(truyện ngắn hai kỳ)
Ở Seattle trời cũng mưa nhiều như Huế, và không xa
đó, vùng phố suối Snoqualmie lại càng quá hiếm hoi những ngày ráo
tạnh. Với Mệ Ngâu thì hình như lúc nào trời cũng mưa, ngay cả lúc
mặt trời soi bóng. Mệ vẫn thường nghĩ vậy mỗi lần đứng nhìn dòng
thác đổ. Hơi nước trắng lịm phả vụt lên trời làn sương mưa làm
lóng lánh ngũ sắc vầng nắng mai bừng lên trên đầu ngọn suối.
Mệ
Ngâu tới công viên bên suối hầu như vào mỗi buổi sáng. Mệ ngồi
nhìn tảng nước sa sầm xuống vực đá rồi quẩy tung lên thoắt hiện
mưa giăng, sương sương mờ mờ làn cung vũ. Mắt mệ dầm trong mưa,
nhớ về những chuyện xa lắc xa lơ đời mình cũng dầm trong mưa, thắm
thiết ân cần. Có lần mệ Ngâu buột miệng nói với người giữ công
viên ý nghĩ chợt đến trong đầu, rồi bật nhớ ra cười.
- Cũng may
ôn là người Việt, chớ không thì dị òm. Ngồi đây mà cứ tưởng như
đương ngồi bên bờ Phá.
Người làm vườn, trạc tuổi con trai lớn của mệ, đang tỉa dọn cây
cảnh gần ghế đá nơi mệ đang ngồi, cũng cười theo.
- Cụ nói đúng đó.
Trời ở Phá Tam Giang nhìn lúc nào cũng như đang mưa nhưng kỳ
vỹ bao la hơn. Lớn lên, quen với Bắc Mỹ Thuận, Ninh Kiều, cháu
đã ngây người đứng nhìn Phá Tam Giang lần đầu tiên hành quân
ra Huế sau tết Mậu Thân.
Họ quen nhau như thế từ sau câu chuyện tình cờ.
Định mệnh của người lính già đã gắn liền với vùng cuối nước Tam
Giang từ một thuở chinh chiến hào hùng chẳng sợ nề chi truông
phá. Cô gái Lại Ân làng Sình, mang theo trong lòng hình ảnh mưa
xuân trắng như rặng mai trắng bên sông Bồ, theo về quê chồng
làm quen với dòng sông Hậu lớn ròng con nước lục bình trôi.
Người lính tù đày không chết nhưng vợ thì qua đời trước ngày
gia đình dắt dìu nhau tìm cảnh sống tự do. Đã từ nhiều năm,
con cái trưởng thành sống cuộc đời riêng, còn ông vẫn hàng ngày
vùi giấu nỗi buồn đơn độc với công việc bên cỏ cây hoa lá. Hình
ảnh bà cụ người Huế đã gần chín mươi, lúc nào cũng trịnh trọng
áo dài nhung khăn san tiệp màu, hàng ngày tìm tới thiên nhiên
nghĩ nhớ về đời mình với lòng thanh thản giúp ông tìm ra được
niềm vui trong cuộc sống.
Mỗi sáng ông giúp người con dâu của
mệ hay đứa cháu nội đón đưa mệ Ngâu từ bãi đậu xe. Thỉnh thoảng
mệ lại gói ghém cho ông những món ăn rất Huế, rất Sình, mà đã
từ lâu lắm ông chưa hề có dịp nếm tới. Dưới bóng cội tùng sum
suê vòm lá đan dày, mệ Ngâu ngồi nhìn mưa kể chuyện. Người lính
già tìm việc làm quanh quẩn bên mệ, lắng nghe, thỉnh thoảng góp
chuyện, chia sớt buồn vui. Có những chuyện mệ Ngâu đã kể nhiều
lần mà mắt mệ vẫn rộn tươi mỗi lần nói tới. Và người lính già
thì vẫn háo hức muốn nghe, như nghe lần đầu, những câu chuyện
cũ không đầu không đuôi về một nơi mà số phần đời ông đã sa xuống
rồi thăng hoa thành tình nghĩa phu thê. Ngàn mưa trắng lịm kỳ
ảo chẳng hề ngơi trên phá. Tiếng mái dầm khoắng nước cuối sông
lao chao bầy sen ngó phơn phớt màu cánh phấn như muốn quấn vói
nhành mai trắng chao nghiêng bên bờ nước. Áo lụa tím thon thả
bờ vai, e ấp bóng tre la ngà ai về giữa ngọ. Nồi cá nục cay
thơm hương gạo mới để môi em cũng mọng đỏ xuýt xoa. Ảnh hình
kỷ niệm trân quý một thời son trẻ đã trở về cho riêng ông giữ
lấy mà vui.
Chuyện đời o Ngâu, chuyện nhà mệ Ngâu, cũng được trang
trọng lắng nghe rồi ân cần xếp vén giữ gìn. Chẳng chỉ là chuyện
đời của một người vợ, người mẹ, mà là biết bao bà mẹ Việt Nam suốt
đời mình luôn cố gắng ôm giữ gia đình trong gắn bó yêu thương,
đừng để trôi chao trong gió nghiệt.
*
* *
Ôn Cửu cũng một thời nho sinh, lều chõng, mà tài mọn chẳng qua
được cái nhất trường. Ôn ở lại Huế, chạy huợ trong Nội vài năm,
cũng mòm mèm được cái chức cửu phẩm. Gặp thời Nho mạt, ôn đi học
thêm chút tiếng Tây, rồi thất chí về quê ở làng Mỹ Xuyên, lấy vợ,
mở trường dạy học. Ôn dạy chữ Nho, lẫn Quốc ngữ, trộn thêm ít
tiếng Tây cho con nít trong làng. Bà Cửu chẳng hề thấy chồng làm
ra đồng nào từ cái việc bán chữ nghĩa ngoài những biếu xén vào
những ngày lễ tết và thỉnh thoảng hò sai vài cậu học trò lớn xác
chẻ củi gánh nước cho đỡ tay chân. Gian hàng xén ngoài chợ Mỹ Xuyên
cũng đủ giúp bà nuôi chồng, quán xuyến trong ngoài, để mỗi năm
vài lần bà Cữu nở mày nở mặt với chị em trong làng thấy chồng ngồi
chiếu trên với quan viên trong các dịp đình đám.
Vợ chồng Ôn Cửu
hiếm hoi. Bà chỉ sinh được cho ông một mụn con gái. Con Ngâu.
Ôn vẫn chắc lưỡi, lắc đầu, mỗi khi nghe vợ cao giọng gọi con.
Cái tên chữ Tập Khánh, ôn đắc chí giữ trong bụng cho tới ngày con
ra đời, dù trai hay gái, đã bị bà Cữu lắc đầu quầy quậy, từ chối
không thương tiếc. Tính ôn dễ dãi nên đã để mụ lấn lướt, đặt
cho con gái cái tên chẳng chút trâm anh. Ôn nghĩ vậy và cảm thấy
như tay chân vẫn còn run lẩy bẩy nhớ tới dòng thác người với liễn
đỏ lọng vàng rực rỡ và tiếng trăm họ chiêu hô quần phương tập khánh
lần thiên tử xa giá đến Đàn Nam Giao làm lễ tế trời... Ôn thở ra,
ngụm miếng trà bông ngâu, trà thơm chi lạ...
Mới mười một mười hai,
Ngâu đã theo mạ ra chợ buôn bán mỗi ngày.
- Con gái con lứa khôn
có chi hơn là học buôn học bán.
Mạ đã nói rứa và Ngâu thì cảm thấy vui vẻ nơi chợ búa đông người
hơn là quanh quẩn trong nhà với tiếng đọc bài ê a của bầy học trò
ngái ngủ. Có khi Ngâu thầm nghĩ O đã biết hết chữ của cha dạy cho
học trò. Năm nào cũng vậy, nghe hoài O gần như thuộc nằm lòng
những bài đánh vần quốc ngữ, những câu tiếng Pháp đếm số tính ngày
hay bài chữ Nho trầm đều như kinh tụng...gia nhà quốc nước tiền
trước hậu sau ngưu trâu mã ngựa... Có điều Ngâu không biết là O
chỉ thuộc lòng, đọc vanh vách mà không hiểu ý nghĩa hay có thể
thực sự đánh vần, nhận ra mặt chữ trên trang giấy.
Ngày tháng níu
nhau theo từng cơn mưa chờ xuân trên đôi tay trần lóng lánh măng
tơ, kéo Ngâu bước vào lứa tuổi dậy thì hây hây thời sen ngó. Nàng
trỗi thành cô gái dõng cao, duyên dáng, và giỏi giang có tiếng
ở chợ Mỹ Xuyên. O Ngâu xin mạ dọn riêng một sạp bán hàng tươi.
O nuôi gà bán trứng, O đi đò qua tuốt Bàu Mây, Cồn Én, dọc sông
Ô Lâu hái mua bông sen, bông phượng tây, chuối, trái cây, về bán
vào các ngày rằm vía.
Ngâu sống bận rộn hồn nhiên với mạ, với
chị em bạn hàng trong phố chợ, không để ý chi tới tình hình chiến
tranh phức tạp đang diễn ra chung quanh. Việt Minh ngoài Mỹ Chánh,
Ưu Điềm, thỉnh thoảng đi từng toán trong đêm tối về làng, gom dân
tuyên truyền học tập, kêu gọi đóng góp. Học trò lớn của Ôn Cửu
có đứa bỏ làng vô rú theo Việt Minh, có đứa khăn gói vô Huế tìm
chỗ an thân. Lính Tây phía ngoài độn biển miệt Thanh Hương, Đại
Lược, hoặc xa hơn, từ cuối Ô Lâu tiếp cận Phá Tam Giang, bắt đầu
mở những cuộc hành quân đi tuần đi rỏn qua làng. Nhìn những tên
lính lê-dương đen như cột nhà cháy, mắt trắng dã láo lơ dòm ngó,
dân làng Mỹ Xuyên linh cảm lo âu cho tháng ngày bất trắc trước
mặt.
Mớ tiếng tây tiếng u của Ôn Cửu rứa mà đã giúp dân làng một
đôi lần. Ôn xí lô xí la với tên sĩ quan chỉ huy hồi lâu, hắn nhìn
quanh lưỡng lự rồi khoát tay cho toán lính di chuyển ra khỏi làng.
Mụ Cửu mừng xóm làng thoát nạn nhưng vẫn chưa hết lo cho chồng.
Mụ níu áo ôn kéo vô nhà.
- Ôn ơi, ôn gan ruột cái kiểu nớ có ngày
tui đứng tim mà chết quá. Súng đạn bao quanh, tụi hắn lên cò
lắc cắc rứa mà ôn cứ đứng đó xí lô xí la. Tiếng của người ta,
nói trật, họ bắn một cái đùng rồi mẹ con tui ở với ai.
- Mụ đừng lo chuyện tầm vách. Dạo ở trên Huế tui từng nói tiếng
Tây tróc tróc với tụi hắn. Mình nói đúng họ phải nghe. Tui
nói trong làng chừ chỉ còn toàn người già con nít, mấy ôn muốn
kiếm Việt Minh thì vô trong rú chớ ngoài ni khôn có mô.
Dân làng Mỹ Xuyên thoát được lần Tây ruồng biết ơn ôn Cửu, khen
ôn nói tiếng Phú Lang Sa như gió, nhưng Việt Minh lại nghi ôn làm
điềm chỉ cho đồn Tây ngoài Thanh Hương.
Một đêm cuối tháng Mười,
đất trời sủng trong mưa dầm, ánh đuốc trên tay thằng học trò bạc
tình với chữ nghĩa, chập chờn những sợi mưa chém nghiêng qua khuôn
mặt lầm lì. Hắn đứng im dưới mưa nhìn đồng chí của hắn trói thúc
ké ông thầy già, lôi xềnh xệch qua khoảng sân lầy lội. Ánh đuốc
vói theo lay lắt rọi những giọt mưa bay trĩu qua đôi vai già nua
rồi nhả xuống mặt đất đọng đêm thâu. Gã học trò kéo ngược hai
mẹ con mụ Cửu đang khóc vật vã dưới mái hiên, không cho họ chạy
theo ôn giáo, miệng quát tháo.
- Làm Việt Gian, tay sai cho thực dân
thì phải đền tội. Bộ hai người cũng muốn theo đồng lõa hay răng
đây !?
Quăng cây đuốc lụn bấc xuống sân tắt ngúm, hắn bước đi trong bóng
tối dày đặc. Chỉ còn lại tiếng khóc của hai người đàn bà nhỏ nhoi
chìm lịm trong tiếng gió mưa tràn lan qua mái ngói, qua cánh cửa
nhà chưa khép. Bước chân hắn dợm đứng lại, lưỡng lự trong giây
lát, rồi quày quả bước. Thằng học trò chăn trâu vừa nhớ tới cảm
giác rần rật thèm muốn những khi hắn vừa bửa củi vừa nhìn lén cô
con gái của thầy ngồi gội đầu dưới mái hiên, từng sợi nước bò trên
gò ngực tròn căng sau lớp yếm lụa mỏng ướp mùi hương chanh chùm
kết.
Ôn Cửu bị bắt đi biệt tích. Mạ và O Ngâu khóc ròng rã những
ngày sau đó. Mụ Cửu đi coi bói, xin xăm, tìm kiếm khắp nơi vẫn
không ra tung tích. Gã học trò lầm lì theo Việt Minh thì sau đó
nghe đồn đã bị Tây bắn chết trong một trận càn.
Sau hơn một năm
mỏi công tìm kiếm, mụ Cửu đành quyết định lập mộ để tang cho chồng,
lấy ngày ôn Cửu bị bắt làm ngày tử. Mẹ con vẫn hàng ngày bận rộn
lo toan buôn bán nhưng cuộc sống buồn hơn. Ngôi nhà trở nên quá
rộng khi đêm về. O Ngâu nhớ cha hay chêm tiếng Tây khi kể chuyện
những ngày sống trong Dinh, chuyện hội hè người đông như kiến dịp
thiên tử đi thuyền rồng qua sông Hương về Đàn “xanh cu tô” (Đàn
Nam Giao) làm lễ tế trời. O nhớ tiếng roi mây ôn Cửu đánh gió nghe
vun vút, tiếng học trò ngái ngủ đọc bài nghe như tiếng kinh ...
gia nhà quốc nước tiền trước hậu sau...
Việc bán buôn bận rộn đã
giúp mẹ con mụ Cửu nguôi ngoai dần theo thời gian. O Ngâu mười
tám tươi tắn lồng lộng, mỏi mắt bầy trai phố chợ ngong ngóng ngó
theo. Không nói ra nhưng mụ Cửu vẫn thầm chờ ngày mãn tang để tìm
lo gả chồng cho con gái.
Chiến tranh Việt Pháp ngày càng
ác liệt. Lính Tây đi tàu tuần ngược sông Ô Lâu để kiểm soát ngăn
chận Việt Minh từ Mỹ Chánh Quảng Trị lọt về nên ruồng bố cũng diễn
ra thường hơn. Chợ búa vắng hoang những ngày Tây đi ruồng. Đàn
bà con gái tản mạn trốn ra Bàu Mây, Cồn Én, hay những nơi kín đáo
trong làng. O Ngâu vẫn thường là người nhanh chân nhất cho đến
một hôm, mãi bận rộn chuyện nhà khi nghe tiếng báo động ngó ra
thì bóng bầy lính đã thấp thoáng sau bụi tre la ngà đầu ngõ. Nằm
dưới gầm giường của mạ, o bặm môi điếng lên vì sợ, mắt căng nhìn
từng bước giày đinh của tên lính lê dương xoáy nghiến trên nền
gạch. Quá quen thuộc với việc bố ráp hàng ngày, chỉ vài phú sau
gã lính đã lôi o Ngâu xềnh xệch ra giữa nhà. Hắn giựt tung hàng
nút áo trong tiếng cười man rợ. O Ngâu nghiến răng, cắn nước mắt,
quẫy đạp bàn tay thô bạo của gã lính người Âu đang cơn thú vật.
Hình ảnh người cha đứng trong lớp học với bầy trẻ nhỏ ê a tiếng
Pháp chợt quẩy vụt qua trí nhớ của Ngâu gần như cùng một sát na
với âm thanh sắc gọn vọt ra từ lồng ngực thanh tân làm gã lính
lảo đảo đứng lên. “Ma lát ! Ma lát !”. Hắn kinh hoàng đứng nhìn
vùng máu đỏ ối giữa thân người con gái trong giây lát, rồi lẩm
bẩm câu chưởi thề, tiếc rẻ bỏ đi.
Ngâu bò quay trở vô gầm giường,
nằm cắn răng mà khóc cho tới khi mạ lật đật từ chợ chạy về.
Mụ Cửu ôm con, kinh hoàng khóc ngất.
- Không răng mô mạ. Hắn chưa
làm chi được con hết.
Bà mẹ lau nước mắt, nhìn Ngâu dò hỏi, rồi chợt hiểu ra khi con
gái vói tay lấy cái ống nhổ trầu đang nằm lăn lóc ở chân giường.
O Ngâu ôm mạ mắc cỡ.
- Con nằm trốn dưới giường mạ, biết đường mô
hắn cũng tìm ra, con sợ quá đổ đại nước trầu lên người. Khi
hắn kéo con ra, con liều la tiếng Tây với hắn, rứa mà hắn tởm,
bỏ đi.
Mụ Cửu lại ôm con, thăn thỉ khóc. Ngâu bấu lấy vai mạ, giọng
o cũng nhão nước mắt.
- Con không chịu để cho hắn làm chi mô mạ ơi.
Hắn mà làm được chi, con cắn lưỡi chết liền.
Bà mẹ đỡ con lên giường. Bà pha nước ấm lau rửa cho con từng
phân vuông da thịt nõn nường. Vết son con gái giữa vùng thân thể
non hây hàm tiếu. Mụ Cửu vuốt tóc con gái, yên bụng nói đùa.
- Mạ
mi ! O lo mà lấy dôn đi cho rồi.
Nhìn mạ thắp nhang khấn vái bên bàn thờ cha, Ngâu chợt thấy lòng
bình tĩnh lạ thường. O bước ra đầu hiên nhà đứng nhìn trời chiều
đang chuyển mưa, từng cụm mây trĩu hơi nước ngập ngừng bay. Gió
thổi ruồng qua rặng la ngà xao xác bầy lá tre khô rắc vàng phai
xuống ngỏ. Ngâu tự nhủ đừng quên hứng nước mưa để sáng mai gội
đầu lúc nàng với tay ngắt trái chanh bên bờ giếng.
(còn tiếp)
Phan Thái Yên
|