Nhìn" hay "Đón
xuân này nhớ xuân xưa"! Tôi hết hồn trả lời ngay.
- Đừng xúi bậy cha nôi, làm vậy để tôi làm tự kiểm sướng hơn!
Trung phân trần:
- Cái khó là làm sao cho nó bị loại mà tác giả nó không bị gì.
Muốn không được đăng phải sài mấy thứ đó chớ không phải dài, ngắn,hay,
dở. Bây giờ mấy câu Cung Chúc Tân Xuân hay Chúc Mừng Năm Mới cũng
đã làm hết rồi, chỉ còn Bác Hồ Vĩ Đại, Bác Hồ Kính Yêu hay XHCN
mà thôi, ông muốn thứ nào? Tôi đắn đo cân nhắc:
- Thôi, đừng chơi dại "Nâng bi" bác bằng thơ con cóc
nguy hiểm, lở nó nhẩy "dập" thì sao? lấy XHCN cho tôi
cũng được.
- Vậy thì ông nên thêm hai chữ Ưu Việt cho đủ bộ, chứng tỏ mình
thuộc bài, học tập tốt!
- Chỉ sợ tốn thời giờ ông thôi, còn tôi thì sao cũng được.
- Không sao cả, ba mươi giây là xong liền.
Đùa dai xong, Trung mới cầm bút viết câu Xã Hội Chủ Nghĩa Ưu Việt
dọc theo trang giấy làm khung sườn cho bài thơ rồi bắt đầu bắt tay
vào việc...điền vào chỗ trống những câu sau đây cho đủ nghĩa...
.
Xả hành gừng tỏi
Hội hè đình đám
Chủ tớ thợ thầy
Nghĩa lể trí tín
Ưu ái cho nhau
Việt Nam thái hòa.
Thế là xong, chưa đầy hai phút đã xong một bài thơ để nộp, hóa
giải cho tôi những bế tắt điên đầu, khỏe re như bò kéo xe. Cám ơn
rối rít xong là tôi vội vàng trở về tổ lấy giấy khác viết lại cho
đúng tuồng chữ mình rồi ghi tên phía dưới đem nộp tổ trưởng bài
thơ... không tên chiều ngang mà có tên chiều dọc! Nộp xong, hồi
hộp mong sao cho nó bị loại, thế mà cũng được đăng mới độc. Nghe
An về báo có tên mày trong đó rồi rủ lên xem cho vui mà muốn độn
thổ, giả vờ từ chối khéo ra suối giặc đồ. Phải chi được phép ghi
"bút hiệu" hay chính tự tay mình làm bài thơ đó thì cũng
lên liếc qua coi nó nằm ở liếp nào và nhất là xem "liếp Xuân"
ra sao. Đằng này thơ người tên mình nên ngượng ngượng ngùng ngùng
sao đó, không dám bén mảng đến gần nói gì đến xem!
Đa tài như Trung cũng gặp lắm truân chuyên, văn hay, vẻ giỏi nên
bị trưng dụng vào ban báo chí làm họa sĩ trang trí cho "Liếp
Xuân". Một hôm bỏ về sớm, ngồi thừ người ra, mặt mày một đống,
lầm lỳ không nói. Đến trưa viện cớ nhức đầu xin trở về lao động
lại với anh em đổi không khí chớ không muốn vẻ nữa nhưng không được.
Hỏi ra mới tức tối xổ bầu tâm sự với Cư:
- Mẹ, làm việc trên giấy với tụi nầy còn mệt hơn cuốc đất. Vẻ
cỡ nào cũng bị chê, bắt vẻ đi vẻ lại hoài mà cũng chưa vừa ý.
chê tới chê lui không biết đâu mà rờ!
- Chắc mày vẻ tụi nó xấu quá nên bị chê bắt vẻ lại chớ gì?
- Đâu có, nó không chê đẹp sấu mà chê vẻ không giống mới chết
chứ, Vẻ "chân dung" tụi nó bây giờ đâu khó khăn như
xưa, tưởng tượng mệt óc, "người mẫu" đủ loại, vệ binh,
quản giáo, chính trị viên, sờ sờ trước mặt, tha hồ mà vẻ, mặt
nào ra mặt nấy, thế mà chúng chê không giống chúng mà giống người
khác mới khùng. Vẻ ba thằng bộ đội ca khúc khải hoàn tao cho đội
nón cối. mang dép râu, ôm A K đàng hoàng, cờ đỏ sao vàng làm nền
phất phới sau lưng mà cũng bị thằng Chánh Trị Viên chê sao vẻ
mặt mày Bộ Đội Giải Phóng ăn mừng chiến thắng lại đằng đằng sát
khí y như ba thằng "ngụy quân" trên bao thuốc lá Ruby
Quân Tiếp Vụ vậy. Cư tiếu lâm ngắt lời:
- Chắc thằng đó đang hút Ruby chớ gì? Trung mỉm cười nhưng vẫn
tiếp tục nói tiếp:
- Còn vẽ thằng bộ đội thảnh thơi ngồi ôm súng "nhân đạo"
hưởng hòa bình trên phiến đá thì phê bình sao ngồi buồn giống
tượng "Tiếc Thương" trong Nghĩa Trang Quân Đội trên
xa lộ Biên Hòa. Vẻ nữa dám nói giống hình thằng Việt Cộng mặt
xanh nanh vàng trong "bia lên" trên sân bắn Quang Trung
lắm! Tụi nó có cặp mắt "nhìn gà hóa cuốc, nhìn mèo ra cáo"
nên vẻ thế nào cũng bị nói, tao chịu thua luôn! Cư cười thông
cảm nhưng vẩn "động viên" :
- Thôi lỡ rồi, tiếp tục vẽ lại đi, chuyện này không nhỏ đâu, không
khéo bị chụp mũ chống đối bắt làm tự kiểm, khổ mày mà khổ luôn
cả tổ. Tao biết báo chí là báo đời rồi nhưng đâu ngờ vẻ cũng có
"màu sắc chánh trị" như thế, nghĩ chỉ có viết mà thôi!
Trung tiếp liền:
- Tao thấy vẻ còn độc hơn viết, vì viết còn "lách"nên
có thể tránh được hiểm nguy. Cư tiếp tục xoa dịu:
- Biết ra thì cũng muôn rồi, phóng lao phải theo lao, ráng lên,
ráng ra tay vẻ mặt mày tụi nó đẹp tươi thêm một chút, đừng theo
"trường phái" : "tao buồn mày cũng phải buồn theo
tao" nửa! Trung vẩn ấm ức, bồi thêm một câu cho đỡ tức :
-Chưa chắc, vẻ chúng nó trắng trẻo đẹp trai, mắt to mũi thẳng
dám bị bắt bẻ sao vẻ mắt mũi Bộ Đội Nhân Dân Anh Hùng lại giống
bọn "giặc Mỹ cọp beo " quá vậy! ... rồi mới chịu đứng
lên đi làm chuyện.... báo đời!
Đó là chuyện báo chí báo đời, còn chuyện văn nghệ văn gừng ra sao?
Thấy cũng có đặc quyền đặc lợi miễn mọi công tác khiên vác cuốc
đào nên tôi cũng xin vào toán văn nghệ lấy miệng độ thân để "tỵ
nạn lao động" nhân dịp Xuân về. Cũng may gặp trưởng ban văn
nghệ có tài nên những ngày trong đó không nhàm chán lắm. Anh tên
Hà văn Ngạn, người nho nhỏ, duyên dáng, nghệ sĩ, trước làm phòng
Tâm lý Chiến Cục Chiến Tranh Chính Trị, tuy không xuất thân từ Quốc
Gia Âm Nhạc nhưng soạn hòa âm rất hay và có hồn. Anh chọn hai bài
để tập dợt trình diễn là Trường ca Sông Lô của Văn Cao và bài "cò
mồi lót đường" Đảng đã cho ta một mùa Xuân của nhạc sĩ "vô
danh tiểu tốt" nào đó không cần biết đến, vì có tiếng thì đâu
dại gì sáng tác bài đó để mất tiếng, tự hủy diệt tên tuổi mình..
Bài Trường Ca Sông Lô thì ca bè, luyện tập rất công phu, khó khăn,
còn bài Đảng đã cho ta một mùa Xuân thì hát "hội đồng"
như hằng đêm thường rống sau phiên họp tổ, khỏi cần giữ bè giữ giọng,
chỉ cần thuộc bài hát to là được. Thuở đó phe ta còn "chậm
tiêu" bám víu vào "mười ngày ăn" để sống cho qua
ngày tháng, đâu dám nghĩ chuyện lâu dài chế tạo ra cây đờn để "trường
kỳ tù chiến" nên tập dợt ca hát chỉ trông nhờ vào cái miệng
và bàn tay của nhạc trưởng mà thôi. Tùy theo giọng thiết giọng chì,
vịt cồ,vịt đực, vững hay yếu nhạc lý Ngạn phân chia toán văn nghệ
gần ba chục miệng ca thành ba bè để hát bài Sông Lô, một bè chánh
và hai bè phụ, một thấp một cao. Nội cái phần mở đầu không thôi
tập dợt gần cả tuần mới xong. Bè thấp giọng mạnh trầm hát đi hát
lại hai chữ: Sông Lô... ô ô ô....Sông Lô...ô ô ô....., Bè chánh
giọng "tạp lục"thùng thiết bể hát câu : Sông Lô ô ô, sóng
ngàn kháng chiến cháy bờ lau xanh, Sông Lô. Ai qua bến nắng hồng
lặng nhìn dòng nước Sông Lô ô ô trô.ô ô ôi. Còn bè cao dành cho
những ai cứng và vững nhạc lý hát câu anh hơi sửa lời lại một chút:
"Ai qua trên sóng nước biết lặng nhìn dòng nước sông Lô trôi"
cao vút. Thoạt đầu anh cho mỗi bè ra một góc tập dợt riêng cho đến
khi thật nhuần nhuyễn mới cho nhập lại, lúc đó hồn ai nấy giữ, bè
ai nấy bám, tập trung tư tưởng ráng giữ lời mình, lơ đãng là bị
bè cao khi trầm khi bổng, khi lại ngang ngang như cua cuốn hút là
lạc giọng ngay. Khi mới bắt đầu, tất cả nín thở nhìn bàn tay Ngạn
điều khiển. Bè thấp lót đường hát phụ họa hai chữ Sông Lô Sông Lô
trước, rồi chờ Ngạn phất tay là bè chánh và bè cao cùng hát một
lượt: " Sông lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau xanh Sông
Lô", đến đây bè cao ngưng, bè chánh tiếp tục đoạn kế: "
Ai qua bến nắng hồng" nhưng vừa tới chữ hồng là bè cao phụ
họa đuổi theo giọng cao vút vượt hẳn lên câu: "Ai qua trên
sóng nước biết" rồi nhập lại với nhau ở đoạn "lâng nhìn
dòng nước Sông Lô trô ô ôi. Ba bè nhập lại mà ăn khới với nhau thì
nghe đã cỡ nào, tuy không vừa hát vừa nghe được nhưng nhìn bàn tay,
cái miệng và gương mặt nhạc trưởng là biết hết sẩy, hết ý. Chỉ mới
vô phần "entry" không thôi cũng đáng đồng tiền bát gạo
rồi... rung động, rung rinh hết mấy xơi chân lông... đừng nói vô
đoạn giữa và đoạn cuối thay đổi thật là phong phú, khi thì hát bè
du dương, khi thì đồng ca mạnh mẽ, khi thì hát đuổi sống động. Đúng
là bài trường ca, hát đã đời, hát sùi bọt mép, hát văng nước bọt,
hát bể buồng phổi, hát không biết mệt, hát vơi sầu khổ, hát quên
luôn mình đang... ở tù! Cái hay của nhạc sĩ tài hoa Văn Cao là thế,
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, lời ca không có một chút "chất
cộng" nào trong đó làm người hát có lúc muốn mơ... làm người
sông Lô luôn! Ngược hẳn với bài "Đảng đã cho ta một mùa Xuân",
hát xong là thấm thía thân phận tù dày liền. Hát lí nhí trong họng,
nhạc trưởng há mồm, tay này để lên lỗ tai ra hiệu không nghe gì
hết, tay kia ngửa ra nâng lên liên tục ra hiệu to lên, mở "volum"
tối đa lên mà nghe cũng yếu xìu, tập đi tập lại mải cũng vậy. Có
người đề nghị sửa lại câu "đảng đã cho ta một mùa Xuân đầy
hi vọng" thành: "đảng đã cho ta một mùa Xuân như thế này"
thì hát mới có hứng, có hồn, chớ không buồn ngủ quá, hát không "bốc"!
Những bài thơ, bài văn, bài hát ca tụng quê hương và dân tốc vì
văn học nghẹ thuật sống mải với thời gian trong hồn mọi người chớ
không hề nhạt phai như loại tâng bốc bác và đảng vì miếng cơm manh
áo là vậy!
Từ lúc qua đây tới giờ tôi thường sưu tầm những băng dĩa có bài
Trường ca Sông Lô trong đó để nghe xem họ hát và hòa âm thế nào
nhưng chưa thấy dĩa nào nghe đã lỗ tai cả, thường là chỉ soạn hòa
ca giản dị cho một giọng chánh, còn những giọng khác chỉ phụ đêm
tiếp sức thêm cho to to cho mạnh, chớ không phải soạn hòa âm hát
bè cho mấy chục người ca. Không hiểu tại "mèo khen mèo dài
đuôi" hay tại bên ngoài không ai... "quởn đâu làm chuyện
đó", không rộng dài ngày tháng bỏ đi như tù nên không dám chơi
sang bỏ ra trên một tháng trời không nghỉ ngày nào, nuôi ăn nuôi
ở cho mấy chục miệng ca, ngày đêm luyện tập chỉ một bài và trình
diễn một lần rồi thôi thì lấy gì mà sống, nghệ thuật mà không đẻ
ra tiền thì ai thèm làm làm gì? Nhưng dầu sao cũng nhò tài của Ngạn
mà chúng tôi nếm được mùi vị Sông Lô, mặc dù không được ngồi nghe
thưởng thức như những người khác nhưng lúc trình diễn thấy phía
dưới im lặng chăm chú là cảm thấy rồi. Lén coi những khối khác tập
dợt mới thấy bàn tay nhạc trưởng là quý. nhìn những "giọng
ca ô hợp" của những khối bạn hát theo bàn tay cứng ngắc như
chẻ củi của nhạc trưởng bất đắc dĩ mà tôi nghiệp giùm cho họ....hát
không nổi, không ra lời, buồn ngủ muốn chết! Tôi tò mò hỏi Ngạn
có xuất thân hòa âm từ quốc gia âm nhạc không sao soạn có hồn vậy
Ngạn khiêm nhường trả lời không theo học một khóa nào cả, chỉ đi
nhà Thờ hát Thánh ca học "lóm " được mà thôi. Anh cũng
chịu chơi, thấy anh em chỉ lấy hơi bằng bi thuốc lào, thiếu chanh
đường thấm giọng nên mỗi ngày cũng cữ ra hai người lén ra hàng rào
đào rễ tranh, hà thủ ô tối nấu uống bồi dưỡng cho giọng ca thêm
ngọt ngào. Thỉnh thoảng cũng hát nhạc vàng cho anh em nghe đổi không
khí. Bản ruột của anh là "Gởi người yêu dấu". Hát xong
anh tâm sự:
- Bà xã mình rất thích bản này, nhờ hát bản này mà mình "cua"
được bả. Chịu đèn rồi bả ra tối hậu thư từ rày trở đi không được
hát bài này cho con nào khác nghe cả ngoại trừ bả. Từ đó trở đi
mình mất đi cảm hứng để hát bài này vì không được hát cho mấy
con nhỏ khác nghe, Hôm nay thấy hứng trở lại, hát cho các bạn
nghe mà tưởng như hát cho bả nghe lần đầu, nói rồi anh kéo một
bi vào tận buồng phổi và thở dài... theo làn khói trắng!
Trước ngày trình diễn phải lên hát tổng họp kiểm duyệt. Ngồi phía
dưới chờ cho đến phiên mình, xem khối bạn lên trước trình diễn mà
tưởng như họ ra trước vành móng ngựa đối diện với quan tòa, không
khí nghẹt thở, im phăng phắc, con ruồi bay qua cũng nghe. Ban giám
khảo trại mặt lạnh như tiền, có tên còn đeo cập kính đen thùi như
thấy bói, ngồi nghiêm chỉnh như dự phiên xét xử. Tiếng hát vừa cất
lên là cử tọa ghi ghi chép chép y như giám khảo lái xe lúc thi lấy
bằng, mình phạm lỗi nào là ghi vào ngay. Các "hạt nhân văn
nghệ" nào biết khôn tập trung tư tưởng nhìn bàn tay nhạc trưởng
thì còn chép miệng được chớ lỡ dại liếc qua dàn tiền đạo nón cối
trước mặt " nghe nhạc như vịt nghe sấm" là dội liền, lạc
giọng ngay, cho hát bài "Bác cùng chúng cháu hành quân"thuộc
lòng như cơm bữa cũng lạng quạng. Đến phiên khối tôi lên trình diễn
Sông Lô thì dàn trên đầu cứ ngửng lên rồi cúi xuống viết lia lịa.
Đến lúc nghe phê bình thì Sông Lô bị chê nhiều nhất, tập dợt gì
cả tháng mà không đều, "xo ne", giọng cao giọng thấp,
người trước người sau không nhất trí, mất khí thế, còn nhiều điểm
yếu, nên khắc phục. Còn "hội đồng ca" Đảng đã cho ta một
mùa Xuân lại được khen đáo để, đạt yêu cần cách mạng, có chất lượng
tốt, nên phát huy. Ra về có người hỏi Ngạn:
- Hay là mình hát Sông Lô đồng ca theo lời tụi nó. Ngạn tức tối
trả lời:
- Chúng nói gì mặc kệ, để ngoài tai, tao đã tính trước rồi, Sông
lô là để cho chúng mình nghe, còn "Đảng đã cho ta một mùa Xuân"
là để cho chúng nó nghe, vẫn giữ như thường, không có gì thay đổi
cả.
Uổng nhất bài Tiếng chày trên sóc Bom Bo, có phần hoạt cảnh rất
là vui nhộn, đặc sắc, thành phần diễn viên khá hùng mạnh, có người
giả làm sơn nữ Phà Ca tóc dài buông xõa che lưng giã gạo ban đêm
vì ngày bận làm "tình", bận váy, không mặc yếm, ở trần
mà cái ngực xẹp lép như con tép, không có cặp vú mướp lòng thòng
trước ngực cho giống nên kẹt quá đành... đeo xú chen "giả"
bằng giấy như hai cái phễu, đầu nhọn hoắt...ngụy trang. Có người
hóa trang ở trần trùng trục mang khố như mọi da đỏ trong đó có anh
bạn khóa 22 NT, cầm đuốc nhẩy bebop, à go go thật sống động, sau
khi nhẩy đã đời dứt bài hát thì anh bạn khóa 22 NT giả nói tiếng
Thượng y như thật rất hay, không biết nói tiếng Thượng thật hay
giả vì có ai biết tiếng Thượng đâu mà biết, anh diễn như thật, nói
một câu thì ngưng để một hoạt náo viên khác thông dịch cho tất cả
mọi người hiểu. Lời lẽ đại khái chúc toàn thể ban chỉ huy trại,
quản giáo và vệ binh một năm mới vạn sự như ý và các bạn cải tạo
viên một năm mới gặp nhiều may mắn, học tập tốt, lao động tốt, sớm
trở về đoàn tụ với gia đình. Thật là một hoạt canh hoàn hảo, vui
nhôn, đầy ý nghĩa, ai cũng tin chắc như bắp là sẻ được khen thưởng
và giựt dài nhất của trại. Thế mà bị chê trách, kiểm duyệt, chỉ
cho hát chớ không cho diễn hoạt cảnh, uổng bao công lao tập dợt!
Sông Lô cũng còn may, chỉ nói khắc phục chớ không có cấm.
Đang đắm chìm trong giấc ngủ trốn Giao Thừa thì tiếng kẻng khua
vang liên hồi báo Giao Thừa sắp đến. Tất cả chui khỏi mùng, sách
cái ghế "tùy thân"nhỏ lên hội trường thưởng thức văn nghệ,
ai đã từng học tập đều quen thuộc với cái ghế này. Trong cái đêm
ba mươi tối đen như mực, mấy trăm người đổ dồn về hôi trường mà
chỉ nghe tiếng guốc chớ không nghe tiếng người. Ai nấy đều để hồn
về đón Giao Thừa ở nhà chẳng buồn nói chuyện với nhau. Người MC
điều khiển chương trình đêm đó là một nhân vật có tầm vóc, tôi nhớ
không lầm thì tên anh là Phạm văn Liễu, đẹp trai, hoạt bát, là một
cộng sự viên đác lực của Hoàng đức Nhả, đã từng là trưởng đoàn hướng
dẫn một toán Văn Công VNCH sang Paris lúc đang ký Hiệp Định để đấu
tranh Dân Vận với đám Văn Công Bắc Việt. Anh kể lại một màn trình
diễn ngoài trời thu hút được người coi và được sự khen thưởng của
kiều bào tại Pháp, được coi là thành công của đám Văn Công Bắc Việt.
Đó là hoạt cảnh Con Voi. Nó rất giản dị, mộc mạc. Trên sân khấu
chỉ cho mấy người làm con voi giả rồi diễn theo lời kể chuyện con
voi mà mình nghe lúc mới tập nói tập đi:
Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước nó đi trước
Hai chân sau nó lại đi sau
Còn cái đuôi nó đi sau rốt
Tôi xin kể nốt câu chuyện ông voi.
Thế thôi, vậy mà được người ta vỗ tay hoan hô rất nhiều. Bài con
voi này rất thường với mình, nhưng rất lạ với kiều bào hải ngoại,
vì vậy họ chú ý theo dõi xem diễn tả thế nào, đến khi biết câu chuyện
có đầu có đuôi như vậy mới bật cười và vỗ tay. Kể xong anh kết luận:
Thành công trên đời có khi chỉ là một chuyện rất bình thường mộc
mạc ngay đứa con nít cũng biết!
Trở lại đêm văn nghệ đón Giao Thừa. Dưới ánh điện lu mờ, trình
diễn trước đám khán giả "đón Xuân này nhớ Xuân xưa" còn
khó hát hơn nửa, nhìn xuống thấy mắt họ cứ để đâu đâu, mặt "trơ
gan cùng tuế nguyệt" như tượng "Tiếc Thương" ngồi
ngoài cổng Nghĩa Trang Quân Đội trên xa lộ Biên Hòa. Trình diễn
xong có khi họ còn quên vỗ tay, ban tổ chức phải vỗ tay nhắc tuồng
họ mới vổ theo, tiếng vổ to như tiếng pháo chuột... lép!.Sông Lô
của chúng tôi cũng chịu số phận như vậy. Bây giờ mới thấy là một
"trường ca" theo nghĩa đen của nó, dài ơi là dài, mong
nó mau hết mà cứ còn hoài. Nhạc trưởng chắc nhớ nhà nhớ vợ nhớ con
mặt mày buồn ngủ buồn thiu như xác không hồn. Đến bài Đảng đã cho
ta một mùa Xuân thì tôi "thừa nước đục thả câu" hát đổi
lời như anh bạn đề nghị cho nó "bốc" : "Đảng đã cho
ta một mùa Xuân như thế này" một cách tỉnh bơ, tự nhiên, làm
An đứng kế bên cũng "tỉnh dậy luôn" lấy tay thúc ngang
hông cảnh giác, nhưng mặc kệ.... có ai chú ý nghe đâu mà sợ!. Đến
màn đơn ca hát "bà chòi" chỉ có một người trình diễn,
không có micro thì hét cỡ nào ở giữa cũng không nghe nổi nói gì
phía sau. Đến lúc sắp hết bài, anh đưa tay trình diễn chỉ trỏ về
phía trước rồi xuống câu : "Mồ cha cái lũ chúng bây, đánh tao
thì đánh bảo khai thì đừng"... chưa kịp cúi đầu chào quan khách
và khán giả thì một tràng pháo tay nổi lên như sấm từ trước ra sau,
khán giả chắc chỉ canh chờ giây phú này xổ bầu tâm sự, xì xú báp,
vồ tay la hét đã đời, át cả tiếng pháo từ xa vọng lại bên ngoài.
Người trình diễn về ngồi xuống rồi mà tiếng vỗ tay cười ồ chưa dứt
làm anh Liễu "nhột" quá, vội vàng chạy lên giới thiệu
qua màn khác và đốc thúc ban mới lên trình diễn ngay để hóa giải
giây phút hiện tại, chấm dứt màn vỗ tay bốc đồng, đột xuất này.
"Bà chòi" chỉ một người ca, mộc mạc, giản dị thế thôi
mà cũng thành công vượt bực, được khen thưởng nhiệt liệt ngoài sự
tưởng tượng của ban tổ chức, không thua gì bài "Con Voi"
của anh Liễu vừa kể! Ai biết được lòng khán giả mà mò, họ thích
là vỗ chớ đâu cần gì hay! Còn người hát được người ta vỗ tay tán
thưởng thì không mừng mà còn sợ mang họa vào thân... mượn lời ca
cách mạng để chửi lại cách mạng, mặt tái mét như tào lá. Từ đấy
trở đi anh giải nghệ luôn. Năm sau không thấy xuất hiện trên sân
khấu hát "bà chòi" nữa, sợ khán giả vỗ tay... bằng năm
bằng người năm ngoái thì khốn nạn cuộc đời! Để kết thúc chương trình
văn nghệ mừng đón Giao Thừa, tất cả hội trường đồng ca bài Việt
Nam Hồ Chí Minh... như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng.... Bài
ca vừa dứt mới thấy nét "hồ hởi phấn khởi" trên mặt mọi
người... ai nấy thở phào nhẹ nhõm như thoát được nạn... hiếp dâm
lỗ tai, vội vàng đứng lên xách ghế ra về. Liên hoan "đêm ba
mươi" chào mừng Tết Nguyên Đán của cả dân tộc mà mặt mày "trong
héo ngoài tàn" như "ngày ba mươi".... tháng tư năm
ngoái vậy! Sáng mùng một mới thấm, có người nằm bất động khoanh
tay trước ngực đăm đăm nhìn... giọt nắng xuyên tôn... thũng. Có
người ngồi bó gối lơ đãng ngắm... bụi bay về đâu... trong vũng nắng
Xuân này... trầm ngâm gậm nhấm nỗi buồn tâm tư. Thấy vậy chịu không
nổi tôi bèn gân cổ hát to : Đảng đã cho ta một mùa Xuân... như thế
này!" rồi ngưng ngay để phá tan cái im lặng hiện tại. Thế mà
cũng có ép phê, tất cả những mái đầu xanh vô tội... "mà tù"
im lặng hướng về phía tôi gật gù ra vẻ... thấm ý đồng tình... một
hồi lâu mới chịu hé môi nở nụ cười đầu năm... lấy hên! Giản dị vậy
thôi, đâu cần hát chi nguyên bài mới có những nụ cười Xuân... héo
ấy! Đến trưa có đoàn múa lân trống kẻng cắt tùng beng khua động
làm không khí cả trại sống động hẳn lên. Đó là nhờ công lao của
tổ ăn Nguyễn Cư đã âm thầm tự nghĩ tự làm mà không cần hưởng bất
kỳ đắc ân nào của trại cả, thật đúng là "mình vì mọi người",
Ngay phần hồ keo, màu sắt để dán và trang trí đầu lân ông địa cũng
đều tự biến tự chế ra cả! Nhóm của Cư ở nhờ nhờ địa thế ngoài hiên
thoáng mát, ngay đầu dãy, cạnh hội trường, ngã ba quốc tế, lại giao
thiệp rộng rãi cởi mở, xả láng, ai thiếu thuốc tìm đến là có ngay,
ai rảnh rỗi không biết gì làm đến tán dóc, uống nước rể tranh, hà
thủ ô ra về thoải mái, quần hùng tới lui tấp nập như một hội quán.
Cư khéo miệng, Trung khéo tay, tổ ăn của Cư như cái "rốn"
của trại. Trăm sự cũng nhờ khối óc và bàn tay của Trung cả. Chỉ
cần mốt cái giỏ cần xế đựng rau cải bỏ đi bên rào lượm về lúc lãnh
thực phẩm và đống giấy rác gói quà thu nhặt trong tổ mà đầu lân
ông địa chào đời. Lân miệng rộng, lưỡi dài, mũi to, mắt lồi, sừng
nhọn, tai vểnh, màu sắc sặc sỡ đẹp đẽ không thua gì lân ngoài đời,
địa cười tươi, phúc hậu, thật xứng đôi vừa lứa với nhau. Dã vậy
lại to và nặng chỉ những tay võ nghệ thể thao to lớn khỏe mạnh mới
múa nổi mà thôi, Trung không làm thì thôi, đã làm thì làm hết mình,
tuyệt chiêu mới được, trước hết phải ngồi vẻ lại, moi trong ký ức
những đường nét đặc thù của Lân và Địa chỉ có trong tưởng tượng
để vẻ Lân ra Lân, Địa ra Địa đâu ra đó, chớ không phải Việt Cộng
thành Quốc Gia như tên Chánh Trị Viên xài xể chê trách, rồi mới
bắt tay vào việc. Khi đầu Lân và ông Địa thành hình rồi còn phải
trang trí tô điểm sơn phết cho giống cho đẹp nửa, Tội nghiệp cho
Địa và Lân, chì sài toàn đồ bỏ, đồ lượm từ ngoài vào trong. Ngay
cả màu sắc xanh đỏ tím vàng, đồ trang điểm cho Lân Địa cũng toàn
chơi đồ dỏm: xanh thì rút mực viết bis xanh trét lên, đỏ thì thuốc
đỏ xức ghẻ, tím xài thuốc tím rửa rau, vàng lấy thuốc ký nin trị
sốt rét rừng hòa nước, đen lấy nhọ nồi bôi vào, lông mày râu mép
thì hái trái bông gòn trên cây, râu cầm tua tủa thì chỉ bao cát
phòng thủ, đuôi dài thì tấm trải nằm. Khắc phục vậy đó chớ Lân Địa
cải tạo "lên đồ" rồi thì hơn xa những Lân Địa ngoài đời
bầy bán dạo trên xe ba bánh chạy khắp đường phố những ngày cuối
năm... cho trẻ em chơi!
Sau đó còn phải "cưa" cái thùng phuy cho ngắn bớt làm
trống cột vào hai cái cáng dài để khiêng đi cho dễ. Mới bắt đầu
xuất hành chỉ lèo tèo chưa đầy mười người do Trung múa dẫn đầu,
nhưng chỉ đi một lát là có nhiều người khác nhẩy vào múa thế cho
Lân đỡ mệt trong đó có một tay nhà nghề xưa kia chuyên môn theo
xe Lân múa kiếm ăn ba ngày Tết ở Chợ Lớn. Múa vài đường xong anh
nhường lại cho người khác và đảm nhận việc đánh trống. Khi anh nhúng
tay hợp tác đánh trống, đôn đốc đám chầu rìa theo coi về lấy thêm
nồi niêu xoong chảo ra gõ cho xôm tụ là đoàn Lân khởi sắc ngay,
từ nghiệp dư sang nhà nghề, đi múa xa kiếm ăn chớ không quanh quẩn
ở tổ nhà khối nhà nửa. Đi tới đâu chiêu mộ tới đấy, dàn múa khá
hùng hậu càng lúc càng đông. Tôi cũng kiếm hai cái nắp nồi đi theo
nhịp xèng xèng cho đỡ buồn. Qua sân cờ đại đội, nay trở thành sân
chơi bóng chuyền thấy ông già tóc bạc áo thung quần xà lỏn, guốc
mới... đóng... vì cây đinh, cục sắt làm búa kế bên đang ngồi gục
đầu dưới cột cờ. Thấy chướng mắt, Địa chạy tới vỗ bụng chọc cười,
Lân theo sau ra múa trước mặt, Tiếng cắt tùng xeng inh ỏi, ông già
cảm động quá bảo chờ rồi chay vào trong. Lân vẩn tiếp tục múa trước
cột cờ, ngước nhìn lên thấy thiếu bóng cờ vàng phất phới trên đó.
Tiếng trống dồn dập tùng tùng tùng....nhỏ dần...tiếng kẻng nhanh
tay xèng xèng xèng.... nhỏ theo.... Lân cũng biết khôn phủ phục
gục đầu chạy thục lùi cúi lậy... tạ tôi..., đất nước... không giữ
được cò vàng phất phới trên cao. Địa hiểu ý cũng cúi đầu... quạt
đất!! Một lát sau ông già chạy ra "lì xì" cho Lân nguyên
bánh thuốc lào và bao mì gói, đưa tay đút vào miệng Lân, Lân gục
đầu múa lạy cám ơn. Từ giã ông già tóc bạc gục đầu dưới cột cờ thiếu
bóng quốc kỳ kính yêu, đoàn Lân tiếp tục lên đường, trước mua vui
sau kiếm "lì xì" từ tổ này qua tổ kia, hết khối này qua
khối khác Của ít lòng nhiều, tổ trưởng nào cũng ráng quyên góp anh
em trong tổ mỗi người một chút tùy hỉ bỏ vào một bịch to bằng....nắm
tay rồi lấy sợi dây cột chung với cây cải cho Lân múa lấy... lấy
hên. Phẩm vật thì đủ thứ trên đời: đậu xanh, đậu đỏ, đậu phộng,
bí đỏ, bí xanh, rau cải, thuốc lào, thuốc rê, trà gói, bánh kẹo,
đường thẻ, cá khô và tiền nửa... sộp nhất là một cái lạp xưởng....
treo thật cao, phải mấy người công kênh nhau mới lấy được. Cứ thế,
đến khi hết giải treo mới chịu mò về. Góp gió thành bảo, phẩm vật
nhận được khiêng về mệt nghỉ. Lành cho sạch, rách cho thơm, Lân
Địa rất phong cách, không biết "nâng bi", thấy nón cối
dép râu là tránh xa liền. Mệt lả rã rời nhưng vui hơn đêm văn nghệ
mừng đón Giao Thừa nhiều. Vui nhất là lúc mở quà lì xì. Rồi sau
đó mở tiệc chiêu đãi, phẩm vật đầy bàn, bên cạnh phần cơm "chế
độ" còn thêm món mì gói rau cải phẩm vật múa Lân, ai hên lắm
mới gắp được miếng lạp xưởng...trần đời. Sau đó còn ăn tráng miệng,
nước trà bánh kẹo và chè "thập cẩm" bí đỏ và đủ thứ đậu
trên dời. Bữa tiệc linh đình, trên năm chục người vừa đứng vừa ngồi
ăn uống nói chuyện vui vẻ. Nửa năm trời mới có một bữa no, mừng
tưởng như mình đang được ăn.... Tết vậy! Thật đứng là... "đảng
đã cho ta một mùa Xuân"... như thế này!!!
Thay mặt Lân và Địa cải tạo kính chúc các bạn và gia quyến một
năm mới tràn đầy hạnh phúc... Vạn Sự Như Ý.
Hoàng Quốc Việt
|