Phạm Hồng Ân
Phú Quốc nhỏ xíu - nằm như con cá lia thia đang ngon giấc trong
chiếc chậu cổ - trên tấm hải đồ vàng chạch của chuyến tàu chở khách,
khởi hành từ Rạch Giá. Chậu cổ là vịnh Thái Lan xanh biếc. Vịnh
được bao quanh bởi dãy đất liền hình vòng cung. Bắt đầu từ bán đảo
Kao Mei của Miên, chạy dài đến cảng Kam Pong Som, qua Kampot, Xà
Xía...Rồi đến Hà Tiên của Việt Nam. Rồi vòng về Rạch Giá, tới tận
mũi Cà Mau cuối đất cùng trời.
Con tàu đầy nghẹt khách. Họ ngồi chen chúc nhau trong khoang. Có
người leo lên tận mui, tụ họp thành từng nhóm, hút thuốc hoặc chuyện
trò inh ỏi. Tôi tìm một góc vắng, trước mũi tàu, khoanh tay nhìn
sóng nước mênh mông trước mặt.
- Ông ngồi ở đó, coi chừng ướt! Một lát, tàu ra khơi, sóng sẽ
tung lên đấy!
Hoàng hôn nhạt nhòa. Ánh đèn đã bừng lên trong thành phố Rạch Giá.
Phía tây, chân trời hừng lên một màu vàng rực. Dưới vùng ánh sáng
yếu ớt đó, Hòn Tre nổi lên như con rùa thần. Cái mu khổng lồ, đen
mun, chập choạng giữa trời nước bao la.
- Ông có nghe tôi nói không? Nửa khuya, lạnh lắm đó!
Tôi ném mạnh điếu thuốc. Gió lồng lộng, làm tàn thuốc bay ngược
lại, bắn tung tóe vào mặt tôi, và vào mặt cô gái.
- Ui da! Bụi vào mắt tôi rồi!
Lúc này, tôi mới chú ý cô gái. Đó là một thiếu nữ đẫy đà, khỏe
mạnh. Chắc chắn cô bé thuộc dòng dõi nông dân, hoặc ngư phủ nào
đây? Tuy vậy, khi nhìn đến nước da trắng trẻo, nụ cười xinh xắn
vừa hiện lên - tôi lại phập phồng cho câu ước đoán mò mẫm của mình?
- Xin lỗi. Xin lỗi. Tôi vô ý quá!
Cô gái ngồi bệt xuống sàn tàu. Bên cạnh cái neo và đống dây thừng
dài lổn ngổn. Cô đưa bàn tay lên che mặt. Bàn tay kia ấn vào mắt.
Những ngón tay phụng phịu xòe ra - như cầu cứu, than trách tôi.
- Ông làm ơn vạch mắt tôi ra, thổi mạnh vào đó! Lẹ lên! Mắt tôi
cay xè đây này!
Tôi hít không khí vào đầy buồng phổi. Rồi lấy hơi, thổi phù phù
vào mắt cô gái. Lạ thật! Làn hơi mạnh bạo của tôi như một thứ bùa
phép linh thiêng, làm con mắt cô gái phục hồi nhanh chóng. Bụi bặm
cay xé nào đó đã tiêu tan, trôi đi một cách nhẹ nhàng.
- Sao? Cô thấy thế nào?
- Cám ơn. Tôi thấy dễ chịu rồi.
Lúc này, tôi mới nhìn thấy những phong pháo đỏ hồng, những hộp
mứt căng phồng...được xếp gọn gàng bên cạnh bậc thang bước xuống
khoang tàu.
- Cô mua các thứ này về làm quà tết đấy hử?
- Dạ. Chuyến đò cuối năm, chúng tôi qua Rạch Giá đi chợ tết, chuẩn
bị đón xuân về.
Tàu phăng sóng đi tới. Hòn Nghệ lung linh phía trước. Nó như một
tảng núi trồi lên giữa biển. Trông hùng vĩ và ngạo nghễ một cách
dị thường.
- Ông có thấy Hòn Nghệ không? Đấy, nó cao ngất và sừng sững trước
mặt đấy! Từ đó, nếu trăng sáng trời trong, ông sẽ thấy đảo Phú
Quốc mồn một. Nó giống như dãy đất Việt Nam hình chữ S, thu nhỏ
lại.
Biển bắt đầu động. Tàu tròng trành, lắc lư liên hồi. Sóng tung
trắng xóa hai bên mạn tàu. Sóng, có khi lấp lánh những mảng lân
tinh. Có khi sóng sánh như dòng thủy ngân, được bắn vọt lên từ đáy
biển thâm sâu. Sóng nhảy cao vút, rồi rớt lộp độp xuống sàn tàu,
khiến tôi và cô gái ướt loi ngoi dưới trời đêm lạnh lẽo. Tôi nhìn
lên ngọn đèn cà na trên phòng lái. Ánh sáng yếu ớt, soi lờ nhờ trước
mũi tàu. Chiếc áo trắng của cô gái sũng nước, giống như mảnh keo
dán vào da thịt. Thân thể nàng lồ lộ một cách tự nhiên, trông hấp
dẫn và huyền ảo như người đẹp liêu trai nào đó trong các truyện
tình kinh dị.
Tờ mờ sáng, tàu tới Phú Quốc. Hàng trăm ánh đèn măng-sông sáng
choang, thắp đầy bến chợ An Thới. Cầu tàu ngập người. Dường như,
suốt đêm, họ đã thức trắng. Họ đứng chờ đoàn ngư thuyền trở về.
Chiếc này tiếp nối chiếc kia, lần lượt, thả những cần xé hải sản
lên bờ.
Tôi lẽo đẽo theo sau cô gái, đi lên con đường dẫn về Hải Đội 4
Duyên Phòng. Con đường cát đỏ. Mỗi lần gió thổi, bụi tung lên mặt
mịt mù. Phố chợ nằm phía bên kia. Chỗ các dãy nhà nhô lên khỏi chòm
cây xòe lá. Trong đó, có nhiều tầng lầu vươn cao, nhiều biệt thự
hoành tráng.
- Phú Quốc nhộn nhịp, giàu có quá! Vậy mà từ lâu, tôi cứ nghĩ
Phú Quốc là nơi chốn lưu đày. Chỉ có trại tù khắt khe nhốt bọn
cộng sản khát máu. Chỉ có đám lính ngông cuồng, chọc trời khuấy
nước, bị các đơn vị đẩy ra đây để tàn đời mạt kiếp.
Cô gái chỉ lên cao. Chỗ các hòn đá khum khum. nằm ngổn ngang như
núi.
- Ông đi thêm chút nữa, khoảng ba mươi cây số đường bộ, về hướng
bắc. Ông sẽ đến Dương Đông. Dương Đông mới chính là hòn ngọc của
đảo Phú Quốc.
- Có phải nơi đó tập trung những hãng nước mắm nổi tiếng, những
xưởng làm khô cá thiều nhậu "bá cháy" không cô?
Cô gái bỗng dừng lại. Nhăn trán, cong đôi lông mày, nhìn tôi chòng
chọc:
- "Bá cháy" là thế nào? Ông nói, khó hiểu quá!
- Hà hà...Xin lỗi. Tôi nói theo ngôn ngữ nhà binh, bụi đời.. Có
nghĩa là...ngon lành, khoái khẩu...
Cô gái cười khúc khích. Nụ cười làm rung rinh vạt áo trắng, khiến
tôi liên tưởng đến khoảng da thịt lồ lộ của cô, đêm hôm qua, trước
mũi tàu - khi bị sóng biển ụp vào thân thể.
- Tới ngã ba rồi. Này, ông có thấy căn nhà nằm ngay góc đường
không? Đó là tiệm hớt tóc của chị em tôi đấy!
- Hử? Cô...thợ hớt tóc ư?
- Vâng. Ban ngày hớt tóc cho khách. Ban đêm, theo ba má ra khơi,
đánh cá.
- Từ nay, tôi sẽ ra tiệm cô hớt tóc mỗi tuần. Cô chịu hông?
Cô gái dừng lại trước ngã ba. Nơi tấm bảng của một cái quán ăn
vừa mở cửa. Mùi nước xúp thơm lừng bốc lên, làm tôi nôn nao, đói
bụng.
- Này, ông quẹo phải, đi một lát sẽ đến Hải Đội 4 Duyên Phòng.
Tôi rẽ trái để về nhà. Tôi biết, ông mới tới Phú Quốc. Chưa quen
ai, còn ngỡ ngàng lắm! Vậy chiều nay, ba mươi tết, khoảng ba giờ,
ông ghé quán tôi. Tôi sẽ dẫn ông về nhà, đón giao thừa với gia
đình...cho ấm cúng.
Tôi hứa hẹn với cô gái, rồi nhìn lại con đường. Nắng sáng choang
trước mặt. Hải Đội 4 Duyên Phòng nằm phía đó. Trên bãi biển thơ
mộng. Những dãy nhà tiền chế ngó ra mũi Ông Đội, lồng lộng gió bình
minh.
- Thiếu úy về khu sĩ quan nghỉ ngơi. Có thể, đêm nay có chuyến
công tác. Thiếu úy về làm sĩ quan đệ tam cho PCF 3806, nhớ đấy!
Tôi bắt tay viên sĩ quan nội vụ, cười thân mật. Điếu thuốc đốt
lên. Ánh lửa làm hai mái đầu chụm vào nhau, thiện cảm. Tôi bước
xuống bậc tam cấp căn nhà. Ngó ra biển. Ngó về hướng cầu tàu. Những
chiếc PCF nằm cặp kè ngoài đó. Chúng đang đu đưa theo sóng. Chúng
đang mời gọi tôi, ra khơi vẫy vùng.
Buổi chiều, pháo nổ đì đùng. Tôi chợt nhớ đến cô gái. Cái tiệm
hớt tóc nằm ở ngã ba. Tôi theo tiếng pháo ra đường. Vài chiếc xe
nhà binh lướt qua. Bụi bốc lên, đỏ ối phía trước.
- Thiếu úy, thiếu úy. Phòng hành quân gọi ông gấp! Có công tác...
Tôi xoay đầu lại. Tiếng giày khua vào đất nghe thình thịch, thình
thịch. Gã trung sĩ lao tới, thở hổn hển. Một tay gã chặn trước ngực,
húng hắng ho. Một tay chỉ về phía hải đội, nơi có chiếc PCF 3806
đang chuẩn bị ra khơi. Tôi ngó về ngã ba. Cái tiệm hớt tóc nằm thù
lù ở đó. Và đành phải thất hẹn, với cô gái.
PCF được viết tắt từ chữ Patrol Craft Fast. Dịch là Duyên Tốc Đĩnh,
là loại tàu có tốc độ nhanh, dùng để bảo vệ duyên hải. Tôi về PCF
3806 như một sĩ quan đệ tam, trong đó thủy thủ đoàn chỉ có mười
người vỏn vẹn. PCF cũng như các giang đĩnh đi sông, thủy thủ rất
cực khổ, vì phải sống trong một diện tích rất chật hẹp và thiếu
thốn mọi tiện nghi. Đã vậy, họ còn chịu nhiều nguy hiểm, gian truân
- khi có việt cộng tấn công bất ngờ trên vùng sông rạch chằng chịt.
Thế mà các ông thi sĩ, nhạc sĩ hải quân đã thêu hoa dệt gấm cho
binh chủng này vô số những điều lãng mạn tưởng tượng.
- Chúng ta đi bắt một écho. Nhìn vào ra đa, các anh thấy không?
Écho cách chúng ta 40 hải lý. Nó đang xâm nhập vào bắc đảo. Và
lệnh của Kình Ngư, chúng ta phải khuất phục écho này trước giao
thừa, đêm nay.
Vị thuyền trưởng vừa chỉ lên màn ra đa, vừa giảng giải mạch lạc.
Tôi biết, anh ta đang chú tâm đến tôi - đến người vừa tân đáo đơn
vị, người chỉ biết hò hét trên sông, trên các chiến đĩnh luôn khét
lẹt mùi thuốc súng.
- Bắc đảo là vùng biển cấm. Cấm không được đánh cá. Cấm các tàu
lạ bén mảng nơi này. Do đó, chúng ta phải cảnh giác. Có thể, đó
là tàu việt cộng xâm nhập. Có thể, đó là tàu đánh cá của Miên
hay Thái Lan, vi phạm chủ quyền của chúng ta.
Tôi uống những lời vàng ngọc của thuyền trưởng, theo từng ngụm
cà phê vô tận đáy tâm hồn. Cà phê Rạch Giá phê thật! Chỉ vài ngụm,
đã thấy con người tỉnh táo lạ thường. Đã thấy hồn phiêu phiêu lên
đỉnh ăng ten của đài kiểm báo An Thới. Đã thấy lòng vươn thẳng ra
biển khơi, xôn xao theo cánh hải âu diệu vợi muôn trùng.
PCF đang lướt theo chiều dọc của đảo Phú Quốc. Từ Nam lên Bắc,
cắt địa phận của Miên theo đường thẳng phân kỳ, để bắt kịp écho,
trước khi nó xâm nhập vào bắc đảo. Trời tối mịt mùng. Màn đen bao
phủ xung quanh, trùm lên mặt đại dương, âm u như đường vào địa ngục.
Chúng tôi chỉ nghe tiếng sóng, thay phiên nhau, vỗ vào mạn tàu ầm
ì. Chỉ thấy màu nước trắng xóa trước mũi. Chỉ ngửi được mùi nồng
nồng của biển khơi, mùi tanh tưởi của tôm cá vẫy vùng.
Écho là tàu đánh cá Thái Lan, lớn gấp bốn chiếc PCF. Rõ ràng, nó
qua đây đánh cá "chui", xâm phạm vùng biển Việt Nam. Chúng
tôi đã bắt kịp écho trước giờ giao thừa - theo ước muốn của kình
ngư. Và giờ đây, các thủy thủ đang bắn chỉ thiên, để kiềm hãm tốc
độ của tàu đánh cá.
- Ông có biết nói tiếng Anh không?
Thuyền phó Hoàng hỏi thuyền trưởng tàu đánh cá bằng tiếng Anh.
Hắn lắc đầu lia lịa. Trong lúc thủy thủ PCF vây lấy thủy thủ Thái
Lan trên khoang lái. Súng M.16 chỉa ra, sẵn sàng nhả đạn trước mọi
phản ứng của đối phương.
Tên thuyền trưởng Thái Lan đen mun và vạm vỡ giống các hải tặc thời
nô lệ. Trước họng súng, hắn bỗng mềm yếu như cọng bún. Hai tay hắn
chắp lại, quỳ xuống, xá xá, cầu khẩn sự thương xót.
Thuyền phó Hoàng chỉ vào cây M.16, rồi chỉ vào thủy thủ Thái Lan,
chỉ vào chiếc tàu đánh cá. Hắn xua tay nguầy nguậy. Nhưng hắn bỗng
đứng lên, niềm nở mời thuyền phó Hoàng và tôi vào khoang trong.
Một va-ly được mở ra. Hàng xấp tiền Thái còn mới toanh, còn nồng
mùi mực in, nằm đầy ắp trong đó. Hắn nhìn chúng tôi tươi cười, đầu
gật gật. Thuyền phó Hoàng nhún vai. Anh đẩy gã thuyền trưởng Thái
Lan ra phía trước, và bằng thế võ Thái Cực Đạo, anh khóa chặt hai
tay gã lại. Nhưng, một họng súng đen ngòm chỉa thẳng vào lưng thuyền
phó Hoàng. Một tên Thái Lan to con xuất hiện. Nó hét lên dữ tợn.
Dữ tợn như tiếng gầm rú của con cọp hung hăng sắp vồ mồi. Tôi đứng
chết trân nhìn cảnh tượng xảy ra nhanh chóng. Nó nhanh chóng đến
độ...khẩu 45 tôi giắt trong thắt lưng, không còn cơ hội để cầm lên
nữa. Bỗng, loạt đạn chát chúa bắn vang phía sau. Tiếng đạn bay véo
véo ngang mặt, khiến tôi co rúm người lại, như bị lên cơn sốt rét.
Tôi tưởng thuyền phó Hoàng ngã lăn, giẫy giụa bên vũng máu đầm đìa.
Nhưng không, loạt đạn đó được bắn ra từ những cây M.16 của thuyền
trưởng Hùng và hai thủy thủ PCF từ sau lái vượt tới. Tên Thái Lan
to con té bịch xuống sàn tàu. Kết thúc cuộc săn bắt écho đầy nguy
hiểm.
PCF 3806 được Kình Ngư cho nghỉ ngơi ăn tết, sau chiến công rực
rỡ đêm giao thừa. Sáng mồng một, thuyền phó Hoàng dẫn tôi ra chợ
An Thới uống cà phê. Ngày đầu năm, An Thới vẫn buôn bán tưng bừng.
Họ buôn bán trong tiếng pháo rợp trời, trong tiếng nhạc vang dội
từ những quán cà phê thời thượng. Các quán cóc mọc như nấm, khắp
nơi, trên mảnh đảo biển trời này. Nhưng, chỉ có một nhà hàng duy
nhất - Bò Vàng - còn giữ vẻ thanh lịch cho những khách sành điệu
về ẩm thực. Tôi không hiểu, tại sao nhà hàng này lại lấy một cái
hiệu quá thô kệch : Bò Vàng? Trong khi, nơi kho tàng văn chương
Việt Nam còn biết bao tên gọi mỹ miều khác, dành cho hòn đảo trữ
tình này, như : mỹ ngư, sao biển, hoa biển...v... v...
- Này, có lên Tà Nắc xả xui đầu năm không? Chỗ đó có nhiều em
đẹp, khắp nơi đổ về.
- Tà Nắc là gì? Ở đâu thế?
- Tà Nắc là địa danh của động liễu. Trên chợ một chút. Lên, cho
biết mùi vị?
Tôi lắc đầu. Tôi quá chán ngán mùi vị cuộc đời. Nó như một cuộc
đổi chác. Chẳng có thú vị chi. Tôi muốn tìm đến cô gái. Cô gái dễ
thương, đã cho tôi những phút giây xôn xao từ lúc ban đầu.
- Mày đi một mình. Tau về ngã ba, tìm bạn.
Tôi ngồi với cô gái ở bãi Kem, nhìn gió hú từng cơn, nơi những
đỉnh cây phía đồi cao. Gió chạy rào rào trên lá. Gió làm mái tóc
của cô gái ngả nghiêng, tung vào mũi tôi một mùi hương diệu kỳ.
- Ông ơi! Ông có thấy những ngọn cây xôn xao phía kia không?
Rừng đấy! Rừng bạt ngàn trên đấy! Ngày mai, em và ông sẽ lên rừng
chơi. Chúng ta sẽ sống với chim muông một bữa. Chúng ta sẽ ăn
trái thanh trà, uống nước suối tiên, quên đi cõi trần tục dưới
này.
- Nhưng, tại sao chúng ta không lên rừng ngay bây giờ?
- Em muốn cho ông hưởng hương vị của biển, trọn ngày nay. Ông
có bao giờ nghe biển hát không? Này, nằm xuống đây, đặt tai lên
cát vàng, ông sẽ thưởng thức một bản tình ca - một bản tình ca
tuyệt diệu của trùng dương.
Cô gái nằm xuống cát, nghiêng đầu một bên, mơ màng. Tôi nằm xuống
kế bên, đặt tai sát bờ vai nàng. Tôi chỉ nghe tiếng thở phập phồng,
tiếng trái tim đập lụp bụp trong lồng ngực cô gái. Rồi, không cưỡng
được dục vọng bỗng dưng xô tới,, như làn sóng vũ bão ngoài kia.
Tôi điên cuồng ôm choàng cô gái, đặt lên má nàng nụ hôn nóng bỏng,
thèm khát nhất trên đời.
Một cái tát nẩy lửa, khiến tôi đau đớn, vội buông cô gái ra.
- Ông làm...biển sợ, biển ngưng hát rồi đấy! Ông làm...bản tình
ca của tôi đứt đoạn. Ông làm...ngày mai tôi phải vào nhà thờ,
xưng tội với cha. Ông làm...mùa xuân ở đây hoen ố. Biển không
còn những ngày đầu nguyên trinh nữa...
Cô gái đứng lên. Hàng cúc áo phía trên đã bị gió thổi tung, để
lộ khoảng ngực trần trắng muốt như bông bưởi. Cô lạnh lùng tiến
về phía tôi, nhìn tôi bằng đôi mắt long lanh hận thù.
- Tưởng ông là một thi nhân hiền lành. Hóa ra...cũng chỉ là loài
phàm phu tục tử.
Nói xong, cô gái bỏ chạy một mạch lên đồi. Bỗng dưng, gió hú lên
mãnh liệt. Gió hú từng cơn. Mỗi lần hú, mỗi đỉnh cây lao xao, ngả
nghiêng xào xạc. Biển cũng tung sóng dữ dội ngoài bãi. Sóng vỗ vào
ghềnh đá ầm ì. Sóng tràn lên bờ ào ạt, cuốn những con dã tràng ra
khơi, mất hút.
Tôi phóng theo cô gái. Lấy hết sinh lực, chạy băng băng lên đỉnh
đồi. Tôi sục sạo khắp nơi. Tôi tìm lung tung khắp hướng. Nhưng,
cô gái đã biến mất. Nàng như một cánh chim, hay như một nàng tiên
- vút cánh bay về phương trời xa lạ nào.
Tôi thất vọng, trở lại ngã ba. Mò vào cái tiệm hớt tóc. Cái tiệm
chỉ là căn nhà bỏ hoang, tơ nhện giăng đầy. Tôi hỏi thăm từng dân
bản xứ. Người ta đều ngơ ngác, lắc đầu. Đau khổ, tôi lăn đùng xuống
ngã ba, khóc rấm ra rấm rức như một kẻ thất tình.
Từ đó, mùa xuân trở nên vô vị, đối với tôi.
PHẠM HỒNG ÂN
(Tháng 12, năm 2003)
|