Đông vừa qua Xuân mới về mang theo những cánh hoa anh đào đẹp
mỏng mảnh, trắng có hồng có, mới nở quanh bờ hồ Thủy Triều bên dòng
sông Potomac thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Chạnh lòng nhớ về Saigòn thân
yêu. Không ngờ Sàigòn đã mất đúng 29 năm rồi. Thời gian qua mau
quá. Hơn nửa tuổi đời, những hình ảnh Sàigòn vào những ngày cuối
tháng Tư vẫn còn sống động trong trí não tôi như mới vừa xảy ra
ngày nào.
Vào cuối tháng tư năm 75, tôi làm trưởng toán dẫn 3 chiếc Yabota
(ghe cây) thuộc Duyên đoàn 42 đóng hòn đảo Poulo Obi về Rạch Giá
đi chợ mua gạo, thức ăn khô phần nhiều cho duyên đoàn. Chờ ghe đi
chợ trở về đảo như chờ mẹ đi chợ về.
Thức ăn tuy quan trọng nhưng không bằng rượu đế và bia. Đồ ăn nếu
thiếu thì không sao, nhưng rượu về thiếu thì anh em ở đảo làm thịt
trưởng toán ngay. Ghe chất rượu nhiều hơn thức ăn. Thông thường
sau một đêm dân đảo uống sạch cả ghe rượu vừa đem về. Từ chỉ Huy
trưởng đến lính thuộc đài kiểm báo cao trên đỉnh núi và thuộc duyên
đoàn ở dưới chân núi đều xỉn cả.
Có lần cả đảo hết rượu khá lâu vì biển động ghe không đi vào đất
liền đi chợ được. Nghiện rượu quá, một nhóm anh em lấy alcohol của
y tá pha loãng với nước dừa tươi, nhậu cho đỡ ghiền. Sáng hôm sau
cả đám ôm bụng rên la lăn lộn dưới đất. Một anh chết vì alcohol
phá hoại ngũ tạng.
Dân Hải Quân gọi Poulo Obi (Hòn Khoai) là đảo Giáng Tiên vì nơi
đây xa cánh trần thế, không có thường dân ở, chỉ có trời và nước.
Đảo nhỏ cách mũi Cà Mau ba mươi dậm về phía Nam. Quanh năm biển
động. Nơi đây dành cho các tiên bị đày như các ông tiên Hải Quân
có nhiều tù tội như tôi do kết qủa của những năm bụi đời ở Giang
Đoàn 52 Tuần Thám. Vừa mới ra trường OCS đầu năm 71, tôi đi chiếc
PGM HQ 607 biệt phái vùng Năm Căn có ghé vào đảo Giáng Tiên một
ngày để tránh sóng. Không ngờ bốn năm sau lại bị đày ra đây.
Đường biển là đường tiếp liệu chánh của đảo. Những ông tiên đi
đày nào có nghiện xì ke ma túy vào lúc biển động thiếu thuốc thì
chịu chết thôi. Đường thuốc tiếp liệu bị cắt đứt. Có lần hơn cả
tháng không ghe nào ra vào đảo, ông tiên Trung Úy Chỉ Huy Phó duyên
đoàn 42 lên cơn nghiện, mặt hóc hát, miệng sồi bọt trắng. Tiên ông
chỉ còn đủ sức cầm súng M16 bắn loạn xạ trong khu gia binh duyên
đoàn vì không ai dám chở Chỉ Huy Phó vào Năm Căn kiếm thuốc trong
cơn biển động. Ông tiên Chỉ Huy Trưởng đành phải đánh điện khẩn
cấp giả xin trực thăng đáp trên đảo đêm Chỉ Huy phó vào Năm Căn
tri. bệnh. Lý do là Chỉ Huy Phó bị "nội thương" trầm trọng.
Trời cũng thương các tiên ông. Trên đảo có một dòng suối nước ngọt
duy nhất chảy quanh năm từ đỉnh núi xuống chân đảo. Nhờ thế các
tiên có nước ngọt nấu ăn, uống, tấm rửa quanh năm. Nếu không, các
tiên chắc chắn lên thiên đàng thật sự.
Muốn đi Rạch Giá, bắt mũi ghe về hướng Bắc chạy dọc theo bờ biển
từ mũi Cà Mau ngang qua rừng U Minh. Sau hơn một ngày một đêm trên
biển, tuy mệt vì đi cả đêm, anh em thủy thủ đoàn ai cũng vui tươi,
hăng hái khi đoàn ghe bắt đầu vào cửa sông dẫn vào Rạch Giá lúc
hừng đông.
Ghe vừa cặp bến, tôi chia gác cho nhóm mồ côi ở lại coi ghe và
đi chợ búa. Nhóm đi bờ có gia đình, chưa cột ghe xong, đã nhảy lên
cầu đi mất. Tất cả mọi người phải tập họp tại Rạch Giá đúng trưa
ngày 30 để trở về đảo. Thật là một sư trùng hợp chỉ xảy ra chỉ một
lần trong đời tôi.
Leo lên xe đò chuyến sớm về Sàigòn, đến chọp tối tôi mới bước chân
vào căn nhà nhỏ xinh xắn của tôi mua trả góp trong khu thương xá
Thanh Đa gần cầu xa lộ Sàigòn-Biên Hòa. Đúng ra là một căn apartment
có một phòng khách, một phòng ngủ, nhà bếp và buồng tấm. Một trong
những thú vui nhất của tôi khi về nhà là đứng từ ban công lầu bốn
trên cao gió lọng nhìn xuống dòng sông Sàigòn chảy ngang qua khu
Thanh Da.
Sông Sàigòn phát nguồn từ vùng cao trên khu Dầu Tiến, Hố Bò chảy
qua tỉnh Bình Dương, quận Lái Thiêu, cuộn qua Sàigòn, đến Nhà Bè,
vào Cửa Cần Giờ trước khi đổ ra biển Đông tại cửa Vũng Tàu. Trước
khi bị đày ra đảo Giáng Tiên, tôi có dịp đi tuần khắp cả dòng sông
này khi phục vu. Giang Đoàn Tuần Thám 52 đóng ở gần chợ Bình Dương.
Cũng trên dòng sông nầy, có nhiều lần tôi thoát chết qua nhũng trận
phục kích, tấn công ác liệt của Cộng quân. Qua những cuộc cứu thương,
vớt xác bạn bị chìm tàu vì bị mìn. Khi nghỉ trở lại, tôi không ngờ
còn sống có lẽ vì có số mạng lớn.
Phía xa là cầu xa lộ dài bắt ngang qua dòng sông Sàigòn. Bô Tư
lênh Hải Quân ở xa hơn và bị che khuất bởi nhưng dãi nhà cao. Lúc
đi công tác ra đảo, tôi thường giao chìa khóa nhà cho Liêm mù và
Hùng Sexy tự do sử dụng. Liêm mù lúc đó làm phòng Điện Toán ở bộ
Tư Lệnh. Hùng sexy làm ở Biệt Khu Thủ Đô. Lúc mới đi định cư, tôi
qua Montreal chơi gặp Hùng gà tồ và Hùng Sexy. Nghe Hùng Sexy nói
đùa:
- Ê Baby! Chắc mày vượt biên qua đây để đòi nhà mày lại phải
không? tao làm mất chìa khóa và giấy tờ nhà cửa của mày khi tao
di tản vào đêm 29.
Tôi mới nói đùa lại:
- Sống qua đây gặp tụi mầy là vui rồi. Lo chi cái nhà lẻ tẻ.
Trở lại tình hình Sàigòn, ngoài chuyện nghe tin người anh họ làm
thông dịch viên cho phái đoàn Ủy Hội Đình Chiến đã được Mỹ đưa vào
phi trường Tân Sơn Nhất chuẩn bị đi Mỹ. Sàigòn có một vẽ bình thường
rất lạ So sánh như bầu trời xanh im lặng trước khi một cơn bão to
khủng khiếp xắp sửa đến.
Cho đến ngày nay, tôi vẫn không tin bọn Cộng quân có thể chiếm
được Sàigòn một cách dễ dàng như vậy. Nào bao nhiêu sư đoàn Dù,
Bộ Binh, Thủy Quân Lục chiến, Hải Quân và Không Quân từ các vùng
khác rút về tử thủ Sàigòn đến giọt máu cuối cùng. Di tản Sàigòn
không thể xảy ra được. Cá ông Tướng láo líu tuyên bố: "Các
chiến sĩ VNCH phải tử thủ Sàigòn đến giọt máu cuối cùng". Lời
nói nầy đã gây cho bao nhiêu chiến sĩ anh hùng đổ giọt máu vô nghĩa
vào ngày cuối cùng cho sự sống còn của nước Việt Nam. Thật ra các
ông tướng nầy chạy trước nhất.
Liêm mù, Hùng Sexy, Tường Đen, Thắng Đầu bò tưởng tôi còn đang
ở ngoài đảo Giáng Tiên. Nếu có di tản ở đảo tôi sẽ đi dễ dàng hơn.
Vì thế không ai ghé nhà cho tôi biết về việc Hải Quân ở Sàigòn chuẩn
bị di tản tấp nập nầy. Thật là mỗi người có số mạng riêng.
Chập tối ngày 29, từ lầu bốn ban công nhìn xuống dãi lầu đối diện,
tôi thấy Lê Á Châu, khóa 7, đeo xách lủng lẳng đang dẫn vợ con hấp
tấp leo lên xe Honda. Tôi mới hỏi vọng xuống cho Châu mật cách thật
ngây thơ:
-Ê Châu, mày dọn đi đâu vậy?
Châu ngước lên nhìn tôi, không trả lời và lên xe vọt đi một cách
vội vã. Hình ảnh nầy ám ảnh tôi mãi trong thời gian ngồi trong tù
cải tạo. Tôi tự hỏi, nếu biết có cuộc di tản ở bộ Tư Lệnh Hải Quân
như vậy thì mình có định đi theo không? Có lẽ là không vì tôi còn
có trách nhiệm với 3 chiếc ghe cùng nhóm thủy thủ đoàn đang chờ
tôi ở bến Rạch Giá vào ngày 30. Nếu đến Rạch Giá được rồi thì ra
cửa biển di tản cũng dễ thôi.
Đúng mười giờ sáng ngày 30 tháng Tư, cứ tưởng là đang mơ ngủ khi
nghe Tướng Dương Văn Minh lên radio tuyên bố đầu hàng. Tôi vẫn không
tin cho đến khi nghe người hàng xóm nói xe tăng T54 chạy qua cầu
xa lộ đang hướng về ngã tư Thị Nghè. Tôi hối hả cầm khẩu súng Colt
45 lận trong áo chạy xuống lầu nhảy ra đường cái để xem tình hình
ra sao.
-Sàigòn không thể nào mất dễ như vậy!
Tôi đang trong tình trạng phủ nhận sự thật phũ phàng nầy. Khi đến
gần ngã tư Thị Nghè. Đậu choáng cả ngã tư, một xe tăng T54 với khẩu
đại bát to. Trên cây anten có đeo ngọn cò đỏ sao vàng. Phía dưới
họng súng to đen ngòm, cái đầu tên lính Cộng Quân lòi ra đang quan
sát cẩn thận đám dân hiếu kỳ và sẵn sàng bóp cò từ khẩu đại liên,
đại bát vô nhân dạo quay hướng vào những người dân vô tội.
Bỗng dưng mắt tôi từ nhiên trào ra không cầm được. Có lẽ tôi khóc
cho thân phận mình nói riêng và cho dân Việt nói chung. Mở đầu một
chương lịch sử ghi dấu dân Việt bắt đầu cuộc sống gọng kềm của bọn
Công Sản không thần, không nhân đạo, không gia đình và không có
ngày mai.
Qua ngày hôm sau tôi còn nủa mơ nửa tỉnh, tự hỏi:
-Có phải hòa bình thật đã đến cho nước Việt Nam không?
Nếu thật sẽ không còn cảnh giết chóc lẫn nhau. Mọi người sẽ sống
hòa thuận cùng xây dựng đất nước ấm no, thịnh vượng. Gia đình không
còn chia ly nữa: mẹ không mất con, vơ. không mất chồng, con không
mất cha.
- Ta nên vui chứ sao lại buồn lo như vậy ?
Những suy nghĩ trái hẳn nhau cứ dằng dai trong đầu tôi. Nhiều lúc
tôi muốn cầm khẩu Colt bắn vào đầu mình để không còn nghe, nghĩ
và nhìn những cảnh đổi đời tàn nhẫn nầy.
Thật giận khi thấy một số dân địa phương theo gió đổi cờ. Trên
những chiếc xe Honda, xe Jeep của VNCH để lại, một lũ người không
ra người, ngợm không ra ngợm, vừa chạy vừa phất cờ đỏ sao vàng khắp
cả đường phố. Một số tên nằm vùng vác súng AK bắn chỉ thiên loạn
cả lên. Chúng đang ăn mừng vào ngày ăn cướp miền nam Việt Nam.
Một lần nữa nước mắt vô tình ứa ra khi thấy một chiếc tăng T54
khác từ hướng cầu Bình Lợi rầm rộ đổ về thủ đô Sàigòn. Sàigòn yếu
dấu đã thật sự rơi vào tay Cộng Sản. Cuộc đổi đời đã bắt đầu. Bao
nhiêu xương máu của các liệt sĩ VNCH chiến đấu cho tự do dân chủ
trở thành vô vị.
Một người hàng xóm vội nói với tôi:
-Anh đừng khóc nữa. Coi chừng tụi nó thấy thì nguy hiểm cho anh.
Bất mãn lẫn lo âu, tôi quay trở về nhà để không muốn chứng kiến
sự thất bại phũ phàng nầy. Từ xa, tôi đã thấy ngọn cờ đỏ sao vàng
treo phất phới đầu cổng khu Thanh Đa từ lúc nào. Tôi càng hoang
mang hơn khi thấy vài căn nhà thuộc dãi lầu tôi ở, đã treo hình
Hồ Chí Minh, dán bích chương biểu ngữ trước nhà để hoan nghênh Cách
Mạng. Chứng tỏ mình là người của Cách Mạng. Đúng là bọn ăn ké hèn
hạ.
Vào được trong nhà tôi cảm thấy yên tâm hơn và biết rằng cuộc đời
mình không còn như trước nữa. Tôi đem tất cả giấy tờ, hình ảnh Hải
Quân và hình chụp ở OCS đốt hết. Bây giờ vẫn tiếc những hình ảnh
nầy. Xong rồi, gom tất cả quần áo Hải Quân, giày lính, lon lá và
nón sĩ quan vào một bịt nylon. Đợi chiều tối thây không có ai nhìn,
tôi vội vất bịt nylon vào thùng rát công cộng vì sợ bọn chó săn
cắn bậy. Tôi vừa mới chôn đi cuộc sống Hải Quân mà tôi từng mơ ước
và sống với.
Tôi quyết định giữ khẩu Colt 45 để tự vệ dù biết rằng việc nầy
rất nguy hiểm cho tôi. Nếu bị bắt bọn Cộng Sản tử hình tôi tại chỗ.
Sáng ngày hôm sau, tôi quyết định quay lại Rạch Giá bằng mọi giá.
Cả đêm không ngủ. Đến sáng vừa tan giờ iờ nghiêm, tôi đi xe ôm ra
bến xe đò Phú Lâm tìm cách về phía lục tỉnh. Tất cả xe đò chở hành
khách đều bị cấm chạy vì bọn Cộng Sản sợ lính VNCH chạy trốn về
miền lục tỉnh.
Đến bến xe đò, tôi đi một vòng xem động tĩnh cùng hỏi cách về Rạch
Giá. Cũng hên, gặp được ông chủ xe chở hàng hóa cho quá giang. Xe
chở số một số hàng hóa và kèm thêm một số gà vịt nhốt trong chuồng.
Tôi lấy làm lạ tại sao ông nầy lại chở củi về rừng. Vùng lục tỉnh
gà vịt chết hết hay sao? Sau nầy được biết ông không bán gà vịt
được vì chính phủ Cộng Sản cấm xe đò vào thành phố Sàigòn.
Để tránh sự kiểm soát, tôi leo vào chính giữa xe chất đầy chuồng
gà và vịt đầy mùi phân lẫn trộn với trấu và rơm đưa lên lỗ mũi làm
hắt hơi mệt nghỉ.
Xe hàng chạy qua cầu Phú Lâm một khoảng thì dừng lại làm tôi đưng
cả tim. Chắc là bị bọn bộ đội xét bắt giữ lại. Thật ra không phải
bộ đội mà là ba cặp trai gái trẻ ăn mặc theo dân Sàigòn xin đi quá
giang về miền Tây. Cũng như tôi, họ trả một số tiền cho ông chủ
xe. Gặp hai cặp nầy, tôi thấy họ hơi quen quen mà tôi nhớ không
nhớ ra ngay.
Chạy êm đềm một thời gian, xe bắt đầu lắc tới lắc lui vì chạy qua
những ổ gà to giữa đường lộ. Bỗng nhiên một chuồng gà văng lên cao
rồi rớt trên đầu anh bạn bên cạnh. Gà sút chuồng bay tùm lum. Tôi
và các người bạn túm được bầy gà vô trật tự bỏ vào chuồng trở lại.
Trước khi tới Cần Thơ, tôi chợt nhận ra được nhóm nầy. Họ là bà
con của OC Dương Văn Đức, khóa 6 và là bạn của OC Phan Tấn Hùng,
khóa 8. Sau khi nhận diện nhau, tôi được biết họ cũng đi Rạch Giá
để tìm tàu vượt biên. Như thế là phe ta cùng chí hướng vượt biên.
Các tỉnh miền tây như Vĩnh Long, Cần Thơ, Sa Đéc chưa bị bọn Cộng
Sản chiếm hoàn toàn nên sự kiểm soát di chuyển có vẽ dễ dàng hơn
ở Saìgòn. Đến Cần Thơ, tôi và nhóm bạn mới chia làm hai nhóm mua
vé xe đi riêng và hẹn gặp nhau tại bến xe đò Rạch Giá.
Đến Rạch Giá vào chiều tối. Tôi lén đến cầu tàu để xem tình hình
mấy chiếc ghe Yabota thuộc duyên đoàn. Chỉ còn ba xác ghe không.
Máy móc, súng ống, thức ăn đã bị ăn cắp mất hết. Tìm được anh thủy
thủ Tân là dân địa phương Rạch Giá cho biết nhóm Duyên Đoàn 42 mạnh
ai tản hàng. Tân gợi ý là anh có người quen có tàu đánh cá chịu
chở ra biển tối nay. Phải trả tiền hoặc vàng. Tôi bàn với nhóm bạn
từ Sàigòn xuống chung với tôi. Tất cả gom nào dây chuyền, nhẫn vàng,
hột xoàn và vét bao nhiêu tiền đem ra hết. Tất cả khoảng năm cây
vàng. Chủ ghe đồng ý.
Tối nay tôi lãnh trách nhiệm xem xét tình trạng chiếc ghe đang
đậu bãi phía sau sân vận động Rạch Giá. Nếu tất cả như ý muốn, tôi
và các bạn tôi trả tiền cho chủ ghe và lên ghe ra biển vào ba giờ
sáng lúc nước thủy triều lên cao. Đài BBC cho biết Hạm đội 7 Mỹ
vần còn lảng vảng vùng biển miền nam để rước đân tị nạn. Niềm hy
vọng được tư do lên cao hơn. Trong khi ngồi trong quán ăn chờ đợi,
các bạn tôi nghe nhiều vu. vượt biên tại vùng Rạch Giá. Đa số bị
bể. Có người bị bắn chết, có người bị bắt, có người bị bịp mất tiền
của mất cả tính mạng và tự do. Càng nghe chuyện, niềm tự do hy vọng
càng xuống dần.
Đã nhất quyết, vào mười giờ tối, tôi lận cây súng Colt 45 trong
bụng và đem theo một số tiền đặt cọt đi đến điểm hẹn. Sau khi qua
khu sân vận động, đi vào đường hẻm tối, tôi gặp được chủ tàu đang
đứng chờ. Tôi hỏi ghe vượt biên đâu. Chủ tàu chỉ về phía xa xa trên
bãi nước cạn có chiếc ghe nhỏ đeo chiếc đèn dầu đậu. Tôi đòi ra
ghe để xem sao. Chủ ghe lấp lúng cho hay là bây giờ không tiện và
hứa vào sáng sớm trước khi đi thì coi luôn thể. Chủ ghe còn bảo
tôi đặt tiền cộc trước. Tôi hơi nghi tự hỏi có phải thật là ghe
của hắn không. Hay là một cái bẩy chờ những con các tươi nầy vào
tròng. Tôi mới bảo tên chủ ghe là tôi sẽ trở lại hỏi ý kiếm của
anh em trong nhóm. Thấy không xong hắn bảo tôi đứng đây chờ hắn
trở lại.
Hắn vừa đi là tôi vội rời khỏi chỗ ngay. Sợ hắn dẫn bộ đội chận
đường đi, tôi chọn con đường khác đi về chợ. Đi một lúc sau, nghe
tiếng tên chủ ghe và một nhóm du kích chạy trên đường cũ. Có lẽ
bọn chúng đang đi tìm tôi. Tôi vội núp vào đường hẻm tối chờ chúng
đi qua thật xa.
Cuối cùng tôi trở lại bến xe đò nơi điểm hẹn của nhóm bạn định
vượt biên. Tôi kể lại chuyện không may mắn nầy. Ai nấy đều lo lắng
cho sự an ninh của mình. Tất cả đồng ý tản ra tìm chỗ ngủ quanh
bến xe. Chờ sáng sớm leo xe đò trở về Sàigòn để binh đường khác.
Tư đó tôi không gặp mặt lại họ.
Trở về Sàigòn, lòng buồn vô hạn cứ tưởng rằng các bạn OC thân đã
đi tản hết cả rồi. Không ngờ gặp lại Thắng đầu bò đang bị bắn gẫy
chân nằm dưỡng thương tại nhà. Được biết OC Thắng đầu bò và OC Hùng
khờ cùng khóa 6 đang lái tàu di tản từ căn cứ Hải Quân Cát Lái.
Thắng đầu bò và Hùng khờ ra lịnh bắn chìm chiếc ghe trên đó có một
toán Cộng quân trên đường tiếp thu căn cứ Cát Lái. Thình lình tàu
của Hùng và Thắng trúng một viên đại bát từ chiếc T54 của Cộng Sản
bờ bên kia bắn qua. Thắng đầu bò la lên:
-Chết mẹ rồi. Lái nhanh vào bờ. Xe tăng tụi nó bắn trúng tàu
mình. Tao bị thương rồi Hùng ơi.
Không nghe Hùng trả lời, Thắng bị trúng mạnh đạn ở chân không đi
được nên bò gần hầm tàu kiếm Hùng khờ. Không ngờ Hùng tử trận ngay
tại chỗ dưới hàm tàu vì mảnh đạn vô nghiệt bắn từ chiếc xe tăng
T54. Một anh hùng ngã gục vì tử chiến đến giọt máu cuối cùng trong
hoàn cảnh hỗn loạn nầy. Vào lại bờ, nhóm thủy thủ vội chở Thắng
vào bệnh viện Hải Quân gần bộ Tư Lệnh để cứu thương.
Đang nằm trên giường bệnh chờ bác sĩ và y tá Hải Quân đến chửa
bệnh, Thắng thấy một nhóm dân hỗn loạn vào ăn cắp dụng cụ giải phẫu
thuốc men thuộc bệnh viện.. Thêm vào vì sợ bộ đội vào tiếp thu bệnh
viện sẽ tiếp thu bệnh nhân luôn, tất cả bệnh nhân đi được đã trốn
cả. Chỉ có Thắng là không đi trốn được vì xương chân bị bắn gẫy.
Đê trốn đi, Thắng liên lạc được với ông anh của Thắng làm bác sĩ
cho bịnh viện quân đội thời VNCH đến chở. Ông anh của Thắng đem
chiếc xe Toyota wagon vào đậu gần cửa phòng bệnh. Anh và các bạn
đặt Thắng trên băng ca và hối hả khiêng Thắng ra xe trước khi bệnh
viên Hải Quân bị tịch thu. Thắng được ông anh bác sĩ chửa thương
tại nhà.
Trong sự mất mát lớn lao cùng sự hy vọng bay thành mây khói, tôi
rất mừng gặp lại Thắng đầu bò. Mừng thêm khi biết tin một số bạn
OC may mắn đã an toàn thoát khỏi Việt Nam. Chân bị băng bột, Thắng
nằm dưỡng bệnh trên lầu bốn tại nhà khu vườn cao su Phú Thọ Hòa.
Sau khi nghe chuyện, tôi thấy mình không còn cô độc nữa và còn may
mắn hơn OC Thắng và cố OC Hùng khờ nhiều.
Không di tản được, các sĩ quan VNCH, các anh em OC, Thắng và tôi
bị đi cải tạo "mười ngày" sau nầy trở thành hơn "mười
năm". Mười ngày của Cộng Sản lâu và khổ cực như mười ngày trong
địa ngục.
Gần bờ hồ nơi hoa anh đào trộ nở có tòa nhà Bạch Ốc, tòa nhà Quốc
Hội, tòa Ngũ Giác Đài, và những cơ quan đầu não của nước Mỹ. Khoảng
hơn ba chục năm về trước, tại nơi đây đã có bao nhiêu cuộc biểu
tình chống chiến tranh Việt Nam, bao nhiêu cuộc tranh luận sôi nổi
và đã đưa ra những quyết định quan trọng về số mệnh mỏng mảnh của
nước Việt Nam Cộng Hòa. Số mệnh này không khác gì số mệnh mỏng mảnh
của đóa hoa anh đào. Một cơn mưa gió phũ phàng xảy ra tối qua đã
làm rụng những cánh hoa tươi đẹp ngày nào. Còn lại là những cành
cây anh đào trơ trọi mong chờ hoa trở lại vào mùa xuân tới.
Nguyễn Hồng Quang
Vùng Hoa Thịnh Đốn, Xuân 2004
|