SỐ 31 - THÁNG 7 NĂM 2006

 

Thư Tòa Soạn

Thơ

Bước chân
24 Vũ Hoàng Thư
Tự thuật
24
Trần Việt Bắc
Thương nhớ một đời

23
Huỳnh Kim Khanh
Quỳnh nương
21
Phan Thái Yên
Gốc phượng già
18
Tôn Thất Phú Sĩ
In dấu một đời
18
Kim Thành
Hè ơi! Nhớ lắm
17Ngọc Trân

Truyện ngắn, Tâm bút

Lửa trời
13
Nguyên Nhi

Kình ngư
13
Hoàng Du Thụy
Quản chế
14
Phạm Hồng Ân

Nắng dã quỳ và con sóng xa
14Phan Thái Yên
Bức Phù Điêu
14
Cỏ Biển
Tôi mê đá banh
7Nguyễn Hồng Quang

Ba ơi

15
Võ Thị Đồng Minh
Những năm tháng về sau
15Tôn Thất Phú Sĩ
Trên đường thiên lý
8Song Thao
Hoa nắng, bướm và hè
8Vũ Hoàng Thư

Văn học, biên khảo

Nhà Trần khởi nghiệp (5)
4Trần Việt Bắc
Sống thiện chết lành (5)
4Ngô Văn Xuân
Chè
4Xuân Phương
Nhạc sến - giai điệu quê hương
4Hoàng Mai Phi
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 18

3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài

Vô tình cốc - Kỳ 25
1 Huỳnh Kim Khanh


 

Hoa nắng, bướm và hè ...

 

Tháng bảy vỡ nắng. Người nung nóng rỉ rịn cơn hầm. Mây ở tầng cao đen xám tích lũy điện áp cao thế đợi chờ một tia lóe để trở về lòng đất như cơn giông của ngày tháng cũ đang tìm lối băng về trong trí nhớ. Tất cả chỉ cần một cơn sấm. Một cơn sấm động vỡ tung những chờ đợi tràn đầy và thôi thúc cháy bỏng của hạ. Nhưng cơn giông chết vội khi chưa kịp thành hình. Đám mây đen bay đi mất, chỉ còn hè chói chan trên từng mảng lá.
Và như thế cơn giông không bao giờ đến, người ngồi ngóng trong sự không đợi chờ. Nhưng thế nào là đợi chờ trong sự không đợi chờ ? Vào giữa thế kỷ trước khi Hiện Sinh là lý thuyết đầu môi, là thời thượng trong văn học và lối sống, Thi Vũ, một thi sĩ Việt tại Paris lên đường, không phải đi về hố thẳm tàn phá của hư vô chủ nghĩa, đứa con út của triết lý Tây Phương, mà bằng những bước như nhiên trong hoa nắng,

"Gió mai này trĩu nặng những chùm hoa.
Mấy lẵng hương lưng trời đưa vất vưởng."
(Hoa nắng – Hoa Nắng)

Hoa Nắng là Gitanjali của ngôn ngữ Việt, là Lời Dâng giữa những "tiếng kêu trầm thống" [1] của chiến tranh điêu tàn trên đất nước ở thế kỷ trước.
Lối đi không là ngõ cụt khi người bước với tâm bình. Ông nhìn về biển, nghe hát lời triều. Hải triều âm. Lời diệu âm, vượt lên trên mọi âm thanh của thế gian, từ đó biết lắng nghe tiếng đau thương của cuộc đời, quán thế âm. Thi sĩ viết như thế này giữa lòng Paris dưới mansarde thiêu đốt của hè và cóng rét của đông

"Biển xanh xa vời vợi, mênh mông buồm gọi nhớ nhung về.
Nắng đẹp chảy đầy đôi mắt biếc.
Tiếc người xa không gần để nói chút niềm trời rộng rãi."
(Luyến tiếc – Hoa Nắng)

Biển xanh xa vời vợi một màu từ khi Nagārjuna đi vào lòng Nam Hải thọ kinh và mang về lưỡi gươm vàng trí tuệ chém nát lối tư duy biện chứng và hư vô của loài người. Thi sĩ tiếp nối sứ mệnh đi vào lòng vực, chỉ ở nơi thâm u cùng cực, đường kiếm chém lóe vào bóng đêm cho lời đứng dậy thành thi ca.

Tiếc người xa không gần để nói chút niềm trời rộng rãi.

Tiếc chỉ là một lối nói. Có hề chi, gặp hay không, niềm trời vẫn rộng rãi thế kia. Thi sĩ là niềm trời, sống trong không gian vô biên ở từng mọi mọi sát na.

Gió mai này khẽ  nói lọt tai người : Hoa nhiều sao không hái ? người cười thưa với gió : Lòng là vườn hoa, hái rồi biết cất đâu ?
(Hoa Nắng – Hoa Nắng)

Thi sĩ tiếc mà thật không phải tiếc cho mình. Tiếc cho người chưa thấy được sự bao la chân thật đấy thôi. Đợi mà không đợi. Đợi chỉ là cái nháy mắt không thời giữa hai sát na hành động. Vì đợi và tiếc là ngõ tắt của loài người chia phân, hai động từ không hề có trong ngữ vựng của thi sĩ. Thi sĩ vỗ đôi cánh lớn, không phải bằng đôi cánh vụng về L'albatros của Baudelaire mà bằng cánh đại bàng cao vút thái hư.

oOo

Cơn giông đi vắng, buổi trưa còn lại niềm im lặng của thinh không. Hiên nhà ngoài hanh nồng, khu vườn thành tụ điểm của bướm hè bay về đậu. Những cánh bướm lững lờ vô định trang điểm màu nắng lung linh. Người ngầy ngật chập chờn mộng mị, mơ hồ Trang Chu dập dìu mang cánh hồ điệp. Tự du thích chí dư ! [2]. Biên giới giữa thực và hư mờ nhòe. Bàn tay muốn ôm chầm lấy mộng, người vươn tay bắt bướm. Bụi phấn của sắc màu là mộng, thân bướm là mị hay chính bàn tay tự thể đã là cơn mơ ? Huyễn hoặc theo cánh bướm về đậu trên câu haiku của Buson,

Chẳng còn chi thực tại
giữa hai lóng tay
nhẹ cầm
một cánh bướm
(Thi Vũ dịch)
(Nothing actual, in the feeling of pinching softly - a butterfly.
Utsutsu naki tsumami gokoro no kocho kana)

Bắt bướm là bắt lấy mộng, trong một ước mơ tự bắt lấy mình, cái "mình" cứ trôi mãi trong mộng, giữa cơn mơ sinh nảy những cơn mơ, sống thực trong mộng và mộng trong đời sống thực.

đã nghe chừng mộng chưa tàn
giữa trong cơn mộng, mộng tràn bay lên
vàng phai dâu biển chia miền
chào nhau còn lại mộng triền miên dâng

Nhắc đến bướm và mộng là để đập vỡ cơn mộng cho những cánh bướm sống lại. Trả bướm về với hoa và hè. Con bướm sẽ "dâng mình cho hoàng lạp" và "trở về với ánh sáng" của Bướm Sáng – Hoa Nắng.

"Ôi cánh bướm non.
Hoa không còn là hoa xưa nữa. Hoa đã dâng hương và hương về trời trong sáng.
Hoa không còn là hoa nữa hay vẫn còn hoa trong bướm hoa."
(Hoa Xưa – Hoa Nắng)

Và con người trở về với đời sống thật. Thật là không đánh mất chính mình giữa những thế lực trầm phù, không lưu vong ngay trong đời sống lưu vong. Thật trong ý nghĩa uyên nguyên. Thật như Người-đến-và-đi-như-thế, Tathàgata.

Khi cơn giông đã thật sự không còn, khu vườn nắng rộn rã lời và hoa, một con bướm chao cánh về đậu giữa mùa.

Vũ Hoàng Thư
Tháng 7, 2006
vuhoangthu@yahoo.com


[1] Võ Văn Ái, Tiếng kêu trầm thống trước sự tàn phá con người, Lá Bối, Saigon, 1968
[2] Trang Tử, Nam Hoa Kinh