Đã từ lâu, chữ sến đã hiện diện trong ngôn ngữ Việt Nam; hay đúng
ra chữ “sến” đã hiện diện trong ngữ vựng của văn hóa miền nam Việt
Nam. Chữ “sến” từ đâu đến, ai đã khám phá và phát động chữ này
trong tiếng Việt thì người viết không thể xác nhận chính xác. Rất
tiếc rằng Việt Nam chưa dựng lên cái gọi là Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ
như một số quốc gia, nên một số ngữ vựng được tự do phát triển,
theo từng vùng và đồng thời chịu ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử
và xã hội. Từ lúc còn nô đùa vô tư cùng đám bạn trong xóm và tại
trường học, tôi đã ít nhiều quen biết với chữ “sến”, có lúc chính
tôi và một số bạn bị gán hay bị chỉ trích “ Sến quá mày ơi!” nhưng
thật tình chính tôi và các bạn tôi cũng không tài nào giải thích
nổi chữ sến nghĩa là gì. Nhưng khi bị gán cho cái gọi là “sến”
thì không ai bảo ai, không mấy ai hài lòng hoặc có khi phá lên
cười một cách thích thú hay tệ hơn đó là “quê độ”.
Một số tác giả cho rằng chữ “sến” do chữ “sale” trong anh ngữ
được đọc trại đi. Vì lẽ hàng ế ẩm hay phẩm chất kém cỏi nên bán
rẻ hơn bình thường, nhưng khi chuyển qua tiếng Việt trong cái gọi
là tiếng lóng thì “sến” có ý diễn tả những gì tầm thường dựa trên
tính “dỏm” hay “rẻ tiền”. Nhưng anh ngữ chỉ thông dụng trên quê
hương Việt Nam khi có sự xuất hiện của các người lính viễn chinh
xứ cờ Hoa, do đó giả thuyết trên đây không mấy đứng vững vì các
bậc lão thành công nhận rằng tiếng “Marie Sến” đã xuất hiện từ
thời Tây còn đô hộ.Vậy chữ “sến” bắt buộc phải hiện hữu trước khi
chữ “Marie sến” ra đời vào thời Tây. Theo các trưởng lão, thì chữ
sến không được mấy ưa chuộng, khi nhắc đến chữ “sến” thì gương
mặt các cụ thay đổi như thế nào thì người viết không cần giải thích
thêm nhiều. Có lẽ các cụ liên tưởng đến “marie sến” chăng? . Khi
nhắc đến “ma ri sến” thì người đời thường liên tưởng đến các cô,
các bà có dáng điệu đỏng đảnh, áo quần hở hang, đôi khi đi kèm
theo một dáng dấp gọi mời. Không ai bảo ai, nhưng tự nhiên, chữ
sến không được ái mộ trong quần chúng. Có người lại cho rằng chữ
“sến” bắt nguồn từ chữ “sen”. Theo tự điển của ông Nguyễn Văn Khôn
thì chữ “sen” dùng để chỉ người giúp việc trong nhà. Trong xã hội
Việt Nam vào thời cận đại thì người giúp việc trong nhà thường
được đảm nhận bởi các cô gái nhà quê, kém học thức hay không muốn
nói là thất học. đa số, họ vì miếng cơm manh áo và lánh nạn chiến
tranh nên phải trôi giạt lên thành phố. Vì kém học thức nên họ
chỉ tìm được những việc nặng nhọc tay chân mà đa số là giúp việc
nhà cho các gia đình giàu có hoặc trong các cửa hàng. Qua hai giả
thuyết trên, chúng ta thấy xuất xứ của chữ “sến” hoàn toàn khác
biệt nhau, một giả thuyết dựa trên ngoại ngữ và một giả thuyết
dựa trên Việt ngữ. Tuy nhiên, điểm tương đồng giữa hai giả thuyết
này là sự tầm thường. Cũng có thể vì kiến thức kém cỏi nên các
cô gái giúp việc trong nhà hấp thụ cái gọi là “văn minh tây phương”
khác với dân sành điệu. Họ thu nhận văn hóa tây phương theo cái
nhìn của một người dân quê vốn chất phác đơn giản, mà cách ăn mặc
theo thời trang là một thí dụ điển hình nhất. Thông thường nữ giới
ưa chuộng mỹ phẩm, mà các cô hành nghề giúp việc cũng không phải
là ngoại lệ, ít nhiều các cô cũng để ý nhận xét cách ăn mặc, các
loại mỹ phẩm trang sức mà bà chủ hoặc cô chủ sử dụng hằng ngày.
Ngoài ra vì tài chánh eo hẹp nên họ chỉ đủ sức với tay đến các
loại mỹ phẩm hoặc các loại quần áo rẻ tiền. Với lối trang sức này,
đôi khi tạo nên những hình ảnh khôi hài. Vì đa số họ là gái quê
nên tính tình chất phác mộc mạc, thật thà nên đôi khi trở thành
ngớ ngẩn buồn cười, người đời vì thế gán cho cái tên “sến” chăng?
Người dân miền nam nói riêng, Việt Nam nói chung thường có khuynh
hướng diễn tả viển vông, mà trong ngôn ngữ bình dân thường gọi
“nói lòng vòng” hoặc “nói gần nói xa”; đây là một lối nói bắt người
nghe phải suy nghĩ nên thay vì so sánh hay xếp hạng một cá nhân
nào đó vào tầng lớp “sen” thì họ đọc trại thành “sến” chăng? Hay
phải chăng họ e ngại khi gọi đích danh “sen” mà phải nói trại thành
“sến”?. Cuộc đời của các cô gái làm công này tuy khổ cực nhưng
không hẳn là họ không biết rung động. Theo lời các trưởng lão thì
ngày xưa, cái thuở mà tiện nghi tân tiến chưa du nhập vào Việt
Nam, thì mỗi chiều, sau khi hoàn tất các công việc trong nhà, các
cô phải quảy gánh ra giếng nước hoặc các vòi nước công cộng mà
người bình dân thường hay gọi phông-tên (fontaine). Tuy họ kém
học thức nhưng họ cũng biết rung động như bao người khác, những
mối tình “gánh nước đêm trăng” đã được ghi lại rất nhiều trong
văn chương. Những mối tình này cũng không đi ra ngoài định luật
thông thường, có người nên duyên đầm ấm, cũng có người tan vỡ,
đôi khi có cô còn bị vương vào những trái ngang bẽ bàng. Bút mực
của một số tác giả đã đổ xuống để nói lên cái nhọc nhằn bất công
của xã hội. Theo thiển ý của người viết có lẽ trong một lúc nào
đó các ông nhà báo vui tính ghép chữ marie vào chữ sến để làm câu
chuyện vui trong ngày nhân dịp một “xì căng đang” (scandal) nào
đó. Đến đây, chữ “sến” chỉ là danh từ, dùng để diễn tả một hạng
người, một tầng lớp trong xã hội Việt Nam, nó không hàm ý mỉa mai
hay châm biếm.
Nhưng khi chữ “sến” được người đời chấp nhận trong ngôn ngữ hàng
ngày và biến chuyển dần dà thành tiếng tĩnh từ thì nó lại mang
một ý nghĩa không mấy thiện cảm, đôi khi mang lại nhiều bực mình
khó chịu. Khi “sến” là tiếng tĩnh từ thì nó diễn tả tình trạng
thiếu hài hòa hoặc thiếu óc thẩm mỹ, hoặc tầm thường, hoặc dị hợm
khó coi. “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”, sến khởi đầu là hiền lành
vô tội vạ nhưng dần dà “sến” biến thành những lố lăng khó coi mà
điều quan trọng bậc nhất là người “sến” thường rất tự hào “ngon
lành”. Sến không phân biệt tuổi tác, trình độ học vấn, cũng không
phân biệt ngành nghề và chức sắc trong xã hội. Sến đã lan tràn
khắp nơi, và nhất là không phân biệt phái tính. Chữ “sến” ngày
nay không giới hạn cho phái nữ mà nó cũng được áp dụng cho cả nam
giới. Nếu một anh chàng ăn mặc lòe loẹt với áo hoa, màu sắc sặc
sỡ, tóc chải mượt mà cùng cặp kính râm, chắc hẳn thiên hạ sẽ phê
phán “thằng cha đó sến thiệt!”. Hơn thế nữa, ngoài việc diễn tả
cách trang sức, trong vài trường hợp, chữ “sến” cũng được dùng
để diễn tả một hành vi khôi hài khác thường mà ai đó đã thu lượm
từ một vài lớp tuồng cải lương, tuy vậy sến không đi đôi cùng cải
lương. Nếu một ai đó lượm lặt vài câu hát hay câu nói văn hoa trong
một tuồng cải lương thì sớm muộn người ấy sẽ bị phê bình “sến quá
“.Hoặc trong trường hợp; bất luận nam nữ, sử dụng các sáo ngữ không
đúng chỗ thì bị phán ngay là “sến” để thay cho thành ngữ “dốt hay
nói chữ “; một thành ngữ có tác dụng khiêu khích khá mạnh. Một
thanh niên, một học sinh trung học đang tuổi “biết đợi biết chờ”
rất sợ chữ “sến”; nếu không may, những chiếc áo dài trắng phán
rằng “đằng ấy sến quá “ thì đường tình duyên của anh ta chắc chắn
không dài bao nhiêu, đôi khi bị bế tắt hoàn toàn là khác. Hoặc
khi, bạn bè chế nhạo người bạn rằng “ con bé đó sến quá “ thì chắc
rằng anh chàng kép sẽ không mấy hài lòng.
Ngôn ngữ phát triển đồng thời với những phát triển về mặt xã hội
và văn hóa, chúng ta hẳn còn nhớ những câu nói như “sức mấy”, “bỏ
qua đi tám”, “năm trên năm”, “ còn lâu”, v.v.. Chữ “sến” cũng không
phải là một trường hợp đặc biệt. Sau khi xuất hiện một thời gian,
“sến” biến dạng, đi từ một danh từ sang tĩnh từ để diễn tả từ hiện
thực đến trừu tượng. Tôi vẫn còn nhớ rõ, khi còn theo học trung
học vào những năm 1968 - 1970; có lần ba tôi đã rầy “sến là cái
gì?”. Thú thật cho đến ngày nay tôi hãy còn mập mờ chưa thấu rõ
định nghĩa chính xác của chữ này. Ngoài nhận định về cách phục
sức, người miền nam dần dà theo đà phát triển của xã hội đã dùng
chữ “sến” để diễn tả những câu nói vô duyên, thiếu cảm tình hoặc
những sáo ngữ không đúng chỗ. Một cách tổng quát, nếu người đời
không thích một cá nhân vì tánh chất tầm thường, thiếu hài hòa,
vì một hành vi lố lăng khó coi, vì trong cách ăn nói giao thiệp
thiếu sót tính chất lịch sự tao nhã và lễ độ đều bị phán rằng “SẾN”.
Tại thành phố Sàigòn, vào những năm trước ngày tháng 4, 1975,
chữ sến đã được kết hôn với âm nhạc tạo thành một giai điệu gọi
là “nhạc sến”. Làm thế nào để định nghĩa “nhạc sến”?, mặc dầu rất
thông dụng trong dân gian. Đa số các bản nhạc sến được viết theo
giai điệu Rhumba, Bolero, Ballade đôi khi được kết hợp với giai
điệu của ngũ cung mà đàn tranh và đàn độc huyền không thể thiếu.
Lời nhạc sến rất đơn giản, mộc mạc, rất thịnh hành nơi “phông tên”,
bến xe đò, bến xe buýt, tại chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối, bến
đò Thủ Thiêm, Chợ An đông v.v... Vì lẽ đó tất cả các bài hát nào,
thể loại nhạc nào được các chị gánh nước, các chú phu xích lô hay
thợ thuyền; nôm na gọi chung là giới bình dân, ưa thích và hát
nghêu ngao trong những lúc rảnh rỗi đều được gọi là nhạc sến. Điều
này rất hiển nhiên, mấy ai đã chứng kiến giới bình dân hát ”Nắng
có hồng bằng đôi môi em, mưa có buồn bằng đôi mắt em” ( Như cánh
vạc bay - Trịnh Công Sơn ) hay “ Một mai em đi ngày tháng bơ vơ
giận hờn” ( Một mai em đi - Trường Sa) hoặc ”Từ giã hoàng hôn trong
mắt em, tôi đi tìm những phố không đèn” ( Mái tóc dạ hương ).
Không riêng gì các loại nhạc khác tại Saigon, đa số nhạc sến vẫn
xoay quanh những bản tình ca viết cho những dang dở, các ca khúc
diễn tả một cuộc tình mà đôi tình nhân phải chịu những cảnh bẽ
bàng vì những môn đăng hộ đối, vì những khó khăn trong cuộc đời.
Bài hát mang tính than thở kể lể dài dòng về cuộc đời éo le, lòng
người thay đổi nhanh như những lúc trời chợt nắng mưa.
“ tại anh đó nên duyên mình dở dang, em, em nào mộng
mơ quyền quý cao sang”
“ ngày xưa mỗi lần em buông tiếng hát. Thì anh tay
phím nắn nót cung đàn. Từng nhịp nhặt khoan anh ru hồn theo tiếng
tơ. Nhẹ nhàng lời ca em thăng trầm theo từng lúc. Và rồi hờn
yêu anh mỗi lần em hát sai, em nũng nịu cười nói sai là tại anh
“ ( Giọng ca dĩ vãng )
“ buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa
vào đời” ( Nửa đêm ngoài phố )
“vừa biết mai này em đi lấy chồng, thương hoài bến đò thương
cả dòng sông, ngày vu quy em đã đến, buồn chi em ơi đừng khóc,
chớ lo gì đã có người thay” ( Tiễn em theo chồng )
“ em có còn thương nhớ gì không, trong những đêm lạnh giá
canh dài, một mình lẻ bóng đơn côi, lời yêu ai đành gian dối,
kỷ niệm đầu che khuất vành môi” ( Tình đời II )
Trong tình trường, đa số các cô gái hay các chàng trong kiếp nghèo
phải gánh chịu đau thương, đôi khi lại là do hoàn cảnh chinh chiên
điêu linh mang lại.
“đêm đêm tôi vẫn về bên mùi hương hoa sứ, nâng niu cây đa
n đìu hiu thương mối tình đầu. Bơ vơ tiếng đàn lời ca em về đâu,
đàn ngân lênh buồn tênh rớt rơi cung sầu” (Hoa sứ nhà nàng)
“.. chiều nay tôi về thăm mái nhà xưa, tìm em nhưng em còn
đâu nữa, người xưa đã sang ngang rồi, một mình chiều nay trên
lối nhỏ ngập lá bay, chợt nhìn giàn hoa leo quanh nhà đang nở
tím, kỷ niệm ngày xưa trong tim nghe quá chua cay, lặng buồn
tôi quay gót bỗng thoáng nghe lệ ướt mi” ( Căn nhà dĩ vãng
)
“ Một hôm tôi đến tìm em để từ giã lên đường. Gửi
lại phố phường chuyện đôi mình thương mai xa cách ngàn phương.
Cuộc đời sương gió, chiến chinh nơi miền xa qua những vùng xa
lạ quá - Quê hương bao la, những chiều đóng quân ven rừng, gặp
hoa trắng ngày xưa thương em nói sao cho vừa” ( Nguời em
xóm đạo )
Tương tự như các thể loại nhạc khác, nhạc sến cũng có các danh
ca chuyên trị . Chắc không ai phủ nhận ca khúc “Nỗi buồn gác trọ”.
không thể thiếu nữ ca sĩ Phương Dung, và cô ca si này không thể
nổi tiếng nếu không có bài hát này. Cũng như nếu không có Chế Linh,
Thanh Tuyền, Giang Tử, Giáng Thu, Thiên Trang, Giao Linh v.v. thì
nhạc sến chắc không thể đạt đến tột đỉnh trong xã hội Nam Việt
Nam. Với một cấu trúc đơn giản, giai điệu trầm bổng nhịp nhàng
gần gũi với cổ nhạc nam phần, lời ca man mác mang màu sắc bình
dân, nặng về kể lể sướt mướt mà các nhạc si trứ danh như Trúc Phương,
Tú Nhi, Lam Phương, Duy Khánh, Mạnh Phát, Châu Kỳ, Hoài Linh v.v.
đã đóng góp một phần không nhỏ cho nền âm nhạc Việt Nam. Họ đã
tạo cho âm nhạc Việt Nam một sắc thái đặc biệt, nhất là sự hài
hòa, kết hôn giữa các giai điệu tây phương và cổ nhạc Việt Nam.
Chắc chắn khán giả sẽ không mấy hài lòng nếu một số ca khúc thuộc
“nhạc sến” mà thiếu đàn tranh hay độc huyền cầm thì như “chết nửa
đời người”, như một tô phở thiếu hành ngò, độc đáo hơn nữa nếu
bài “ Nhớ người yêu” không được người ca sĩ ngâm nga mở đầu bằng
bốn câu thơ
nhiều đêm thức trọn nhớ thương em
nhớ quá làm sao biết ngõ tìm
tay trắng anh nào mơ với mộng
nên tình hai đứa vẫn chưa yên
thì mất cả cái hương vị, mất cái độc đáo của “nhạc sến”.
Trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, những người thuộc từng
lớp trí thức dường như có khuynh hướng tôn trọng các tiến bộ tây
phương và dễ dàng chấp nhận các tư tưởng mới du nhập. Hiện tượng
này là thành quả của chế độ giáo dục khắc khe của thực dân Pháp,
áp dụng trên quê hương Việt Nam, các nhà trí thức được đào tạo
trong khuôn khổ của văn hóa Pháp, họ nói tiếng Phÿp (hoặc ngoại
ngữ) trôi chảy và nhất là chiếm được các chức sắc trong chính quyền
từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng. Tuy vậy, vấn đề đặt ra không
phải vi lẽ đó mà tầng lớp trí thức bỏ quên nguồn gốc Việt Nam.
Nếu chúng ta nhìn lại trong lịch sử, đã có không ít các nhà trí
thức vẫn tìm cách bảo tồn văn hóa Việt Nam, hiện tượng này gây
nên sự xung đột trong xã hội, mà bút mực đã đổ ra không ít. Cuộc
tranh chấp được thu gọn trong các thành ngữ rất quen thuộc như
“ đã cựu nghênh tân” cùng “thủ cựu bài tân”, “xung đột cũ mới”.
v.v. Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết này, người viết không có
ý quy trách nhiệm cho một ai, không phân tích phải trái, nhưng
đây là tiền đề để những người thiếu hiểu biết, những kẻ ham danh
lợi, đã cố tình tự biên tự diễn để được người đời kính nể như một
trí thức thật sự, nhưng bản chất là một trí thức thuộc loại “nổ”
. Để tỏ ra một trí thức thời thượng, họ đã tập tành nói ngoại ngữ,
họ hành sự như một người hấp thụ văn hóa Pháp hay Tây phương nói
chung, coi rẻ những gì bình dân, mang bản chất dân tộc tính. Trong
văn học, chúng ta vẫn tìm thấy rải rác các nhân vật này trong các
thiên tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, và nhiều hơn nữa trong
các vở tuồng cải lương mà “đời cô Lựu” là một điển hình. Gần đây
nhất, Nguyễn ngọc Ngạn cũng đã đề cập đến trong tác phẩm “Cõi đêm”,
tuy rằng bối cảnh và thời gian có khác nhau nhưng thực chất vẫn
không khác bao xa. Trong tình trạng đó, nhưng năm tháng trước 1975,
tại Saigon, dòng nhạc sến đã được xếp vào hàng bình dân, được xếp
vào nguồn giải trí cho tầng lớp “ Marie Phông Tên”. Vào thuở ấy,
một số người tự cảm thấy thuộc về tầng lớp trí thức rất ngại nghe
loại nhạc này. Họ tự cảm thấy rất “quê độ” khi bị người khác bắt
gặp khi đang nghe hay đang ngâm nga vài câu hát thuộc thể loại
nhạc này, mặc dầu trong tâm tư, một phần nào họ vẫn yêu thích nhạc
sến. Tình trạng này rất phổ biến nơi thành thị nhất là tại Saigon,
người đời có khuynh hướng dè bỉu những gì mang phong cách bình
dân, những gì mang dân tộc tính, những gì dễ hiểu của đại chúng.
Hiện tượng này, chẳng qua là do sự du nhập của các chủ thuyết,
triết lý của những Paul-Sartre, André Gide v.v. đồng thời các tiểu
thuyết gia gốc Mỹ như Henry Miller, John Steinback, các thiên tiểu
thuyết lãng mạn như “Gone with the wind” (Cuốn theo chiều gió)
hay “Doctor Zivago”. Trong âm nhạc, để tỏ ra thời thượng, sành
điệu, giới trí thức đứng tuổi thưởng thức những Beethoven, Mozart,
và nhạc cổ điển tây phương nói chung, trong khi giới trẻ đón nhận
làn sóng mới với cái gọi là “hippy” với những Francois Hardy, Sylvie
Vartan, Johny Halliday, Christophe, Art Sulivan của Pháp. Song
song, vơi dòng nhạc ấy, một làn gió mới đã theo chân các chàng
chiến binh xứ cờ hoa tràn vào Việt Nam với The Beattle của Anh,
hay Lobo, The Three Dogs night, Bee Gees, v.v.. Trong giai đoạn
ấy, thanh niên với mái tóc dài đi đôi với chiếc quần ống loa, thanh
nữ với chiếc váy ngắn và mái tóc ngắn nhưng dây nịt quần thì lại
to bản cồng kềnh, họ cuống quýt theo dòng “nhạc trẻ” . Lẽ đương
nhiên nếu những ai trong bọn họ cất tiêng hát
“Thức trọn đêm nay để nhớ thương em, anh nghe tình yêu nhắc
nhở êm đê m, nhớ từng nụ cười ánh mắt nhớ lời ngọt ngào âu yếm
tóc em thơm giấc ngủ dịu hiền” (Nhớ người yêu)
thì ”sến là cái chắc”.
Cũng trong giai đoạn này, giới sành điệu về âm nhạc được phân
định một cách rất rõ ràng. Giới trung lưu ở thành phố hay giới
sinh viên học sinh thì đón nhận và ủng hộ các ca khúc thuộc loại
thời thượng, trưởng giả . Các ca khúc này được trình bày tại các
vũ trường với lời lẽ văn hoa trau chuốt cùng các giai điệu hiểm
hóc. Trong khi đó giới bình dân và lính tráng thì đón nhận và ủng
hộ nồng nhiệt dòng nhạc sến. Mặc dầu vậy, tuy không chính thức
thành văn bản trong các thống kê, nhưng ai cũng ngầm hiểu rằng
một số không nhỏ giới sành điệu trong tầng lớp trung lưu trí thức
kể trên vẫn ái mộ nhạc sến. Họ mến mộ nhạc sến, nhưng không dám
chánh thức vỗ ngực thố lộ vì sợ bị chê bai là “ đồ cải lương”,
“ sến thiệt”. Họ phải tỏ ra sành điệu với các điệu nhạc của Trịnh
Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Lê Uyên Phương, Vũ Thành An, Trường Sa
( trước khi chuyển qua viết tình ca, nhạc sĩ Trường Sa đã sáng
tác một số ca khúc thuộc loại.... nhạc sến), Lê Hựu Hà, Nguyễn
Trung Cang v.v. đây cũng là giai đoạn mà hiện tượng hippy bắt đầu
viếng thăm đất Giao Chỉ, nó kéo theo vào xứ An Nam một luồng gió
mới, nó đã tạo một hiện tượng lạ đánh vào giới thanh niên miền
Nam, mà hậu quả là dòng “nhạc trẻ” được khai sanh trên miền nam
Việt Nam. Thời điểm “hippy” thịnh hành cũng là lúc chiến tranh
leo thang tột đỉnh và tàn khốc nhất, đây là lúc mà chủ đề người
lính trận miền xa được nhắc đến nhiều nhất mà không một thể loại
nhạc nào khác có thể đáp ứng kịp thời bằng dòng nhạc sến với những
“Ngoại ô buồn”, “Ngày sau sẽ ra sao”, “Ba tháng quân trường”, “Thư
vê em gái thành đô”, “Căn nhà ngoại ô”, “Thành phố buồn”, “Biển
mặn”, “Chung mình 3 đứa”, “Vọng gác đêm sương”, v.v. Những lúc
cô đơn nơi tiền đồn heo hút, ăn ngủ và chiến đấu trong các giao
thông hào và hố cá nhân, chắc chắn những Mozart, Beethoven hay
Beattle, Adamo, Art Sulivan, Andy Gibbs không thể nào cảm thông
với tâm tư của người lính trận bằng giọng ca của Chế Linh, Nhật
Trường, Phương Hồng Quế, Thiên Trang, Thanh Tuyền, Giao Linh v.v..
Thời gian cứ trôi, những ảnh hưởng tân thời, hoàn tất công trình
chinh phục trong cấp thời phải trả lại cái thân thuộc, cái âm hưởng
và những giai điệu quê hương. Ngay trong các tầng lớp; tự xưng
là trí thức cao cấp kể trên cũng có người dần cảm nhận được vài
nét trong thứ âm nhạc tâ m thường kia. Thiển nghĩ, một sinh viên
phải nhập ngũ theo lệnh Tổng Động Viên, anh phải giã tư mái tóc
dài xum xuê, chiếc áo sơ mi cổ to, chiếc quần ống loa với đôi giâ
y da đế cao to bản để khoác lên mình bộ đồ trận màu hoa rừng, thi
bài hát “Ba tháng quân trường” và “Vườn tao ngộ” có lẽ dễ gây xúc
động hơn ca khúc “Aline”, “Belle” hay “Adieu sois heureuse” hoặc
“Yesterday”, “Let it be” hay “Imagine”. Sau thời gian huấn luyện,
đến lúc ra đơn vị tác chiến thì ”Thư về em gái thành đô” hay “Vọng
gác đêm sương” sẽ chạm va o thần kinh cảm xúc mạnh hơn nữa. Nhất
là nhưng khi nhìn thây cảnh tang thương nơi chiến trường, nặng
tình đồng đội hay nhìn bạn đồng ngũ ngã gục thì những “Nó và tôi”,
“Thành phố sau lưng”, “Trăng tàn trên hè phô” chắc chắn sẽ đi vào
lòng người đậm nét hơn. Song song với hình ảnh chiên tranh, không
thể bỏ quên nhưng tâm tình yêu thương của người em gái hậu phương
và người lính trẻ miền xa với :
“viết tên người yêu lên ba lô nặng trĩu”
hay “ thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay”.
( Thư của lính - Trần thiện Thanh )
“chiều nhìn qua đầu ngõ, dưng dưng niềm thương nhớ dáng xinh
xinh một người
được nghĩ năm ngày phép, mất hai hôm làm quen, em mới cho
mình biết tên” ( Căn nhà màu tím )
Đã sinh ra và trưởng thành tại Nam Việt Nam, ít nhiều trong tâm
tư của người dân cũng phảng phất đâu đó hồn phách của ca dao, câu
hò, câu vọng cổ, Dạ Cổ Hoài Lang. Tâm trạng phức tạp của giai điệu
quê hương cũng không thua kem gì so với những bài giao hưởng của
Mozart hay Chopin. Các ca khúc “sến” kia được viết bởi chính tâm
tư, bởi chính tiếng lòng của người sáng tác. Hoặc như có sinh sống
trong thời điểm đó, có nhìn thấy và cảm nhận trong hoàn cảnh đó
thì mới nhận thức được giá trị nghệ thuật mà người nhạc sĩ đã cưu
mang trong nhạc sến. Hơn nữa, với một tập thể đông đảo lính tráng
vào thời điểm đó, nhất là bản chất người lính không thích rườm
rà lôi thôi, nên việc nhạc sến được đón nhận nồng nhiệt là điều
không thể chối cãi được, nó đã dần chiếm lại các vị trí đã mất
trong xã hội vào những ngày trước. Thuở ấy, trong chương trình
Hát cho lính của đài phát thanh Saigon với tiết mục nhạc yêu cầu,
thể loại nhạc sến dường như chiếm đa số.
Ngoài những đề tài “viết cho lính”, nhạc sến cũng là một đối thủ
của các bài tình ca vào thuở đó, dòng nhạc cũng rất trữ tình không
thua các thể loại khác.
“ con đường xưa em đi - vàng lên mái tóc thề - ngõ hồn dâng
tái tê - anh làm thơ vu quy - khách qua đường lắng nghe - chuyện
tình ta đã ghi” ( Con đường xưa em đi )
Một đặc điểm khác của nhạc sến đó là cái âm hưởng của các câu
hò, câu đối; toàn bài hát có vần điệu đi theo nhau
“một bước xa rời muôn kiếp ly tan, một cánh thiệp hồng khiến
người sang ngang - Mười hai bến nước thênh thang, từ nay đôi
nẻo quan san - Khóc cho đời bạc trắng lửa hồng” ( Bạc trắng
lửa hồng )
“chiều nào nâng ly bôi, tình vừa mới chắp nối, chia ly mà
không nói nhau một lời, để rồi bao năm sau, phong sương mòn vai
áo, nhớ cố nhân muốn tìm tạ lòng nhau” ( Chuyện đêm mưa
)
“giờ em đi lấy chồng, còn đâu mà trông ngóng, đẹp duyên em
với chồng, xây cuộc đời đầm ấm, để anh tan nát lòng” ( Được tin
em lấy chồng )
Nhạc sến là kết tinh của giai điệu, lời nhạc và tài diễn xuất
của người ca sĩ cùng phương thức hòa âm. Tuy rằng một số ca khúc
không thuộc giai điệu Bolero hay Rhumba, nhưng với lối diễn xuất
và nghệ thuật hòa âm độc đáo nó vẫn “sến”. Không ai chối cãi được
tài diễn xuất của nam ca sĩ Chế Linh khi anh cất tiếng hát
“em khóc đi em, khóc nữa đi em, khóc để rồi mai mỗi người
một đường - Tình mãi còn vương một điệu nhạc buồn, có ai thấu
từng đêm trường - Ôm bóng mà thương” trong nhạc phẩm “Em
khóc đi em” với giai điệu slow rock.
Ngược lại nếu một nhạc sĩ nào đó sửa đổi phương thức hòa âm theo
tiết điệu khác và giao cho nam ca sĩ Vũ Khanh hoặc Duy Trác để
trình bày nhạc phẩm “Em khóc đi em” này hoặc “ Thành phố buồn”
thì chắc chắn thính giả sẽ nhăn mặt. Cũng có thể thính giả sẽ phê
phán rằng Vũ Khanh hay Duy Trác “hôm nay sến thiệt”. Điển hình,
là trong một album phát hành vào khoảng năm 1995, nữ ca sĩ Carol
Kim đã trình diễn bài “Giọng ca dĩ vãng” với một tiết tấu khác
biệt. Tài diễn xuất và lối hòa âm này đã thay hình đổi hình thức
của ca khúc thuộc hàng nhạc sến. Trong khi vào những năm tháng
thịnh hành tại Saigon, giọng hát của nam ca sĩ Chế Linh đã đưa
bài hát này lên hàng nhạc sến. Một minh chứng khác là trong chương
trình Thúy Nga, nghệ sĩ La thoại Tân đã giới thiệu tài diễn xuất
của nam ca sĩ Chế Linh trong nhạc phẩm “ Mười năm tình cũ” của
nhạc sĩ Trần Quảng Nam, qua lối hòa âm và tài diễn xuất của người
ca sĩ, người viết thiển nghĩ không thể dựa trên sự trình bày của
nam ca sĩ Chế Linh mà ta vội kết luận rằng bài hát “Mười năm tình
cũ” thuộc hàng nhạc sến. Trong khi đó với tài diễn xuất của nam
ca sĩ Vũ Khanh hay nữ ca sĩ Lệ Thu thì bài hát trên cũng không
thể xếp vào hàng nhạc sến được, nhưng cũng rất có thể khán giả
cho rằng Vũ Khanh và Lệ Thu là ca sĩ “sến” chăng?.. Câu trả lời,
hiển nhiên là không!
Trong lòng nhạc sến, dường như chất chứa tình cảm của giới bình
dân, có lẽ nhạc sến tối kỵ các chàng, các cô con nhà giàu. Đa số
các chuyện dở dang, lỡ làng đều do thân phận nghèo mà ra nên trong
một chương trình ca nhạc của trung tâm ASIA, ban tổ chức đã cho
xuất hiện trên sân khấu ba chàng ca sĩ lừng danh nhạc sến: Trường
Vũ, Mạnh đình và Mạnh Quỳnh với “Liên khúc nghèo”. Tuy rằng ba
chàng ca sĩ này ăn mặc có phần sang trọng, nhưng không phải vì
lẽ đó mà không “sến”.
Để kết luận hay khép một ca khúc vào hàng nhạc sến ta phải quan
sát và phân tích kỹ lưỡng, bài hát phải hội đủ sự kết hợp của giai
điệu, lời nhạc, nghệ thuật hòa âm và tài diễn xuất của ca sĩ. Thiếu
một trong những yếu tố trên, ta khó mà kết luận đó là nhạc sến.
Nhưng đôi khi vì thiếu hài hòa mà thiên hạ lại phán rằng “sến thiệt”.
Người viết không tìm ra được danh từ nào để diễn tả nếu một bài
nhạc sến sau khi trình bày gặp phải lời phê “sến thiệt”. Vì lẽ
đã là nhạc sến thì phải “sến”. Thưa rằng, nhạc sến là danh từ và
“sến thiệt” thì lại là tĩnh từ. Quả thật đây là cái vòng lẩn quẩn
của ngôn ngữ. Khi ta nghe Chế Linh, Trường Vũ, Mạnh Quỳnh cất tiếng
cho bài hát “Bông sứ nhà nàng” thì ngươi viết dám chắc sẽ có người
“rưng rưng”, nhưng nếu giao cho Tuấn Ngọc thì chắc chắn không phải
một vài người mà có lẽ tất cả khán giả sẽ “cười lọt ghế “ hay “lọt
tròng” (tuy rằng người ta nghe bằng tai ), và câu nói đầu tiên
sẽ là “sến thiệt” hay “sến quá “ cao hơn nữa sẽ là “sến quá cỡ
thợ mộc” hay “sến thầy chạy”. Ngoài việc cất tiếng hát, ta không
thể bỏ qua lối trình diễn của người ca sĩ. Thí dụ điển hình là
chương tình “Tình ca Ngô Thụy Miên” với bài hát “Từ giọng hát em”.
Thuở xưa đã có bao người bủn rủn tay chân, ngất ngây “từ giọng
hát em” (một sự trùng hợp đầy lý thú) với giọng ca thánh thót của
nữ ca sĩ Châu Hà. Mặc dầu khi sáng tác, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên không
có ý định viết theo giai điệu nhạc sến, nhưng ngày nay trung tâm
Thúy Nga dàn dựng một màn quả không giống ai, người viết dám chắc
có người đã nổi da gà khi thấy cô ca sĩ cùng một số vũ công “lắc
lư con tàu đi” mà người bình dân vẫn gọi là “phăng” (fantasie).
Không hiểu nhạc sĩ Ngô Thụy Miên nghĩ thế nào chứ riêng ngươi viết
thì cảm thấy tệ quá. Một ca khúc được viết trong một giai điệu
du dương êm ái, với lời ca chất chứa đầy yêu thương lãng mạn lại
bị một tay “sến” hòa âm nên các nhạc công ra sức đập rầm rầm, chát
chúa. Đã thế cô ca sĩ lại bò càng trên sân khấu cho có vẻ thời
thượng như Madona, hay Micheal Jakson chăng?. Không hiểu khán giả
nghĩ sao lại vỗ tay ầm lên? Phải chăng vì sợ dè bỉu là chậm tiến,
là nhà quê mà các cô cậu trở thành “sến hết ý “.
Tiêu chuẩn chê khen tùy thuộc vào cá nhân người nghe, nhưng nhận
xét chung cho thấy người nhạc sĩ có thể sáng tác theo nhiều thể
loại khác nhau tùy theo nguồn cảm hứng của họ . Nhạc sĩ Lam Phương
đã viết bài “Cho em quên tuổi ngọc” và bài “Tiếc” mà trong đó giai
điệu và tiết tấu cùng lời ca hoàn toàn không phải đặc thù “Lam
Phương”. Vì vậy ta không thể dựa trên lời nhạc để kết luận rằng
bài hát thuộc hàng sến. Nếu ai phủ nhận thì hãy đọc lại hay hát
lại bài “Hai năm tình lận đận” (Thơ Nguyễn Tất Nhiên - Nhạc Phạm
Duy) với
“hai năm tình lận đận, hai đứa cùng hư hao.... hai
năm tình lận đận hai đứa cùng xanh xao”...
Thế thì “sến thượng thừa” rồi đấy chứ! Ai bảo Phạm Duy không sến!
(xin được diễn tả theo ngôn ngữ miền Bắc). Giả như cụ Phạm đổ lỗi
cho thi sĩ thì quả không công bằng vì lẽ cụ có “sến” cụ mới thấy
hay mà phổ nhạc nên sáng tác của cụ được gọi là nhạc sến thì đó
là điều hiển nhiên.
Khác với các dòng nhạc khác; người viết xin tạm gọi “trưởng giả”
để đối lại với cái tính “bình dân” của nhạc sến; thì nhạc sến đã
thật sự đi sâu vào tâm tư của dân chúng nhiều hơn hết. Nếu như
chỉ dạo nhạc không lời và mời một số người Việt Nam; không phân
biệt giai cấp đến thưởng thức thì chắc chắn những giai điệu của
nhạc sến sẽ được người nghe dễ nhận biết hơn dòng nhạc trưởng giả.
Ngoài ra đặc điểm căn bản của nhạc sến là lời ca đơn giản dễ hiểu,
nên được nhiều người ghi nhớ. Trong khi đó, dòng nhạc trưởng giả
với lời nhạc trau chuốt, bóng bẩy như
“.. sao mắt nhung không nuối tiếc khát khao đợi chờ...” (Chiều
nay không có em - Ngô Thụy Miên),
“..tình ái không xanh như thơ, đến trong hơi thở , rồi trôi
rất xa...” (Hạnh phúc lang thang)
hay
“.. Nét son dở dang môi sầu, ngõ hoang bước chân gục đầu...” (
Nét son buồn).
Đôi khi lại đầy bí ẩn, đôi khi mang sắc thái triết học và tôn
giáo
“Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi” (Trinh
Công Sơn)
hay
“Ôm lòng đêm nhìn vầng trăng mới về nhớ chân giang hồ - Ôi
phù dù từng tuổi xuân đã già một ngày kia đến bờ, đời người như
gió qua” ( Phôi Pha - Trinh Công Sơn),
thì lẽ đương nhiên khó nhớ khó hát hơn vì giai điệu trầm bổng
hiểm hóc.Các cô cậu thuộc tầng lớp bình dân chắc chắn sẽ lắc đầu
nguầy nguậy “ay da cái quái gì mà rắc rối khó hiểu quá!” . Độc
đáo hơn, nhạc sến đã được giới bình dân đón nhận nồng hậu, và cũng
chính giới bình dân này đã tái tạo nhạc sến thành một giai điệu
trào phúng mà khán thính giả đã không nhịn được cười. Dòng nhạc
trào phúng này, với một số nhỏ đa được các danh hài sửa đổi chút
đỉnh trước khi trình diễn trước công chúng, kết quả ra sao thì
người viết không cần biện chứng. Như đã trình bày, nhạc sến thịnh
hành và nổi tiếng nhờ tập thể quân đội thì cũng chính tập thể này
cũng đã thay lời để phù hợp với cái éo le, cái bẽ bàng trong đời
chinh chiến “sống nay chết mai”. Những giây phút dừng quân, với
vài câu hát châm biếm, pha trò từ các bài nhạc sến dễ đem lại sinh
khí cho người lính trong giây phút đó hơn là dòng nhạc trưởng giả
. Trong chương trình ca nhạc do trung tâm Thúy Nga thực hiện với
chủ đề nhạc Lam Phương, người nhạc sĩ tài hoa này đã phát biểu
rằng “Tôi rất vui vì nhận thấy rằng dòng nhạc của tôi đã thực sự
đi vào lòng đại chúng”, để trả lời cho câu hỏi của người điều khiển
chương trình khi ông ta đặt câu hỏi về cảm nghĩ của nhạc sĩ Lam
Phương một khi nhạc của ông đã được thiên hạ “chế” lời khác như
“. giờ thì cũng yêu, mà yêu yếu xìu “. Quả thật, nếu nhạc
sến không thực sự đi vào lòng đại chúng thử hỏi tại sao văn chương
truyền khẩu Việt Nam lại có quá nhiều “nhạc chế” để làm cho thiên
hạ phải cười ngả cười nghiêng. Hai danh hề Vân Sơn & Bảo Liêm
gần như là vô địch trong sở trường này. Nhạc chế đôi khi cũng thật
thắm thiết và trong một vài trường hợp cũng không kém phần văn
hoa, châm biếm. Xin đơn cử một vài thí dụ điển hình với tính chất
trào phúng “huề vốn” như :
( Mùa đông của anh - Trần thiện Thanh )
....
Anh chỉ là người điên trong nhà thương Chợ Quán!
Anh chỉ là người đui bên đường em nhìn thấy
Em đi đi! Người câm không biết nói
Và người đui không thấy đường
....
( Nửa đêm ngoài phố - Trúc Phương)
Buồn vào hồn không tên
Thức giấc nửa đêm nhỏm dậy đi tìm đào
Tìm khắp xóm nhưng không gặp nàng nào
Làm tim gan tôi cồn cào
Đi tìm một nàng Marie
Tôi nhớ cái đêm nàng đi, dưới ánh đèn bên nhị tỳ
Nàng bước tới trao tôi khúc bánh mì
Mà tôi không ăn, muốn ăn con gà rô-ti
hoặc cay cú vì cuộc sống khó khăn đầy bất công đối với người lính
chiến
( Tỉnh lẻ đêm buồn - Tú Nhi & Bằng Giang )
Đã lâu rồi anh đi lính để nuôi em - Nhưng em chê tiền anh
ít.
Muốn xài sang, anh đi làm sở Mỹ kiếm Dollar về cho em xài.
Ở bên đó, em ơi có gì vui chỉ xin biên thơ về cho anh.
Mấy đêm nay rồi, anh đi binh xập xám, anh thua 2 ngàn tám,
em ơi biết cho anh, tiền lẻ không còn.
hay vì xã hội nhiễu nhương
( Tàu đêm Năm Cũ - Trúc Phương)
Trời mưa gần tàn
Tui xách hôn đa,đưa tiễn nàng đi ăn nhà hàng
Cầm giấy năm trăm tui hỏi nàng hôm nay tại sao
Thấy em hông được dzui biết rằng em chê tui nghèo....”
Trên đây chỉ là đơn cử vài thí dụ tiêu biểu cho dòng nhạc chế
bắt nguồn từ nhạc sến, thực sự trên thực tế đã có không biết bao
nhiêu bài nhạc chế như thế, dòng nhạc mang đủ loại sắc thái khác
nhau.Tuy rằng đây chỉ là văn chương truyền khẩu nhưng lan rộng
trong hầu hết các tầng lớp dân chúng từ bình dân đến trung lưu
trí thức. Như thế, để nhận thây rằng, nhạc sến quả đã đi sâu vào
lòng đại chúng. Có lẽ vì tính chất đại chúng và phổ thông nên nhạc
sĩ Lam Phương và nhạc sĩ Trường Sa đã gọi là dòng nhạc đại chúng
thay vì nhạc sến để trả lời câu hỏi của người điều khiển chương
trình trong một chương trình ca nhạc do trung tâm Thúy Nga thực
hiện.
Biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã làm tăng giá trị của dòng
nhạc sến này. Những gì thuộc về “trước 75” đều được đại đa số quần
chúng bảo tồn gìn giữ, người ta mở lòng ưu ái để đón nhận. Có lẽ
dòng nhạc này đã đem lại cho dân gian một chút tưởng niệm cho thời
vàng son đã qua, một chút kỷ niệm thời xa xưa. Nhạc sến giờ đây
đã chinh phục thêm một số thinh giả mà trước đây vẫn coi thường
hay e ngại. Giờ đây, ai ai cũng đều nhận rằng Văn Cao, Phạm Duy,
Dương thiệu Tước, Cung Tiến có cái tài thì Lam Phương, Trúc Phương,
Tú Nhi, Hoài Linh, Mạnh Phát v.v. cũng có cái tài riêng của họ
, không thể so sánh quả cam và trái táo. Trong dòng nhạc sến đó,
không ai có thể chối cãi được rằng các ca khúc như “Khúc ca ngày
mùa” (Lam Phương) “Xóm đêm” (Phạm đình Chương), “Ai lên xứ hoa
đào” (Hoàng Nguyên), “Nửa đêm ngoài phố” (Trúc Phương), “Thương
hoài ngàn năm” (Phạm mạnh Cương) v.v.. đã được liệt vào tuyệt tác
trong nền âm nhạc Việt Nam mà các nhạc sĩ thuộc trường phái khác
khó có thể sáng tác được.
Cuốn trôi theo vận mệnh của xứ sở, người Việt lưu vong tại những
nơi xa xôi ngàn dặm trông ngóng nhớ về quê hương, họ ráng tìm lại
chút kỷ niệm về cội nguồn qua chút gì còn sót lại trên các quyển
sách, vài băng nhạc thuở trước. Tại một nơi xa lạ về ngôn ngữ,
phong tục tập quán thì những món ăn tinh thần tuy đơn sơ nhưng
nó lại có khả năng giúp người nghe vẽ lại một quãng đời đã qua.
Nghe lại một bài hát, dù rằng ngày đó không mấy ưa thích vì nội
dung có phần tầm thường bình dân, nhưng trong hoàn cảnh mới; khi
quê nhà cách xa nửa vòng trái đất, tâm tư người nghe bỗng chùng
xuống.Lòng bỗng bồi hồi nhớ lại chuyện xưa, một nỗi buồn man mác
khó tả . Người viết dám chắc rằng sẽ có người trong số những người
tỵ nạn tại đệ tam quốc gia sẽ rơi vào cảnh “môi cười mà lệ như
rơi” khi bỗng nghe lại câu hát đơn sơ trào phúng như ”.. đồng Tháp
hết bóng hồng rồi còn ai yêu tui..” (Trên 4 vùng chiến thuật -
Duy Khánh). Riêng chính bản thân người viết bỗng nhớ đến cái thuở
nô đùa cùng đám bạn trong giờ ra chơi, trẻ trung và vô tư các chú
học sinh “ráng gân cổ” hát hò và cười vang trời. Bài hát “Thói
đời” được đổi lời tha nh “đường tương chao, tàu hủ, dưa leo, ai
chưa ăn chưa phải thầy chùa”. Ngày ấy chỉ là trò đùa nhưng bây
giờ là kỷ niệm. Kỷ niệm dầu vui hay buồn, khi nhớ lại đều bồi hồi.
Khi Hương Lan, Tuấn Vũ, Thái Châu, Mạnh đình v.v.. cất tiếng thì
bỗng từ đâu dòng kỷ niệm chợt trôi về trong tâm tư, như thế thì
đâu phải nhạc sến là tầm thường như bao người vẫn dè bỉu, nhạc
sến đâu phải “quá ẹ” như ngày xưa mình nghĩ. Thật ra, không phải
bài hát “quê mùa” của ngày xưa “dở ẹt” mà là vì nó đang trong tầm
tay với, là vì tâm tư người nghe chưa quyện vào lời nhạc nên không
cảm nhận được. Khi có mất mát, con người mới thấy cái giá trị của
nó. Thì ra những điệu nhạc quê mùa kia, những “sến nương” ngày
ấy là hiện thân của mơ hồ ràng buộc gắn bó với quê hương.
Theo nhận xét của ngươi viết thì văn chương, thơ phú và âm nhạc;
những gì nói lên được tiếng lòng thì sẽ được cảm nhận là hay. Những
ca khúc được viết cho ngườ i lính Cộng Hòa khi xưa dễ đem đến sự
thông cảm cho người nghe, có phải chăng tâm tư của người lính trận
hai miền nam bắc gần giống nhau nên họ đã tìm đến dòng nhạc này
để mơ hồ về một thuở và cũng để cùng thấy ray rức. Thêm vào đó,
nhưng tâm sự kể lể sướt mướt kia có lẽ đã nói lên được các đặc
điểm của xã hội nhiễu nhương, những tình tiết éo le của cuộc đời.
Phải chăng dòng nhạc đại chúng dần dà đã xoa dịu nỗi đau thương,
co tác dụng hàn gắn những vết thương trong lòng người Việt trôi
nổi theo dòng thăng trầm của lịch sử . Tiếng hát của Trường Vũ,
Mạnh Quỳnh, Như Quỳnh đã đi tận hang cùng ngõ hẻm của các khu phố
lao động tại Việt Nam ngày nay. Các ca sĩ chuyên trị dòng nhạc
đại chúng bình dân cũng được xếp vào hàng thượng thặng và cũng
được gọi là ca sĩ hàng đầu. Mỗi loại nhạc đều có sức thu hút riêng
và lẽ đương nhiên giới thưởng ngoạn âm nhạc cũng có cái thú riêng
cho từng loại nhạc. Ngày nay, nhạc đại chúng (hay nhạc sến) đã
được thanh thiếu niên trong cũng như ngoài nước đón nhận nồng nhiệt,
không những thế, họ công khai thưởng thức một cách thoải mái mà
không sợ một sự dè bỉu chê bai nào. Dòng nhạc đại chúng quả có
sức chinh phục phi thường sau bao năm thăng trầm của đất nước và
xã hội. Nếu không, dòng nhạc bình dân đại chúng đã tắt lịm từ lâu.Không
những thế, điều quan trọng là một số các nhạc sĩ trẻ trong và ngoài
nước đã tiếp tục sự nghiệp sáng tác trong hãnh diện. Thật vậy,
bản thân của nghệ thuật phát sinh từ tâm tư của con người, mà đã
là tâm tư của con người thì lẽ đương nhiên sẽ có kẻ thích người
chê. Khen và chê, từ ngàn xưa vẫn là vấn đề của khán thính giả,
vấn đề của người thưởng ngoạn, nhưng giờ đây đã đến lúc chúng ta
nên có một cái nhìn khoa học, một quan niệm chân chính, một thái
độ công minh cho dòng nhạc mang rất nhiều âm điệu và tình tự của
quê hương. Dòng nhạc nói lên bản chất và tiếng lòng của một dân
tộc, dòng nhạc mang sắc thái bình dân hiền hòa, phát sinh từ khối
óc con tim của người da và ng sinh sống trên dải đất nhỏ nhoi của
bán đảo Đông Dương; có tên gọi Việt Nam.
Hoàng Mai Phi
Montreal, tháng 6, 2006
|