Trại tù Xuyên Mộc được bọn việt cộng dựng lên giữa khu rừng đại
thụ bạt ngàn, ở một nơi đèo heo hút gió, cách Bà Rịa không xa.
Trại tù gồm ba khu: A, B và C. Ba khu tọa lạc như ba góc của tam
giác. Khoảng cách tương đương nhau, chừng non hai cây số đường
chim bay. Trong ba khu, khu B nổi tiếng nhất. Có thể, vì nơi đây
việt cộng đã bắt nhốt nhiều nhân vật quan trọng của chế độ cũ,
như: dân biểu Nguyễn Bá Lương, học giả Hồ Hữu Tường, nhà văn Nguyễn
Mạnh Côn, Duyên Anh...Có thể, vì nơi đây nhà văn Nguyễn Mạnh Côn
là người tù đầu tiên, đã dám tuyệt thực cho đến hơi thở cuối cùng,
để phản đối chế độ lao tù khắc nghiệt của cộng sản. Có thể, vì
nơi đây các tù nhân đã can đảm trổ nóc tôn vượt ngục, gan lì cướp
súng việt cộng, anh dũng chống trả chúng kịch liệt, để giải thoát
cho bằng hữu thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng.
Chúng tôi bị chuyển
đến khu B một cách bất ngờ, sau khi gỡ sạch năm cuốn lịch ở trại
tù Vườn Đào (Cai Lậy). Không bất ngờ sao được, khi nửa đêm các
tù nhân bị đánh thức bởi tiếng la hét của cán binh việt cộng,
bởi tiếng lên cơ bẩm lách cách của súng ống, bởi tiếng máy xe đủ
loại nổ ì ạch trước sân trại...Chúng tôi bị gom “bi” lại một chỗ,
bị “tống” lên các xe bít bùng, sau khi họ nhét vào tay mỗi đứa
một ổ bánh mì gầy đét tựa que củi. Không bất ngờ sao được, khi
chúng tôi đang ở vùng đồng bằng gió mát trăng thanh – lâu lâu nhìn
ra hương lộ, còn có thể “rửa mắt” được bởi các tà áo bà ba tím
vàng xanh trắng. Về đây, nước độc rừng thiêng, đứng ngó “mút chỉ
cà tha” cũng chỉ toàn là đại thụ bạt ngàn. Đêm đêm nằm ép bụng
với nhau trên các manh ván đầy rệp, nghe tiếng khỉ ho cọp rống
ngoài trời, mà cảm thấy ngậm ngùi cho số kiếp.
Chúng tôi đến khu
B vào buổi tối. Sáng sau, ban quản lý việt cộng đã vội vã phân
chia thành đội, và cho vào rừng lao động ngay. Đội tôi, do một
tên công an mắt lé làm cán bộ. Vì lâu quá, tôi đã quên tên, xin
tạm gọi nó là Bê. Cán bộ Bê với bộ trang phục công an màu vàng.
Vàng từ cái nón cối phất phơ trên đầu, đến đôi giày lụp xụp dưới
chân, lại thêm khẩu colt đeo xệ xệ dưới thắt lưng - trông cũng
hách xì xằng chẳng kém chi các tay anh chị trong giới giang hồ.
Đầu tiên, với đôi mắt cú vọ – vừa lé vừa xoi mói – hắn nhìn chúng
tôi chăm chăm, từng người một, nhìn từ đầu đến chân, như muốn ăn
tươi nuốt sống chúng tôi.
- Các anh vào đây là để lao động, chứ
không phải đi du lịch. Tôi không muốn các anh mang giày mang dép
lỉnh kỉnh như thế kia. Lao động là phải đi chân đất, là phải...chịu
khó, để...để...vinh quang. Bây giờ, các anh tự động lột hết giày
dép, vứt vào gốc cây cho tôi. Rồi mỗi người cầm một con dao, ra
tập họp ngay ngắn. Nhanh lên!
Chúng tôi đồng loạt làm theo lời hắn,
như một cái máy. Vậy mà, hắn cũng chưa vừa ý, tiếp tục nhìn chăm
chăm chúng tôi, với bộ mặt lạnh như băng giá.
- Bây giờ, chúng ta
bắt đầu đi vào rừng. Khi đến chỗ làm, các anh phải lao động cho
nghiêm túc. Cấm nói chuyện linh tinh. Cấm làm việc lấy lệ. Ai muốn
đi tiểu đi tiện, phải xin phép. Ai ra khỏi hàng ngũ một cách tùy
tiện, chúng tôi sẽ bắn ngay. Đây là ba vệ binh theo bảo vệ đội
ta, có súng ống hẳn hoi.
Tôi ngó ba tên vệ binh. Chúng trang bị
súng ống đạn dược tới tận kẽ răng, như một người lính sắp ra trận
mạc. Tôi biết, kẻ thù muốn ngầm báo với chúng tôi một điều: “ Số
phận chúng mày nằm trong tay chúng tau, như con cá nằm trên thớt.”
Đường vào rừng dài lê thê. Nắng bắt đầu đổ lửa trên đầu. Nắng
tràn lên đôi vai. Nắng hừng hực dưới bàn chân. Bước trên đất rừng
khai hoang, giữa mùa nắng tàn khốc như thế này, tưởng chừng như
bước trên lớp than hồng. Đã vậy, trên lối đi, những cọng gai rừng
quái quỉ vương vất đó đây, thỉnh thoảng đâm thốc vào ngón hay gót
chân, khiến chúng tôi nhảy chồm lên, hít hà lia lịa. Khi đến chỗ
lao động, đôi chân tôi đã sưng phồng lên. Móng toác ra bầy nhầy,
máu chảy ri rỉ. Người bạn kế bên, tội nghiệp hơn, anh nhăn mặt
đau đớn vì những cọng gai rừng. Ôi, những cọng gai chết tiệt, coi
mong manh nhưng bén và nhọn vô chừng! Nó cứ nhắm vào da thịt tù
nhân mà đâm thấu vào, nhức đến tận ruột gan.
Chúng tôi quần tụ nhau
dưới bóng của đám cây tiểu thụ. Chưa lao động, mồ hôi đã vã ra
như tắm. Trái bắp đá điểm tâm, vừa nhai cách đây một tiếng đồng
hồ, đã tiêu diêu mất! Bụng lại đói cồn cào, xốn xang một cách khó
chịu. Bụng đói, chân đau...chúng tôi còn có thể cắn răng chịu được,
nhưng tiếng cán bộ Bê oang oang – như tiếng tử thần réo gọi bên
tai – mãi mãi như thứ ám ảnh không rời..
-Đây là đám cây, bắt buộc
các anh phải hạ xuống trong ngày hôm nay. Chỉ tiêu mỗi người
30 cây. Bây giờ, các anh bắt tay vào việc...
Tôi nhìn rừng cây. Thân nhỏ nhất cũng bằng cột đình. Cây nào
cây nấy cao lêu nghêu, muốn vượt đến trời xanh. Tôi nhìn lại con
dao. Đó là một con dao cùn. Lưỡi đã mẻ nhiều nơi. Có nơi nhíu lại,
lỗ chỗ những mảng kim loại bị co rúm. Chứng tỏ con dao này đã trải
qua nhiều tay tù nhân. Chứng tỏ dụng cụ lao động này chỉ biết sử
dụng, mà chẳng bao giờ bảo trì. Trời ơi! con dao cùn dám chặt thịt
không đứt, làm sao đốn 30 cây trong một ngày? Người bạn kế bên
than thở. Tiếng người bạn khác chen vào, giọng đầy căm tức:
- Mẹ,
nó muốn hành hạ mình, chứ lao động cái con c...gì?
Than thở hay oán hận cách mấy, rồi...cũng phải nhào vào đám
cây. Tôi vung dao lên. Phùm phụp. Phùm phụp. Lưỡi dao vừa chạm
vào thân cây, bỗng như va vào khối kim loại rắn. Nó liền dội ra,
quay một vòng, rồi rơi phịch xuống chân. Một cảm giác tê buốt chạy
dài từ bàn tay lên đến tận vai. Tôi cắn răng chịu đau, cố gắng
quì xuống, nâng nhẹ con dao lên. Ôi, con dao đã trở thành vật vô
dụng. Mép dao khuyết một đường dài. Mảnh khuyết còn lấp lánh chất
sáng của màu kim loại chưa trui tới nước.
Tôi lính quính, chạy vội đến đám cán bộ:
-Trình cán bộ...
-
Ê, đứng lại! Lùi về phía sau 5 bước.
Tiếng nạt lớn. Tiếng lên cơ bẩm lách cách. Họng súng đen ngòm
chỉa thẳng về tôi. Cán bộ Bê nghiến răng trèo trẹo. Quai hàm hắn
phồng lên, trông thật hung dữ.
Tôi làm theo lệnh vệ binh, rồi nhỏ nhẹ nói:
- Thưa cán bộ, con dao
của tôi bị mẻ, không thể đốn cây được nữa! Xin cấp cho con dao
khác.
Cán bộ Bê chống nạnh, nhìn con dao một lát, rồi dõng dạc quát
lên:
- Anh định cản trở công tác, phá hoại dụng cụ sản xuất đấy hử?
Chưa đốn được cây nào, sao lại mẻ dao? Về chỗ ngay! Tiếp tục
lao động, khắc phục khó khăn.
Tôi khắc phục khó khăn cho đến trưa. Nhìn lại, bàn tay đã rươm
rướm máu. Xung quanh lòng tay, xuất hiện những mụn nước căng phồng.
Đụng vào, nó đau không thể chịu được. Nhưng điều đau khổ nhất,
chính là cái bụng. Cái bụng đang kêu cứu, đang gào thét. Nó như
khoảng trống không tên nào đó – cố sức trồi lên, quậy xé, giẫy
giụa. Hơn năm năm rồi, cái bụng chưa bao giờ no. Nó chỉ chứa lưng
lửng những thức ăn độn: bắp, khoai, bo bo...Bữa ăn thịnh soạn nhất,
vào những ngày lễ lớn, tối đa có thêm vài miếng ba rọi mỏng lét,
chưa đủ nhét kẽ răng.
Buổi trưa, khi cơn đói bắt đầu làm chúng tôi
rời rã, bủn rủn đến độ hoa mắt, không còn hơi sức nữa để chặt thẳng
con dao – thì cán bộ Bê thổi tu huýt “quét quét” tập họp về trại.
Đường về trại diệu vợi, khổ đau. Nắng rừng, giữa trưa, thật là
khủng khiếp. Nắng nung nóng tất cả. Từ: đất, cát, đá sỏi...đến
thịt da, đến những vết thương rướm máu, đến đôi chân trần trụi
sưng vù. Tôi thất thểu như bóng ma, lê từng bước nặng nhọc, mỏi
mòn. Thỉnh thoảng, có vài tù nhân cầm bình toong nước trút ngược
lên đầu. Dòng nước nhỏ nhẹ chảy từ chân tóc xuống mặt, xuống cổ.
Khi xuống tới vai, bỗng ráo hoảnh, khô ran. Sức nóng đã làm nước
bốc hơi một cách nhanh chóng. Thỉnh thoảng, đau quá, tôi phải cố
gắng nhón gót, đi bằng mười đầu ngón chân. Cứ thế mà thay đổi.
Cứ thế mà lê lết. Bám chặt lấy nhau. Cho đến khi thấy được cổng
trại tù.
Buổi ăn trưa bày ra trên sân, trước cửa nhà giam. Không
cần xem, tù nhân cũng biết đó là: mì lát. Mì lát là loại khoai
mì rừng, củ to bằng bắp vế. Vì to quá, nên người ta phải xắt ra
từng lát mỏng, rồi phơi khô để tiện việc cất giữ. Mì lát phơi không
khô, hoặc bị mưa dầm, thường dễ ẩm mốc. Khi ẩm mốc, mì lát nấu
chín sẽ sền sệt như hèm, chua len lét, ăn lâu ngày sẽ bị bệnh dạ
dày.
Bệnh dạ dày mặc kệ bệnh dạ dày. Giờ ăn, chúng tôi vẫn bao quanh
thau mì. Những cái chén đặt theo vòng tròn. Tổ trưởng dùng muỗng
chia đều. Khi muỗng mì lát đặt vào chén nào, thì lập tức... chén
đó được “tém” sạch ngay. Tù nhân chực sẵn, chờ thức ăn đến, quơ
ngay vào miệng, ngồm ngoàm một cách vội vàng. Bữa ăn diễn ra nhanh
chóng. Thau mì đã vét “cạn tàu ráo máng”, tù nhân vẫn còn đứng
giạng chân bên cái thau, thòm thèm nhìn nhau, nuốt nước bọt. Chưa
bao giờ, chuyện ăn uống làm chúng tôi phải vất vả, khổ sở như thế
này. Lúc nào cũng cảm thấy đói. Lúc nào cũng nằm mơ thấy ăn – ăn
ngon lành, ăn đến no nê, căng phồng bao tử.
Buổi tối, sau khi điểm
danh, tất cả tù nhân sắp hàng nghiêm chỉnh, lần lượt đi vào nhà
giam. Cánh cửa sắt vừa khóa chặt, chúng tôi vội trườn lên những
sạp ván để tìm “giang sơn” của mình. “Giang sơn” chỉ là một khoảng
trống độ hai gang tay, vừa cho một người nằm nghiêng, không thể
nhúc nhích cục cựa. Cứ thế, chúng tôi chen nhau như hộp cá mòi,
cố chìm vào giấc mơ “trở về mái nhà xưa”.
Nhưng, đâu dễ chìm vào
giấc mơ đẹp một cách thản nhiên như vậy? Rệp. Rệp là kẻ thù hay
bằng hữu chí cốt của tù nhân? Có thể, phút ban đầu nó là kẻ thù.
Nó tấn công chúng tôi ngay từ lúc ánh điện tắt, từ lúc giấc ngủ
chìm trong bóng đêm. Nó chui lên tai, lên nách, lên bẹn, lên khu...Nó
rút từng lỗ chân lông. Nó bám từng phân da thịt, hút từng giọt
máu nhỏ li ti. Về sau, có thể nó quen hơi, cảm thông với số phận
bất hạnh chung, nên trở thành bạn, thành bằng hữu chí cốt. Không
có tù nhân, thì rệp không thể gọi là rệp. Ngược lại, không có rệp,
thì tù nhân chưa thể gọi là tù nhân.
Có bạn thì phải có bè. Bè là
bầy dòi mềm nhũn, dính đầy phân người. Nó xuất phát từ thùng phân
đặt cuối phòng, từ những mảnh giấy chùi đít nhớp nháp, từ những
vũng nước rửa khu đen ngòm. Rồi...cảm thấy buồn tình cho thân phận,
nó nhởn nhơ lê la khắp phòng, cứ tìm chỗ có hơi người mà tụ đến.
Khổ nỗi, nó hay bò lên mồm, lên mũi chúng tôi - lúc ngủ say. Nó
cứ đánh thức chúng tôi dậy bất cứ lúc nào. Bằng cái cảm giác mềm
mềm, thum thủm – thân thuộc như thế.
Kẻ thù đáng nguyền rủa nhất,
ở trại giam này – ngoài bọn cán cộng ác độc – còn có bầy chuột
tù ngang ngược. Chúng ngang ngược hơn bất cứ động vật ngang ngược
nào trên cõi đời này. Chúng tấn công chúng tôi từng bầy. Con này
nối đuôi con kia sục sạo khắp các xó xỉnh phòng giam. Chúng đánh
mùi thức ăn tài giỏi hơn chó bẹc-giê. Chúng rành từng ngõ ngách,
hiểu rõ nơi nào cất thực phẩm, chỗ nào chứa quần áo dơ. Thậm chí,
biết cả chân ai có mùi hinh hỉnh...để mò đến, gặm cho đỡ ghiền.
Nhất là sau giờ thăm nuôi, đa số đều có túi thức ăn treo trên vách.
Buổi sáng, thức dậy, cả phòng giam đều ồn ào lên. Người thì mất
bánh tét. Kẻ thì mất xôi gà, chuối chiên, bánh mì...Thậm chí cả
thuốc điếu, chúng cũng không tha. Chúng cắn cho tơi tả, gặm cho
nát bét...trước khi rút lui một cách bí mật.
Vượt cả trăm cây số
đường bộ. Rồi, ngồi như đánh đu trên chiếc xe chạy bằng than đá
bẩn thỉu, để vượt thêm vài chục cây số đường rừng khúc khuỷu nữa,
thân nhân chúng tôi mới đến cổng trại giam Xuyên Mộc. Từ cổng trại
giam, thân nhân phải gồng gánh thức ăn, lội bộ thêm vài cây số
đường mòn gồ ghề, mới đến các khu nhốt tù : A, B hoặc C. Rồi vội
vã trình giấy. Rồi ngồi đợi đến mòn con mắt, mới thấy vệ binh tà
tà dắt tù nhân ra. Mười lăm phút phù du gặp nhau trôi nhanh. Chưa
kịp nói hết câu. Chưa bày tỏ cạn lời, đã vội chia tay cấp tốc.
Túi thăm nuôi tất tả trao cho tù nhân. Hai dòng nước mắt tuôn rơi,
thay cho nụ hôn từ biệt. Đừng vội tưởng túi thăm nuôi trao cho
tù nhân, là đã chắc thuộc quyền sở hữu của tù nhân? Vừa vào trại,
bọn trật tự đã gườm sẵn trước cửa, lăm le trong tay những dụng
cụ khám xét tàn khốc nhất : dao, kéo, kềm, lưỡi lê, cù móc..v..
v..Nếu tù nhân vô tình quên đi những dâng hiến rộng rãi, như :
thuốc thơm, trà móc câu, cà phê, bánh kẹo...thì các túi gạo sẽ
bị rạch nát, bịt thịt kho sẽ bị đâm thủng, quần áo sẽ bị móc rách...Tất
cả lương thực đổ tung tóe trên sân trại. Bụi bặm, đất cát, côn
trùng...trộn lẫn vào. Tù nhân đâu có thì giờ ngồi xuống : nhặt,
nhạnh, hốt, gom...Thôi đành tức tưởi bỏ đi, nước mắt tuôn rơi giọt
dài giọt vắn.
Xuyên Mộc còn có những cơn sốt rét rừng khủng khiếp.
Tù nhân bị vật ngã liên tục. Mỗi ngày, đội lao động vơi đi một
vài người. Đầu tiên, tù nhân được y tá chẩn đoán, cho nghỉ lao
động để điều trị. Về sau, số bệnh nhân càng ngày càng đông. Cán
bộ Bê không bằng lòng. Hắn hùng hổ la hét y tá, tập họp tù nhân,
tự ý sửa đổi nội qui :
- Kể từ giờ phút này, anh nào có bệnh, phải
đến khai báo với tôi. Tôi sẽ chẩn đoán và khám trực tiếp. Y tá
không có quyền cho các anh nghỉ bệnh nữa. Rõ chưa?
Cho đến một ngày, tôi cũng bị vướng sốt rét. Cơn bệnh hành
hạ tôi khắc nghiệt. Đôi chân run lẩy bẩy, yếu ớt, dường như nó
muốn khuỵu xuống, bất cứ lúc nào. Đầu óc trống không, nặng như
đeo đá tảng. Mỗi khi tới cữ, mồ hôi vã ra như tắm. Tôi chỉ còn
nước trùm mền, cắn răng chịu đựng sự hành hạ của cơn bệnh.
Buổi sáng, tôi cố lết ra sân trại, để xin cán bộ Bê nghỉ bệnh.
- Thưa
cán bộ, tôi bị sốt rét nặng quá, không thể lao động hôm nay được.
Cán bộ Bê chống nạnh, nhìn tôi trừng trừng :
- Sao? Sốt rét ư? Sốt
rét có cữ, có giờ giấc rõ ràng. Cứ ra ngoài đó lao động. Tới
cữ, tìm chỗ nào có bóng mát, nghỉ.
-
Thưa...nhưng, tôi không thể đi được
nữa. Chân tôi đau cứng như thế này. Xin cán bộ thông cảm.
Cán bộ Bê cười hề hề. Thình lình, hắn đưa khuỷu tay, thúc vào
bụng tôi. Tôi đưa tay lên đỡ, theo phản xạ tự nhiên.
- Anh phản ứng
lanh lẹ, khỏe mạnh như thế. Vậy mà bảo là bệnh ư?
Hắn bỗng trừng mắt nhìn tôi, hét lớn :
- Vào hàng. Lao động như thường
lệ.
Ngày đó. Hai tù nhân đã dùng võng, gánh tôi về trại. Tôi đã
khuỵu xuống trước những mảng đất rừng cứng cáp, do lưỡi cuốc của
tôi xới lên một cách quá sức.
Đoạn đường tù binh còn lắm gian truân,
còn nhiều đắng cay, khổ cực. Tôi nghĩ, không một ngôn ngữ nào,
bút mực nào có thể tả xiết, tả hết những đau thương chồng chất
này.
PHẠM HỒNG ÂN
(San Diego, 25/9/2005)
|