Tàn Đông thì hẳn phải Xuân
chúc em dáng nguyệt mấy tuần chẳng phai
để còn gương lược trâm cài
về thăm anh với đôi hài tuổi thơ.
Sáng nay Xuân đến bên thềm
hỏi thăm mới biết rằng em không về!
Đường Du Hào
Nếu nói theo tiêu chuẩn của Tía tôi: "quân tử là người có
cái bụng lớn chứa cả một chiếc tàu" thì tôi là một tiểu nhân
chính hiệu; nội tạng của tôi trong những năm gần đây, không chứa
nổi lượng nước để có thể an giấc mà ngáy qua đêm, suốt sáng, như
lúc còn trẻ. Có lẽ vì vậy mà nương tử của tôi hay lẹ miệng mắng
yêu: "Cái ông già này! Trời chưa sáng đã lục đục như gà."
Đúng vậy, tôi sanh tật thức dậy rất sớm. Mà đã dậy sớm thì tôi thế
nào cũng phải làm một cái gì cho lại vốn. Hôm nay, tôi quyết định
viết một cái gì đó cho số Xuân như một lì xì tượng trưng kẻo bạn
bè cho là tôi đã quá vãng, theo ông theo bà rồi.
Bây giờ là 5 giờ sáng. Tôi đang ở Bắc Mỹ, phần đất mang tiếng mưa
rộng rãi, nắng tiết kiệm. Chỉ mới tàn thu thôi mà tuyết đầu mùa
đã rơi (xong rồi, tan rồi, cách đây hai tuần trước), trời đã lạnh
đóng băng cả mặt hồ và lột trần cả cây cối trong khuôn viên thành
phố thủ phủ. Bên chén canh dưỡng sinh bốc khói (cái này là mode
đang thịnh hành), tôi chợt nghĩ đến năm đã cùng tháng đã tận, Tết
nhất sắp đến, và thoáng nhớ lại những ngày Tết của tôi trên xứ Mỹ.
Nếu trí nhớ tôi còn làm việc thì hình như thi hào Nguyễn Du trong
Kiều có viết: "Ma đưa lối, quỷ dẫn đường. Chọn chi cái kiếp
đoạn trường mà đi". Kể từ sau chuyến ra đi đoạn trường đó đến
nay đã gần 30 năm qua, thời gian tôi định cư tại thành phố Ô Lâm
Bì này còn lâu hơn tôi đã ở Ninh Hòa, nơi chôn nhau cắt rốn, cái
điểm tựa linh hồn cuối đời. Phần nữa, tôi định cư trúng vào một
địa phương không mấy thích ứng cho người mình -mười gia đình dọn
đến đây có khoảng tám hát bài "au revoir". Tiếc thay,
cùng với sự vắng vẻ người mình, phai nhạt của màu tóc, cạn cùn của
trí nhớ, những ngày Tết thiêng liêng, rạo rực của tuổi nhỏ cũng
vì thế đi vào lãng quên gần hết. Bù lại, tôi có cái Tết Nguyên Đán
made in USA của riêng tôi.
Trước khi nói đến "Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, Cây nêu tràng
pháo bánh chưng xanh", tôi muốn nói sơ qua về "dân mình"
trong thành phố tôi ở. Olympia hay Ô Lâm Bì như cách đọc của người
"các chú", là thủ đô của tiểu bang Hoa Thịnh Đốn, Washington
State (miền Tây, chớ không phải Hoa Thịnh Đốn của Washington DC,
miền Đông, mà bà con mình hay lầm lẫn). Cũng như thành phố thủ đô
của 50 tiểu bang trên đất Mỹ, Olympia là thành phố hành chánh với
đủ các bộ phận nào là lập pháp, nào là hành pháp, và đại sảnh dinh
thự. Nó đẹp một cách hiền hòa, không building chọc trời, không hãng
xưởng vĩ đại tối ngày bốc khói ô nhiễm, không kỹ nghệ nặng, không
đại học nổi tiếng, không đội banh, không... không gì hết! Bên cạnh
những cái không này, Olympia có cái đẹp riêng của nó. Một khí hậu
mát dịu, cây cỏ xanh tươi quanh năm, tùng bách cả rừng trên trăm
tuổi, cùng đồi, dốc v.v... giống y chang Đà Lạt mộng mơ, nên đã
có lần nó được chọn là một trong 100 thành phố tốt nhất nước Mỹ.
Người dân Olympia hay Olympian rất hiếu khách; ngoài đường hay
bất cứ nơi đâu, khi gặp nhau bất kể quen lạ họ đều gật đầu chào
hỏi. Người da trắng, đến đây lâu lắm, rất đông, và người da vàng,
tôi muốn nói đến người Trung Hoa, cũng lâu không kém. Người Tàu
đến đây ở đã bao đời kiếp. Họ làm chủ gần cả khu phố, thậm chí ông
Thống Đốc của tiểu bang chúng tôi cũng là "người Tàu".
Như vậy bạn nên suy nghĩ lại cái lầm lẫn ngây thơ không thuốc chữa:
"người Mỹ phải là người da trắng, mắt xanh, mũi lõ". Thật
là lố bịch, nhiều anh di dân từ Âu Châu, từ Đông Âu, vừa mới chân
ướt chân ráo bước lên bờ cứ ngỡ mình là "người Mỹ" thứ
thiệt "chăm phần chăm", cũng loay hoay kỳ thị anh gốc
Á đã hai, ba đời làm khách trú! Rất là khó hiểu, số người Á, dù
ở lâu bao đời, lúc nào cũng mang cái mặc cảm tạm dung, ở đậu. Nếu
muốn nói "người Mỹ" thực sự thì phải nói đến số người
địa phương, những thổ dân Da Đỏ (ông Columbus đi lạc, gọi họ là
Indian). Thật là oái oăm, những người này thì lại chẳng bao giờ
muốn người ta gọi mình là người Mỹ!
Đóng góp vào sự kỳ thị vô căn cứ này là công lao to lớn, của các
báo chí từ quốc gia mà người di dân đã rời bỏ. Trong số này phải
kể nhà văn, nhà báo của phe ta. Không biết vì vô tình hay cố ý,
trong lúc dân bản địa chưa kịp kỳ thị, anh em mình bên nhà đã lên
lớp xỉ vả phe ta, đã nhạo báng, cười phe mình, rồi rên rỉ, đau khổ,
khóc lóc cái mặc cảm tạm dung! Thiệt là hết biết! Kỳ thị thì ở đâu
mà chả có, đâu cần phải khác màu da, khác tiếng nói mới thành đối
tác cho sự dị biệt. Ngày tôi còn nhỏ cứ hay bị mấy anh em trong
xóm ghẹo "thằng tàu le"; sau mấy chục năm làm người Việt,
dân xóm Rượu welcome và chấp nhận tôi là "người mình"
nhưng đùng một cái, sau 1975 gia đình tôi lại "được" ra
đi trong diện "người Hoa" vì cái họ "ngọt ngào"
nổi bật trong thời kỳ "môi hở thì răng lạnh" bị quá lạnh;
và bây giờ, đối với bên nhà, tôi được cho chung vào "Việt kiều",
còn bên này tôi là anh "mít". Cái trán láng bóng của tôi
không còn đủ chỗ để gắn hết bao nhiêu nhãn hiệu mà chính tôi không
hề có một sự lựa chọn. Nếu cứ một nhãn hiệu là một buồn phiền thì
mình sẽ ủ rũ suốt đời chẳng làm ăn gì được. Tại sao không quên nó
đi để mà còn hưởng thụ đời sống! Tôi thích thế giới như một giãi
đất không biên cương, ai muốn ở đâu thì ở. Tại sao phải có mấy ông
chính phủ, tại sao mình cứ đòi kiểm soát người khác, hướng dẫn người
khác trong khi mình không chịu nghe ai hết? Tại sao mình không tin
tưởng nhau, hòa thuận sống chung như lời dạy của Ông Bụt: "Thân
hòa đồng trú, Khẩu hòa vô tranh, Kiến hòa đồng giải, Lợi hòa đồng
quân, và Ý hòa đồng duyệt"?
Cũng may, người mình có câu nói "Ăn cây nào, rào cây nấy"
một số người đến sau đã vui vẻ nhập cuộc vun xới mảnh đất đã được
người đến trước trồng cây dù Mỹ hay Không-Mỹ. Người Việt di dân
dạo sau này đã thêm nhiều phân bón, nước nôi, làm cây "tạp
chủng" sai tốt vô cùng!
Còn nhớ sau ngày tôi vừa định cư, gia đình đi chơi trong một khu
thương xá, trong lúc tôi đang ngơ ngác lăng xăng đi tìm mì gói và
xì dầu, từ cầu thang đi xuống, tôi gặp một cặp người Việt đi ngược
chiều. Anh chị này nhìn tôi chăm chăm như muốn nhận bà con. Tôi
còn đang ngại ngùng, bất chợt nghe người vợ nói:
- "Hỏi đi... anh, hỏi đi!"
- "Thằng này người Tàu!" Người chồng có vẽ rành rõi,
bói xong, cằn nhằn: "Em phải biết, thành phố Seattle này
toàn là Tàu không à!"
Tôi vừa buồn, vừa tủi, vừa tức cười, vụt miệng nói:
- "Tàu gì! dân Sài Gòn đây. Cũng đang kiếm chai nước mắm
đây!"
- "Ôi trời ơi. Tôi xin lỗi."
Chỉ vậy mà chúng tôi quen nhau. Hôm đó còn kéo nhau vào quán ăn,
lợi dụng ngày gặp gỡ, mời nhau một chai "33" nhập cảng
gọi là cho đỡ nhớ nhà.
Đó là chuyện của 28 năm về trước. Ngày hôm nay thì hết nói. Nguyên
con đường Jackson, khu phố Tàu Seattle bây giờ đã bị phe ta tiếm
lấn với thương xá, với tiệm ăn, tiệm "neo", chạp phô,
dịch vụ đông nghẹt người. Từ một khu sụp xệ, đổ nát, rác rến đầy
trước những căn nhà cũ kỹ đen đúa, người mình đã "lột da mặt"
thành phố, mang lại một hình dáng mới mẻ, tấp nập, giàu sang. Cũng
phố nướng, cũng thịt rừng, cũng bia hơi, cũng xà bần đủ món ăn chơi.
Hàng quán bây giờ chẳng thiếu gì cả, muốn gì có nấy, cá sống, ếch
tươi còn bơi lội, nhảy lõm bõm trong thùng. Nước mắm đến thẳng trên
những thùng chứa còn nhãn hiệu từ Phú Quốc, Phan Rí. Lễ nào, đồ
chơi đó. Trung Thu có lồng đèn Hội An, có bánh trung thu Đồng Khánh
Chợ Lớn, Tết có bánh dày Nam Định, có bánh tét Quê Hương, có bánh
chưng Hà Nội... Nhưng đó là nói Seattle, một thành phố kỹ nghệ cách
nơi tôi ở gần một tiếng đồng hồ lái xe. Như vậy thì thành phố của
tôi thì sao? Trong lúc Seattle có gần 100 ngàn người Việt, đứng
thứ 4 số người mình đông sau California, Texas, Oregon, thành phố
thủ phủ Olympia chỉ có lèo tèo vài ngàn. Tuy nhiên, dù với một số
đông chỉ khoảng 4, 5 ngàn người vậy mà chúng tôi vẫn rất vui, rất
nỗi, nhất là dạo này dân địa phương, người anh em da trắng, đã bắt
đầu ghiền "phở" và "chả giò". Nhờ vậy mà ngoài
ba tiệm chạp phô, người mình còn làm chủ 6 tiệm ăn, 8 tiệm nails,
nơi nào cũng buôn bán sầm uất, đông đảo. Giống như lúc còn ở quê
nhà, những ngày Tết đến ở đây cũng có gọi là đầy đủ chút mùi vị
quê hương. Riêng cá nhân tôi, Tết có một điểm đặc biệt là lúc còn
ở quê nhà tôi cứ an nhiên hưởng Tết, nói theo kiểu mì ăn liền, ai
cho gì mình ăn đó, còn ở đây chúng tôi phải "làm" ra,
phải "xào nấu" Tết để hưởng. Nói cho rõ là chúng tôi phải
nhập cuộc, phải xăng tay áo đứng ra tổ chức Tết, trước là cho mình,
sau là cho bá tánh, thập phương.
Tổ chức như thế nào? Tôi sẽ lần lượt duyệt sơ qua để các bạn nghe
cho vui. Như tôi đã đề cập ở trên, dân ta cư ngụ trong thành phố
Olympia phần lớn làm nghề cạo giấy, đông nhất là công chức tiểu
bang, sau đến công chức liên bang, rồi đến phố, quận. Làm "công
thần" thì khỏe vì nhiều lễ lạt nhưng lễ lạt của người Mỹ thì
làm gì có nghỉ Tết Ta! Bởi thế, hàng năm cứ vào ngày Tết Nguyên
Đán, chiếu theo lịch ta, trúng ngày nào của dương lịch là phe ta
đồng loạt xin nghỉ, cáo bệnh nằm nhà ăn Tết ngày đó. Ban đầu chỉ
vài người làm riêng rẽ, cá nhân, dần dần trở nên có tổ chức, rồi
bây giờ thành một thông lệ không thể thiếu được. Ban đầu chỉ có
dân ta, dần dần đến người gốc Tàu, xong đến gốc Nhật, Đại Hàn, Phi...
Có năm, chính phủ không hiểu mắc chứng gì mà nhiều người nghỉ bệnh
quá đâm ra lo lắng cho người điều tra mới biết đây là chứng bệnh
lạ, hay lây và đặc biệt chỉ lây trong cộng đồng Á Châu và trong
dịp Tết mà thôi! Trong văn phòng tôi, việc tôi nghỉ nhà để ăn Tết
được coi như một chuyện tự nhiên: "Yep! Hao is off. Today is
his New Year!". Ban đầu bệnh phát xuất từ giới cạo giấy, sau
đó coi mòi bệnh kiểu này đã quá, các tư xưởng, từ Boeing đến Microsoft
cũng tình nguyện bị lây đến độ phải có phương pháp chống lại chứng
cúm-tết này. Nghe đâu chứng này còn trầm trọng hơn tại các tiểu
bang có nhiều người Việt cư ngụ như Texas và nhất là ở Cali thủ
đô của người Việt tị nạn.
Đã nằm nhà thì phải có chương trình hưởng lạc trong ba ngày Xuân
chứ! Dù quốc nội hay quốc ngoại, chương trình Tết thì dĩ nhiên đều
bắt đầu bằng ngày Giao Thừa. Mọi chi tiết sau thì cứ tuần tự như
tiến, trước bày sau theo.
Riêng tôi, tan sở, vợ chồng tôi về đến nhà khoảng 5 giờ chiều.
Chúng tôi chia nhau, người làm, kẻ phụ giúp nấu nướng, chưng dọn
để cúng Tất Niên. Đầy đủ các món ăn chơi trong dịp Xuân về: một
con gà luộc vàng óng (loại gà "dai" gà "đi bộ"
có đầu đàng hoàng), một nồi thịt kho, một dĩa đồ chua, một dĩa bánh
chưng, một bánh tét, rim, mứt... một chai "XO" (thứ xịn,
mặc dù ông bà mình ngày xưa chỉ chơi toàn rượu đế). Năm nào cũng
vậy, chúng tôi không quên mấy cái lì xì đo đỏ cho hai cháu; nhiều
năm còn có bạn bè về nên số phong bì tăng giảm tùy tình hình "quân
số" hiện diện. Khi bàn cúng Ông Bà Tổ Tiên đâu ra đó, tôi "lên"
bộ đồ số một: khăn đóng, áo dài! Tôi dâng trà (trà xanh có số đàng
hoàng), thắp hương khấn vái cho mưa thuận gió hòa, quê hương an
lạc, tứ thân phụ mẫu khuất núi vãn sanh, hiện tiền an lạc, con cháu
mạnh khỏe, ăn nên làm ra, học hành tấn tới nên người. Chỉ đoạn này
thôi cũng đã ăn tiền rồi! Cái đoạn tôi trịnh trọng lên đồ, đứng
nghiêm trang trước bàn thờ, gập đầu với ba nén nhang thơm, thầm
thì cũng nói lên cái đẹp, cái rộng rãi, huyền bí của tục lệ ta.
Mấy anh da trắng đâu có chơi kiểu này! Có lần lúc tôi lâm râm những
câu thần chú khấn bái, Julie, con gái tôi tò mò:
- "Ba nói cái gì vậy, Ba?"
- "Nội nói sao thì Ba repeat the same". Tôi khai thị:
"Đại khái là một câu wish chúc lành mong muốn the best and
the good cho mọi người, sống cũng như chết..."
- "Con wish những lời ba nói thành sự thật"
Câu nói thành thật của con gái tôi làm tôi nhớ ngày bà cụ tôi còn
nhỏ, tôi cũng hỏi một câu tương tự nhưng với bản chất con trai,
trời đánh, tôi lại hỏi trong cái phong thái lừng khừng, ba trợn.
"Con xin lỗi Má".
Trong lúc chờ nhang tàn, chúng tôi gọi điện thoại thăm bà con,
chúc Tết kẻ xa người gần, nhớ người nào gọi người nấy. Người xa
điện thoại, người gần gặp cuối tuần chúc sau. Trước khi nhập tiệc
(cơm tối), mấy cháu vòng tay chúc Ba Má sống lâu trăm tuổi, nhận
lì xì. Kể cũng lạ, vợ chồng tôi chi đủ thứ cho hai cháu, nào là
tiền học, tiền ăn, tiền ở tốn đến bạc ngàn nhưng cái bao lì xì tuy
chỉ có tính cách tượng trưng lại có ảnh hưởng rất là lớn đối với
mấy đứa con của tôi. Chúng nó trân quý và cứ giữ mãi.
Cơm nước xong, chúng tôi kéo đến chùa sửa soạn cho đêm Giao Thừa.
Con trai tôi lo đoàn lân, con gái phụ giúp các chị lớn trong đoàn
múa, tôi bao thầu mọi chuyện từ giới thiệu chương trình chơi vui
ba ngày Xuân, lô tô, karaoke, đến coi chừng mấy anh choai choai
phá phách cây cối trong sân chùa.
Khoảng 9 giờ tối, chương trình hò lô tô bắt đầu. Trong trò chơi
này, người địa phương họ chơi Bingo cũng giống y chang như mình
nên Đông Tây gặp gỡ rất nhộn nhịp ồn ào. Xen kẽ vào những màn lô
tô, đám thanh niên thanh nữ múa hát, trình diễn các vũ điệu dân
tộc. Phần lớn người da trắng đến đây để được thấy các màn này vì
chẳng ở đâu mà có. Đến chừng nửa đêm, tất cả chương trình vui chơi
được chấm dứt, sửa soạn cho một Giao Thừa trang nghiêm, thanh tịnh
đúng với chữ trừ tịch. Sau lễ tất, khi hồi chuông bát nhã báo hiệu
Xuân sang, tiếng trống, tiếng phèng la, tiếng cồn... tung lên vang
dội, và con lân xuất hiện chào Tết đến. Tiếp sau màn múa biểu diễn
bên trong, pháo nổ vang bên ngoài trong sân chùa, rừng người kéo
nhau ra sân coi pháo nổ, coi lân múa trong mùi khói pháo, mùi người,
cọng với mùi nhang thơm tạo thành một cảnh hiếm có. Nhiều năm, xác
pháo nhuộm hồng lớp tuyết trắng cả sân chùa, rất đẹp, nhớ đời. Khi
tiếng pháo cuối cùng im tiếng, mọi người chen lấn trở vào đại điện
lễ bái, hái lộc, xin xăm. Đàn bà con gái môi son má phấn, nhẹ nhàng
trong áo dài tha thướt, đua màu khoe sắc. Đàn ông con trai ăn mặc
chỉnh tề, người lớn áo dài khăn đống, các bạn trẻ chững chạc, khôi
ngô.
Cả một đoạn vừa kể, đối với người địa phương là cả một "show
case" một màn kịch, chỉ khác là nó diễn ra không tập dợt, không
bài bản, với diễn viên là những người không hề biết mình đang tự
nhiên đóng đúng vai trò quan trọng trong tuồng. Nội cái màn pháo
nổ thôi cũng đã là một sự kiện lịch sử của thành phố tôi rồi! Bạn
hãy tưởng tượng đến một thành phố yên tĩnh, hiền hòa thầm lặng,
mỗi năm chỉ có một ngày ồn ào nhất là ngày cuối cùng của hội chợ
hè do thành phố tổ chức. Ấy vậy mà chúng tôi đã dám phá cái luật
lệ mấy trăm năm này bằng cách đốt pháo vào ngay nửa đêm. Mặc dầu
có xin phép và báo chí cũng như đài truyền hình, phát thanh địa
phương đã giúp loan tãi tin tức, tiếng pháo nổ giòn tan trong đêm
xuân đầu tiên tại thành phố thủ phủ cũng đã làm mọi người thức giấc,
hoảng hốt, nhiều đồng hương chứng kiến phải ngạc nhiên, nhớ nhà,
vài người còn thút thít cứ y như Tết ... Mậu Thân.
Đầu năm 1990, đồng hương theo đạo Phật tại đây, gom tóm tiền bạc
lập được một ngôi chùa khang trang, đúng tiêu chuẩn nhà thờ. Theo
yêu cầu của các bác trong ban hội, gia đình tôi đến đây sinh hoạt.
Ở đây, chúng tôi có lớp dạy tiếng Việt, có người chỉ vẽ các bài
múa người mình, có tập trống, tập lân, dạy đàn. Nhờ tinh thần cao
và giúp đỡ của mọi người, chúng tôi có một căn cứ cho những trao
đổi văn hóa với các cộng đồng bạn.
Vào dịp Tết Nguyên Đán, các trường tiểu học, trung học, và đại
học trong thành phố cũng như lân cận đều có thư mời chúng tôi đến
để trình diễn, trao đổi. Rập khuôn các nhóm văn hóa cung đình thành
nội, các đoàn múa quốc gia trước 1975, chúng tôi cũng "Trấn
Thủ Lưu Đồn", cũng "trèo lên quán dốc", cũng dân
ca ba miền, cũng trống cơm nón quai thao, cũng tứ thân, áo dài khăn
đóng, cũng đàn tranh, đàn cò... tự biên tự diễn. Đại diện cho hơn
6 hội đoàn địa phương, chúng tôi được các đài truyền hình, báo chí
đăng tải hình ảnh trang nhứt mỗi năm qua cái tựa to lớn: Tết Việt
Nam.
Đầu năm cũng xuất hành. Ngày mùng một chúng tôi kéo nhau đi múa
lân cho các tiệm buôn trong thành phố. Vợ chồng con kiến, kẻ mang
người xách, kẻ lái xe người liên lạc... kéo nhau đi với đoàn lân
múa trong thành phố, gây quỹ yểm trợ các chương trình sinh hoạt
cho đám nhỏ. Có năm yêu cầu của các trường quá nhiều, chúng tôi
phải xin nghỉ làm, nghỉ học kéo nhau đi ca múa từ nơi này đến nơi
khác. Tôi chỉ huy một đoàn xe dài cả chục chiếc, xe mẹ xe con, rường
cột, máy móc, đàn địch... cứ y như một gánh hát bỏ túi.
Tết năm nào cũng chấm dứt bằng một ngày gặp gỡ tại tư gia của một
trong các anh chị lớn trong bọn. Trong một căn nhà vừa khổ tóm gom
mấy chục mạng vừa lớn vừa bé, chúng tôi ồn ào chơi bầu cua, đánh
phé, ăn uống cười đùa đến một, hai giờ sáng. Vui thiệt là vui! Mấy
người da trắng láng giềng cũng vui lây, họ không tỏ ra nề hà gì
cho cái sự ồn ào bất ngờ này. Chẳng những vậy, vài anh còn tỏ ra
hiểu biết, tự nhiên ghé vào trong lúc chúng tôi đang vui, miệng
nặc nồng men rượu, chúc Happy New Year.
Một nhà văn lớn nói "văn hóa Việt đã di tản ra hải ngoại"
chẳng biết điều này có đúng hay không. Nếu ông ta nói đúng, cái
mỹ từ "ngoại lai", "mất gốc" chắc phải bị "xét
lại" rồi!
Đó là Tết của tôi, Tết Nguyên Đán "sản xuất" tại Mỹ.
Còn đêm Giao Thừa và Hội Xuân của các bạn tại Việt Nam thì sao?
Chắc là nhiều rượu tây, thuốc ngoại, áo đầm, váy ngắn, veston, cà
vạt, nhạc "rap" nhạc rock "năm trái dưa hấu",
nhạc quậy "ba con mèo"?
Nói cho vui để qua ba ngày Tết trong lúc Mai đang chờ tôi thắp
nhang Tất Niên cúng Ông Bà.
Đường Du Hào
Tết Giáp Thân, 2004
|