. để tưởng nhớ anh Huỳnh Ngọc Tài
và chuyện tình sầu đẹp tuyệt vời
Giấc ngủ anh dài tưởng thiên thu
Sóng xô vỡ xóa, đêm mịt mù
Đường về tổ ấm anh lạc bước
Chẳng gọi trăng thề đổ bến mơ...
Kim Thành
1966
Gã trưởng toán du kích quăng mẩu tàn thuốc rê xuống nền cát khô
xám, bồn chồn nhìn về phía bìa rừng dương thoắt sáng màu xanh của
biển nối trời. Cuối liếp hàng dương ngả nghiêng gãy ngọn, xác chiếc
máy bay quân sự nằm phơi mình bốc khói. Đám du kích hăm hở kéo gở
từng thùng hàng từ lòng phi cơ rồi cong lưng khuân chạy hối hả về
phía đường mòn. Nhóm phi hành đoàn ba người bị xâu trói chung với
một người đàn ông luống tuổi mặc thường phục, mặt sưng húp những
vết bầm tím. Họ ngồi bên lối mòn, buồn bã lo lắng nhìn về phía xác
chiếc phi cơ. Trước đầu máy lẻ loi chiếc cánh quạt nghiêng vênh
trong nắng chiều. Người trưởng toán phất tay ra hiệu cho gã du kích
mặt non choẹt đang giương súng canh chừng nhóm tù binh rồi khum
tay nói gióng về phía đám du kích đang ì ạch mang vác.
- Mấy nẫu đi lẹ lên. Tụi Ngụy Sư Đoàn 2 sắp sửa càn tới rồi đó.
Nhóm tù binh uể oải đứng lên theo mũi súng của thằng bé du kích.
Người sĩ quan Không Quân mang lon Chuẩn Úy quay nhìn khoảng biển
trời xanh ngát sau lưng. Anh thở dài chậm bước cùng đoàn người đi
sâu vào cánh rừng dương.
Buổi chiều xuống nhanh trong rừng, thâm u lối mòn, thất lạc bước
chân. Nóc hàng dương sâu thẳm bóng đêm dài trước mặt, thỉnh thoảng
hé phô khoảng trời đêm cuối năm mơ hồ bầy sao xa nhạt. Đoàn người
đến một xóm nhỏ nằm im lìm dưới cánh rừng dừa. Tiếng chó sủa khan
lẫn trong tiếng súng cầm canh vu vơ réo qua màn đêm tĩnh mịch và
nét mặt lấm lét của tên giao liên lúc thì thào với gã trưởng toán
du kích ở bìa xóm khiến nhóm tù binh chợt nhìn nhau, lòng lóe lên
chút hi vọng mơ hồ. Có lẽ đây là vùng xôi đậu trên tuyến đường vào
bưng mà toán du kích buộc phải dừng chân qua đêm. Niềm hi vọng chưa
kịp nhen nhúm đã lụn tắt lúc gã trưởng toán du kích thấp giọng chia
cắt nhóm tù binh, mỗi người theo một du kích vào nghĩ ở các nhà
khác nhau trong xóm.
Người sĩ quan phi cơ trưởng, cấp bậc Trung Úy, phân bua với tên
trưởng toán du kích rằng ông già mặc thường phục là cha mình để
xin được đi chung mà săn sóc vết thương cho ông. Hắn xua tay tỏ
ý bằng lòng mà miệng thì cằn nhằn, đe dọa:
- Ngụy quyền thì có chớ cha mẹ gì. Nẫu mà nói láo với Cách Mạng
là tui bắn bỏ liền.
Người phi cơ trưởng bắt tay viên Thiếu Úy Hoa Tiêu.
- Tôi không biết nói gì hơn với hai anh và cũng cho chính mình
là hãy cố gắng giữ hi vọng.
Anh quay qua siết chặt tay người Chuẩn Úy trẻ tuổi, cười buồn:
- Nếu anh không xin nhường công tác lúc sáng ngay, thì bây giờ
đang vui Lễ Nửa Đêm với gia đình ở Đà Nẳng rồi. Thôi thì số phận
cả, anh Tài gắng giữ vững niềm tin.
Họ siết chặt tay, chào nhau từ giã, mà lòng thì man mác buồn. Chuẩn
Úy Tài đứng ngây người nhìn bạn đồng ngũ đi khuất vào bóng đêm cho
đến khi tên du kích dùng mũi súng đẩy anh đi về phía cuối xóm.
Người Chuẩn Úy Không Quân ngồi im lặng bên chiếc bàn nhỏ góc nhà.
Anh nhìn đôi tay bị trói như nhìn một điều không thực. Phải chăng
đây chỉ là một giấc mơ hay số phận đã thật vụt xô anh từ trên đường
bay về với hạnh phúc xuống cánh rừng nguy nan này. Người bạn tốt
bụng đã nhường anh chuyến công tác chở quà về cho gia đình binh
sĩ của Phi Đoàn ở Sài Gòn để anh có dịp cùng hưởng Giáng Sinh với
người vợ chưa cưới xinh đẹp dịu dàng.
Phi đạo vàng nắng nằm yên dài cho con tàu vút cánh bay lên. Tiếng
cười nói chia nhau dự ước về một Mùa Vui Giáo Đường hòa trong tiếng
máy ròn rã bình phi. Chiếc cánh quạt phi cơ dừng sựng như con tim
chợt ngừng đập. Khói đen sặc sụa trong lòng con tàu đang lướt chúi
vào khoảng không gian mất dần cao độ trước đôi mắt bất lực của người
phi công. Ngọn rừng dương trào lên rùng rùng chao đổ trong âm thanh
hỗn loạn vỡ vụn. Bầy du kích dao súng ồn ào như bầy sói tìm được
mồi ngon. Con sóng biển xanh trào vỡ, dội vào cuối tia ngoái nhìn.
Đôi cánh tay bị trói chặt. Lối mòn trong cánh rừng dài xuyên đêm,
chập choạng bước chân. Ánh đèn dầu hiu hắt trong mái tranh nghèo
đâu đó dưới cánh rừng dừa rập rình tiếng chó sủa khan. Bóng hai
người đàn bà ngồi bên bếp lửa lắt lay lên vách phên thưa... Có thể
nào đây lại là chuyến bay của định mệnh trớ trêu... Tài chợt cảm
thấy mệt rã rời. Anh nhắm mắt, gục đầu xuống đôi tay bị trói chặt...
Người tù binh giật mình ngồi dậy, trở về với thực tế, lúc người
đàn bà luống tuổi đặt nồi khoai vừa nấu lên mặt bàn. Bà quay nhìn
gã du kích đang ôm súng tựa cằm, ngồi dựa vào liếp cửa khép, ngủ
gà ngủ gật.
- Chú mày mở trói cho người ta rồi lấy khoai ra ngoài cái chỏng
trước hiên vừa ăn vừa gác.
Nhìn gã du kích ngái ngủ chần chừ chưa chịu mở trói, người đàn
bà trẻ, mang thai vào những tháng cuối, tươi cười hòa giải.
- Nẫu ra ngoài hiên là để ngủ chớ canh gác gì. Thôi thì nẫu cởi
trói tay ra nhưng trói chân lại để người ta ăn miếng khoai.
Từ suốt chiều đến khuya nhịn đói lại phải đi bộ cả chục cây số,
người tù binh ngồi ăn ngon lành mấy củ khoai nóng mới luộc. Người
đàn bà luống tuổi ngồi trên chiếc ghế đối diện, hỏi thăm người thanh
niên về tuổi tác, quê quán. Bà quay nhìn con dâu đang ngồi tư lự
bên bếp lửa, chép miệng.
- Năm trước còn học Đệ Nhất ở Phan Châu Trinh, Đà Nẳng... vậy
là bằng tuổi với vợ chồng con rồi. Cái thời buổi gì đâu! Cha con,
anh em, bạn bè quay đánh nhau loạn xà bần. Thiệt hết biết...
Người tù binh dò hỏi địa danh khu xóm và số phận ngày mai của mình
với hi vọng người đàn bà có thể biết được đôi điều. Bà nhìn ra hiên
ngoài, thấp giọng.
- Làng này thuộc Sa Huỳnh, phía biển. Ngày mai họ sẽ dẫn chú
băng quốc lộ vào mật khu đâu đó trong miệt Thạch Trụ để giam giữ
cho an toàn hơn. Đây là vùng xôi đậu, biết đâu mà lường trước
được.
Người đàn bà có thai đặt bình nước và mấy cái ly lên bàn.
- Vợ chồng tôi trước học cùng lớp ở Trần Quốc Tuấn. Tôi là cô
giáo. Mấy tháng trước đây chồng tôi bị bắt giam ở Quảng Ngãi vì
tội trốn lính và hoạt động chống chính phủ Sài Gòn.
Xé đưa cho người tù binh trang giấy học trò cùng cây viết lá tre,
bao thư, và hủ mực màu tím, chị vội vàng nói nhỏ vào tai anh.
- Anh viết vài hàng nhắn tin về gia đình. Cuối tuần này tôi đi
Quảng Ngãi thăm chồng sẽ gởi về Đà Nẳng giúp anh.
Người tù binh xúc động nói lời cảm ơn. Anh vội vã ghì viết lên
trang giấy lời nhắn tin cho gia đình ở Đà Nẳng và lời thương yêu
tha thiết đến người vợ chưa cưới ở Sài Gòn.
Hai mẹ con người đàn bà ngồi chắn ở liếp cửa ra vào, bóng họ đổ
dài bất động trên nền đất hiên nhà.
Những ngày đầu năm sáu lăm, sau lần vào Sài Gòn và hỏng đợt khám
sức khỏe vào Không Quân phải trở về học lại cho kỳ thi Tú Tài II,
Tài có vẻ suy tư và ít nói hơn trước. Hai bạn thân trong bộ ba Xuyên
Tài Lượng có gạn hỏi anh cũng chỉ ậm ừ cho qua. Ngay cả Thu Hà,
chị của Xuyên, bạn thân trong khu xóm Chợ Mới từ thuở thiếu thời,
cũng cảm thấy sự im lặng khác thường của người bạn nhỏ vẫn đèo nàng
đi học ở Phan Châu Trinh mỗi ngày. Lúc đầu các bạn nghĩ Tài buồn
vì không được vào Không Quân, cho đến một hôm họ vô tình đọc được
đoạn thơ Nguyên Sa mà Tài đã nắn nót chép lại.
Em sẽ cười phải không em
Vì không ai cấm được chúng mình yêu nhau!...
Không ai cấm được anh làm những câu thơ anh thích
Không ai cấm được anh làm cả bài thơ
Với một chữ N
Với một chữ G
Và với một chữ A ..
(Nga - Nguyên Sa)
Thì ra Tài đã phải lòng cô nữ sinh Sài Gòn tên Nga trong thời gian
ở chờ khám sức khỏe vào Không Quân. Lượng có bà con với gia đình
Nga nên đã giới thiệu Tài ở tạm trong nhà suốt thời gian lưu lại
Sài Gòn. Cô học-trò-Nguyên-Sa tóc ngắn, áo lụa, và đôi mắt sáng
tinh anh, bỡ ngỡ nụ cười dịu ngọt, đã làm mát những ngày nắng và
dịu lòng gã con trai xứ Quảng đa tình chợt biết mình vừa yêu vô
cùng một màu áo lụa nguyên sơ. Từng tờ thư vụng về gởi đi, xao xuyến
nỗi đợi chờ dài suốt một mùa xuân. Vết thời gian trĩu nặng chợt
bay biến cùng lúc với bao trách cứ âm thầm vào một ngày trước mùa
thi, Tài cầm trên tay tờ thư hồi âm với dòng chữ trao thương anh
vẫn thầm mơ trong mộng. Chỉ một tờ thư đã đủ làm vui những cơn buồn
và đổ mật lòng nhau cho mịn màng thương nhớ.
Năm đó Tài thi rớt, anh vào Thủ Đức. Con đường tình gần hơn, còn
cần chi những tờ thư. Mỗi cuối tuần Nga vào quân trường thăm người
yêu thì tưởng như cả trại lính ai cũng xôn xao bởi nét đẹp dịu dàng
và mái tóc giờ đây thon thả hẹn thề. Có một tuần bị cấm trại, Tài
định "nhảy dù" về Sài Gòn với người yêu. Anh len theo
một đoàn SVSQ đi về phía cổng quân trường. Đoàn SVSQ này không đi
nghĩ phép như anh nghĩ mà là đi khám sức khỏe để chọn qua Không
Quân. Lần khám sức khỏe bất đắc dĩ và mang đầy dấu ấn của định mệnh
đó đã đưa đẩy Tài trở thành "ông quan" Chuẩn Úy Không
Quân của Phi Đoàn 110 ở Đà Nẳng. Không lâu sau, Tài và Nga đính
hôn. Cô gái sinh trưởng ở Sài Gòn nhưng Nội Ngoại đều gốc gác ở
Kim Bồng, Hội An, náo nức đợi chờ lần về với quê chồng mà cũng là
về lại nguồn cội của mình. Tài thì không hề bỏ qua bất cứ cơ hội
nào để theo máy bay Phi Đoàn bay về Sài Gòn thăm hôn thê cho dù
chỉ một đêm hay vài giờ ngắn ngủi. Cơ hội cuối cùng đầy trớ trêu
khắc nghiệt của định mệnh đã đến với chàng, với đôi tình nhân đang
tắm mát trên đầu ngọn suối trăm năm.
Người đàn bà giật mình mở choàng mắt, hốt hoảng biết mình vừa qua
cơn ngủ thiếp. Qua liếp cửa mở hé, gã du kích đang ngồi dựa lưng
vào cột hiên đầu nhà, mê mệt ngủ say. Trời đã quá nửa khuya, bóng
trăng tàn mờ rọi tàu dừa rủ lá thành những vệt dài đen nhọn trên
khoảng sân cát nhuộm chìm trong màu hoang xám điêu tàn.
Dưới quầng sáng yếu ớt lắt lay từ chiếc đèn dầu bấc lụn, người
tù binh ngồi bất động, mắt nhìn sững tấm hình người vợ chưa cưới.
Sau cơn ho rũ rượi, bà mẹ bước về phía chiếc bàn, im lặng đứng nhìn
người lính một hồi lâu rồi lấy bức thư nhắn tin cẩn thận dấu vào
túi áo trong. Đôi bàn tay gian truân của bà mẹ vịn hờ lên vai người
lính. Bà nhớ đến con mình trong ngục thất. Giọt nước mắt của người
mẹ lóng lánh trong đêm.
Em đứng nơi đây ngóng đợi gì
Tìm anh ? Anh đó mãi tìm chi
Hồn ta một phiến ngàn dâu bể
Đổ xuống đời nhau vạn kiếp sau
Kim Thành
1986
Chiếc phi cơ hãng Hàng Không Pháp ngóc đầu lấy cao độ bay nhanh
vào khoang trời xanh lãng đãng từng cụm mây trắng nõn nà. Bên dưới,
sông Sài Gòn loáng nắng nằm cuộn mình xa đuối từ cuối tầm mắt nhìn.
Dòng sông quanh co lượn lờ giữa vùng châu thổ mang mang trời nước,
mướt rượt cây xanh lối rẽ Nhà Bè, phân vân con nước Gia-Định Đồng-Nai
chẳng biết về đâu. Người thiếu phụ chừng vừa bốn mươi, có đôi mắt
sáng dịu hiền, đăm chiêu nhìn thành phố quê hương xa dần rồi khuất
chìm dưới trần mây trắng. Lòng người đàn bà chợt hụt hẫng nỗi đau
bị rớt rụng như cánh diều đứt dây chao lượn trong gió chướng. Cảm
giác lạ lẫm phụ rẫy và đang trốn chạy khiến người đàn bà chợt đưa
tay lau nhanh giọt lệ vừa ứa. Bà muốn tránh người bạn đời thấy được
dòng nước mắt của riêng mình.
Người đàn ông vào tuổi năm mươi, ngồi đăm chiêu nhìn xuống dòng
sông đã không còn nhìn thấy. Lòng ông nhen nhúm nỗi hi vọng mơ hồ
về một dòng sông mới của hai người, nơi không còn những u hoài rất
cũ mà ông đã sẻ gánh chia sầu từ rất lâu với cô gái thùy mị ngày
xưa ông vẫn mãi yêu thương.
Họ kết hôn chỉ chừng hơn năm nay. Suốt thời gian trước đó, hai
mươi năm dài, ông chỉ là người đứng bên lề, yêu thương trong im
lặng. Như gã viên bộc cần mẫn trung thành trong khu vườn cấm, ông
giữ mối buồn riêng, thành khẩn đóng vai người thân thích mang an
ủi vỗ về đến cho người đàn bà tiết hạnh, thủy chung.
Rất lâu, họ ngồi im lặng bên nhau. Người đàn ông khẻ vuốt lên mái
tóc thuôn dài của vợ, ngón tay dừng lại bên bờ vai thon, mơn động
vỗ về. Đôi vai nàng chợt run lên cơn thổn thức. Ông xúc động nhìn
đôi mắt lệ trào lần đầu tiên đã chẳng ngần ngại, chẳng quay mặt
khóc thầm.
Có những dòng lệ cần được tuôn tràn cho tủi nhớ phôi pha, cho ước
hẹn cũ một lần cuối trở về rồi vĩnh biệt như hạt muối rã tan theo
nước cuối dòng sông hòa mình với biển. Đừng lau khô, hãy để dòng
nước mắt thương thân cuốn trôi đi cuộc đời xa cũ từ một thuở đôi
mươi. Hãy theo dòng trôi cho hết những đa đoan, để bên bờ sông cũ
còn lại đôi ta nghênh đón dòng nước mới đắp đổi lòng nhau. Còn lại
hai con người sống sót sau cuộc tình quá lớn, nhắn nhủ thương nhau
bằng mối tình có tuổi.
Hai mươi Mùa Giáng Sinh trôi qua kể từ chuyến bay định mệnh của
người chồng chưa cưới. Từ đó, mỗi mùa vui giáo đường đến với nhân
gian là thêm một mùa tình sầu cho riêng nàng hái trái. Nga vẫn nhớ
như in ngày đầu oan nghiệt và bao năm tháng theo sau cho cây sầu
trổ nhánh héo hon.
Tuần trước Giáng Sinh, Tài nhắn sẽ tìm mọi cách bay vào Sài Gòn
với nàng trong đêm vui giáo đường đầu tiên sau ngày đính ước. Bản
tính trầm lặng, thế mà suốt ngày hôm trước lễ, nàng không thể trấn
tĩnh được nỗi vui kích động trong lòng. Người trưởng phòng ở Bộ
Kinh Tế nơi Nga làm việc, ý nhị nói đùa lúc cho phép nàng về nhà
sớm hơn thường ngày.
- Nay thì tôi hiểu vì sao cô Nga đính hôn với người ở xa rồi.
Nhìn cô vui, lòng tôi cũng rộn theo.
Sau ngày Nga đính ước, tuy biết tình cảm của mình đã lỡ làng, người
thanh niên trí thức và có gia thế ấy vẫn cư xử thân mật và rộng
lượng với nàng như một người thân trong gia đình. Nga cũng hiểu
tình ý của anh Thu, nhưng tình yêu thắm thiết đầu đời con gái nàng
đã trao trọn cho người sĩ quan Không Quân trẻ tuổi.
Nỗi quay quắt đợi chờ như sóng lòng dâng theo thời gian chậm chạp
trôi từ chiều vào tối. Tiếng chuông giáo đường ngân nga thúc giục
mà Nga vẫn quẩn quanh chờ bóng dáng quen thuộc của người chồng chưa
cưới. Lo lắng trách hờn len lấn với đợi chờ khiến thời gian như
ngừng trôi.
Lễ Nửa Đêm đã qua từ lâu mà nàng vẫn ngồi một mình trong bóng tối
dưới mái hiên nhà. Cây trứng cá trước sân rũ lá ngủ say dưới ánh
đèn phố khuya vắng lặng. Đã bao lần họ ngồi bên nhau dưới hiên nhà,
cầm tay nhau không nói vì đôi tim đang bận bịu nhịp yêu đầu. Dưới
tàng cây, khoảng bóng lá rụng lổ đổ sân nhà, là nơi đôi môi nàng
đón nhận hương mật ngọt đầu đời thơm ngát nụ tình. Trong bóng đêm
huyền diệu, mắt anh hiền và sâu vô cùng, thật thà như hơi thở run
run lời đính ước. Tình yêu tháp cánh diệu kỳ sáng màu trăng rỡ ràng
và nàng đón lấy cùng người, chấp chới đôi chim liền cánh, bay qua
vùng trời thanh xuân...
Nga phụng phịu suốt tuần vì chiếc ghế "độc quyền" dưới
hiên nhà đã bị anh chàng bạn "vô duyên" của người anh
họ xa chiếm cứ. Anh chàng từ ngoài Trung vào tạm lưu lại nhà trong
mấy ngày chờ khám sức khỏe vào Không Quân. Thằng Mỹ, đứa em tọc
mạch của nàng, báo cáo sơ khởi.
- Anh Tài học ngang lớp với chị đó.
- Kệ người ta.
- Anh Tài hát hay lắm.
- Kệ người ta.
- Anh Tài muốn mượn cây đàn.
- Không cho!
- Nhưng chị đã cho tui cây đàn đứt dây đó rồi. Tốn hết mấy chục
thay bộ dây, chớ đâu có giỡn chơi... Ờ, mà chị Nga, anh Tài có
bà con với mình không?
- Không. Chả là bạn với anh Khương, bà con của ba má ở ngoài quê
Quảng Nam.
- Ủa, vậy thì ngộ quá há !? Ảnh tên là Huỳnh Ngọc Tài, còn tên
chị là Huỳnh Ngọc Nga...Ngộ quá há!!!
- Kệ người ta... Hứ! ...Cái thằng quỷ dịch này! ...
Nga rượt em ra khỏi phòng mình trong tiếng cười vang của Mỹ.
Cái tên trùng hợp của anh chàng học trò Đà Nẳng có đôi mắt hiền
hiền làm Nga mãi suy nghĩ vẩn vơ. Buổi tối, nàng ngồi ra vẽ chăm
chú học bài nhưng tai vẫn lắng nghe Tài đang chỉ cho Mỹ bài học
đàn ghi-ta đầu tiên. Giọng nói chơn chất lạ tai, nàng thỉnh thoảng
nghe lúc cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, giờ sao nghe cũng ...dễ
thương. Nga đứng nép mình sau cánh cửa, lén nhìn anh học trò ngoài
Quảng sửa tay cho Mỹ đang lúng túng khảy từng nốt nhạc ...Tôi xa
đô thành. Một đêm trăng mông mênh... Đêm đã khuya. Tiếng đàn vụng
về đã theo thằng Mỹ chìm trong giấc ngủ mê của đứa bé mười ba tuổi.
Tiếng đàn bây giờ trầm bổng buông theo tiếng hát bài tình ca nồng
ấm lòng người...
Ngày đó có em đi nhẹ vào đời
Và đem theo trăng sao đến với lời thơ nuối
Ngày đó có anh mang lại mộng ngời
Tìm trong đêm rách rưới cơn mơ nào lẻ loi...
(Ngày đó chúng mình - Phạm Duy)
Ngày Tài về lại Đà Nẳng, Nga ngồi lại chiếc ghế của mình dưới hiên
nhà, bâng khuâng mở từng trang thơ Nguyên Sa, lòng vương vấn. Tài
đã lén để lại quyển thơ trên bàn học nàng, mẫu giấy trắng chia hờ
tập thơ làm dấu bài thơ "Nga" đã ươm má nàng hồng lên
thẹn thùng lúc đọc.
Nói cho anh đi, Nga ơi...
(em làm ơn chóng chóng)
Lại bên anh đi - bằng một lối rõ thật gần
Bằng một lối gần hơn con đường cong
Bằng một lối gần hơn con đường thẳng
Bằng má hồng non, bằng mắt nhìn trinh trắng
Bằng những lời yêu mến tan trên đôi môi...
(Nga - Nguyên Sa)
Nga khắc khoải chờ đợi một điều không rõ. Chỉ biết lòng cô nữ sinh
Gia Long buồn vu vơ chiều tan trường đi về dưới hàng me lá đổ hay
đêm thức khuya nhìn con phố vắng trước nhà, nhạt nhòa dưới ánh đèn
đường đôi tình nhân chung bước dưới mưa.
Ngày nhận thư bức thư đầu tiên của chàng học trò xứ Quảng, nỗi
nhớ về nàng từ một nơi xa đã làm Nga vấn vương xúc động và run sợ
cùng lúc. Nàng mong thư Tài mỗi tuần mà lòng thì vẫn mãi phân vân
khi đặt bút viết hồi âm. Cho đến một buổi chiều cuối tuần, trời
mưa, bất chợt nghe Ngày Đó Chúng Mình trong một chương trình nhạc
yêu cầu, nàng chợt nhớ nghĩ đến người phương xa quay quắt. Nga xúc
động trải lòng mình lên trang giấy, gởi lời trao thương về người
đang từng ngày trông ngóng.
Tình yêu của họ ngày càng nồng thắm qua từng tờ thư chắp tình nhau,
qua bao lần tay-trong-tay lòng-bên-lòng ngây ngất hẹn hò, qua cuộc
đính hôn nối đời nhau thách thức định mệnh khôn lường...
Bức điện tín từ Phi Đoàn đã trả lời sự lo lắng của người vợ chưa
cưới một cách tàn nhẫn như định mệnh khốc liệt đang trùm phủ hai
người. Máy bay ngộ nạn. Phi hành đoàn mất tích. Cô gái mảnh mai
khụy xuống theo lệ trào. Cả trời đất như sụp đổ quanh nàng. Vài
tuần sau, bức thư Tài viết bằng mực tím trên nửa trang giấy học
trò, đóng dấu bưu điện Quảng Ngãi, như chiếc phao con đã đem lại
chút hi vọng cho người đắm tàu giữa đại dương. Nga sống với lòng
vọng tưởng Tài đang bị cầm giữ đâu đó miệt núi rừng Quảng Ngãi và
một ngày trong tương lai chàng sẽ trở về với nàng cùng sống cho
hết trăm năm.
Chuyến trở về quê chồng, quê cha, không áo dài khăn cưới như nàng
vẫn ước mơ. Nàng về thăm gia đình chồng vẫn đang chạy vạy tìm kiếm
tung tích con trong cấp bách cuống cuồng. Nhìn gối chăn ngay ngắn
trên chiếc giường của người chồng chưa cưới và tấm hình hai đứa
rạng rỡ tươi cười ngày đính hôn, nước mắt nàng lại trào ra. Trên
đường từ Đà Nẳng về lại Sài Gòn, Nga ghé vùng duyên hải Sa Huỳnh,
tìm đến bãi dương, nơi chiếc máy bay bị ngộ nạn. Nhìn cánh rừng
dương xa xanh ngút mắt rũ đầu phiền muộn trong gió chiều, nàng mường
tượng người yêu đang bị tù đày ở một nơi nào đó chỉ cách chỗ nàng
đang đứng vài mươi cây số mà sao như ở một thế giới khác mù tăm.
Xa tít bên ngoài độn cát trắng chạy dài, biển và trời vẫn ngát một
màu xanh vĩnh cửu. Từng con sóng bạc đầu xô nhau vào bờ rồi bọt
bèo mất biệt. Biết về đâu hỡi con sóng chìm sâu. Lòng nàng thổn
thức theo từng bước chân thất lạc trên cát rã rời.
Tháng đổ vào năm, mòn mỏi từng mùa mưa nắng. Một năm. Ba năm...
Người yêu vẫn biệt tăm, không một dấu vết, tin tức. Nga sống trong
khép kín đợi chờ. Có lẽ hàng năm khi mùa Giáng Sinh về, kỷ niệm
tình yêu cũng theo về, son điểm lại ước nguyền trong tâm hồn nàng.
Năm bảy ba trôi qua cuốn theo hi vọng mới về những lần trao đổi
tù binh. Rồi năm bảy lăm choàng đến mang theo vận nước điêu linh.
Cuộc biển dâu cuốn xoáy tất cả, chẳng chừa một ai, kể cả niềm hi
vọng ích kỷ cuối cùng của người đàn bà chờ người yêu từ gần mười
năm qua. Cho dù tàn tạ lầm than, cuối cùng rồi người yêu của nàng
cũng sẽ trở về từ một xó rừng góc núi nào đó. Và nàng đã thất vọng
đớn đau...
Bị mất việc làm, Nga rời gia đình, mở tiệm may nhỏ sống qua ngày
ở một vùng ngoại ô Sài Gòn. Năm tháng thấm thoát trôi qua trong
tần tảo cơ hàn, chồng chất thêm gần hai mươi tuổi đời lên vai cô
gái đôi mươi mảnh mai thuở nào. Anh Thu, người trưởng phòng của
thời làm việc trước bảy lăm, từ bao năm qua vẫn là người bạn tốt
của nàng. Anh thủy chung với mối tình thầm lặng của mình như Nga
vẫn âm thầm đợi chờ một ngày trở về không bao giờ đến của Tài. Thượng
đế đã không nỡ để những con người chung thủy trong tình yêu phải
mãi sống xa nhau...
*
* *
Người đàn bà tìm siết tay chồng trên vai mình, mỉm cười nhìn người
đàn ông, đôi mắt nàng còn vướng lệ.
- Không biết mình có thu xếp kịp để đến Paris vào dịp Giáng Sinh
? Em muốn được đứng nhìn tháp Eiffel vào dịp Lễ Nửa Đêm.
Người đàn ông gật đầu, miệng nở nụ cười tươi nhất đời mình.
- Em có biết Nguyên Sa có những bài thơ về Paris rất hay không?
Ngay trong bài "Nga" ông cũng có một lần nhắc đến Paris.
Người đàn bà gật đầu.
- Em đố anh Paris có bao nhiêu đèn xanh đèn đỏ
Người đàn ông đọc tiếp câu thơ,
- Và anh đố em: Em có nhớ
Mỗi ngày bao nhiêu lần anh hôn em?... rồi hôn lên môi Nga
đắm đuối.
Phan thái Yên
Mùa Giáng Sinh 2003
|