Vũ Hoàng Thư
1.
Nắng trải vàng bên sườn núi, chiều đi về chầm chậm. Chỉ còn gió
là lời nói qua lại bên hàng cây nghe xào xạc. Một nhánh vờn nhẹ
theo gió rồi ngưng hẳn và những chiếc lá khác đang rung. Một cành
cây vừa ngưng trong khi triệu lá hát. Mối giao tình riêng biệt tạm
ngưng cho muôn ngàn niềm dâng nhẹ nhàng trở về với chiều ? Gió thênh
thang không bận lòng với câu hỏi. Chiều nghe êm khi lòng trải dài
theo cuối ngát biển xa. Mọi câu hỏi cũng như trả lời đều trở nên
thừa trong chiều mênh mông. Ý bay trôi. Lời muốn mở. Một đôi thoáng
ngập ngừng. Phải chăng cái đang giữ lại đẹp muôn vàn không vì những
gì muốn nói nhưng vì nó vẫn còn đây chưa rời mất. Lời thơ Emily
Dickinson bay về lãng đãng trong gió chiều như ngọn cô phong giữa
những điệp trùng tuyệt đỉnh của thi ca. Từ căn phòng cô độc nhìn
ra khu vườn ở Amherst trước đây gần hai thế kỷ, hơn một ngàn bảy
trăm bài thơ gởi ra thế giới bên ngoài mà Dickinson gọi là “thư
gửi cho đời” (letters to the world). Thế nhưng đời đã quên mất hồi
âm cho cô. Đời quên mất như đời vẫn thường quên hay đời không biết
đến cô vì chưa bao giờ nhận được thư, nhưng dầu thế nào đi nữa thì
đời cũng đã vô tình với thi nhân. Những “bức thơ” được tiếp tục
gửi đi cho đến sau khi Dickinson mất đi ở vào tuổi 55 thế giới mới
biết đến những thông điệp của nàng xếp chồng trong ngăn kéo.
Chữ chết đi
Khi vừa thốt
Người bảo vậy.
(Emily Dickinson)
Nói hay không nói vẫn là một vấn đề được bàn cãi mãi không thôi.
Nhưng khi bàn về vấn đề “không nói” thì người ta vẫn cứ phải nói
đấy chứ. Tôi phải nói để khẳng định rằng “tôi không muốn nói”. Đó
là một trùng phức của ngôn ngữ. Ông Khổng Khâu với bao nhiêu là
kinh sách và đệ tử thế mà cuối cùng ông phải nói : “Dư dục vô
ngôn.” Ta đâu có muốn nói. “Thiên hà ngôn tai?” Ông
Trời nào có nói gì đâu? “Tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên,
thiên hà ngôn tai?” Bốn mùa qua lại, vạn vật sinh trưởng, trời
có nói gì đâu? Thì ra ông Trời cũng đã bước qua cái ngõ bí khó xử
như con người vậy.
Chữ chết đi
Khi vừa thốt
Người bảo vậy.
Tôi cho rằng
Lời sống dậy
Lúc rời môi
(A word is dead
When it is said,
Some say.
I say it just
Begins to live
That day.
Emily Dickinson)
Đó là lối nói của cốt cách thiên tài dẫn nhập vào một lối ngỏ kỳ
bí của thi ca. Chữ chết đi cho Lời sống lại. Con chữ tái sinh sau
khi bị tuyên án tử hình. Những gì đã bị giết chết là loại ngôn từ
của phân chia biện biệt, của biên kiến nhị nguyên. Ngôn ngữ sống
lại, bây giờ dưới một hình thức mới, nghĩa mới. Lời bây giờ không
phải là lời của ước lệ thường tình, lời bây giờ trở thành những
cung bậc, những nấc thang cho người bước vào chốn mà ở đó mọi sự,
“tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên...”
“Tôi cho rằng / Lời sống dậy / Lúc rời môi”, viết xong
đến đó, Dickinson liền im lặng. Bài thơ thật ngắn và chấm dứt ngay
tại đây, không thêm một chữ nào. Thế mà dường như một âm ba trầm
động ở phía sau bài thơ nổ bùng như giờ khai điểm của vũ trụ, tự
nó bừng sống trong cuộc tái tạo của riêng mình vào giây phút thinh
lặng nhất trong mọi thinh lặng, vì mọi ồn ào, chao động của ngôn
từ phân biệt đã chết. Tự nó đã đủ và trọn vẹn từ đây, không dư và
không thiếu một cái gì khác, tự nó đã viên dung và viên mãn nếu
dùng theo thuật ngữ của Phật học. Mọi lời thưa thốt khác sẽ thừa
thãi, sẽ vô nghĩa, vì mọi lời, Chữ chết đi / Khi vừa thốt...”
Chỉ còn lại lời-của-không-lời tản mạn với gió trong chiều nay.
Có một lần Nham Đầu, Tuyết Phong và Khâm Sơn đang nói chuyện,
Tuyết Phong chỉ vào bồn nước trong.
Khâm Sơn nói, “Nước trong, trăng tự hiện.”
Tuyết Phong nói, “Nước trong, trăng chẳng hiện!”
Nham Đầu không nói, đạp đổ bồn nước đi.
(Ngũ Đăng Hội Nguyên)
2.
Gió chiều muôn đời là những bài ca bất tận, những réo gọi kể từ
khi Apollo bắt đầu dạo đàn. Cây đàn lyre của Thần Nhạc rung lên
từng chặng theo điệu múa của Phong Thần. Và như thế gió vẫn hát
ngay cả khi thần Apollo ngưng đàn. Âm nhạc không chỉ gồm có âm thanh
của những nốt được đánh lên, nhưng đó đây nó còn mang những dấu
lặng, những khoảng không im. Nhạc cụ nào có thể đánh lên những dấu
lặng ngoài việc ngưng lại mọi động tác của tất cả nhạc sĩ trong
dàn nhạc ở giây phút đó. Giây phút hồi lưu về nguồn thinh lặng giữa
hai lần rung động của nốt nhạc, của âm ba, của sáng tạo. Thế nhưng
hình như con người chỉ biết nghe và đợi chờ những nốt nhạc. Sự chăm
chú của họ bây giờ tiếc thay chỉ còn là sự lắng nghe một nửa phần
của âm nhạc, còn một nửa kia, số phận của những dấu ngừng, bị lãng
quên và lang thang với gió đợi chờ một đồng vọng. Đâu đó niềm giao
hưởng tìm về một tương ưng đáp đôi cánh đậu trên đôi vần lục bát
hắt hiu,
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
(Bùi Giáng – Mưa Nguồn)
Đã bao giờ ta tìm thấy một màu trăng uyên nguyên ? Đã bao giờ có
bao giờ ? Những sau trước vẫn đợi chờ trước sau ? Hỏi là để mở ra
cái thinh lặng nhiệm mầu đàng sau dấu hỏi. Ở bên này hay ở bên kia,
thế kỷ trước hay thế kỷ sau, hay dù cho cả triệu năm nữa, tất cả
đều dội về một màu trăng ban sơ, I say it just / Begins to live.
Trăng bao giờ cũng nguyên lấy một màu trắng. Trắng là hợp quang
của tất cả mọi màu sắc nên trắng vô sắc, nó bao hàm mọi tinh thể
của tất cả màu.
Trên những lối ngõ thời gian tạm gọi là trước sau, khoảng một thế
kỷ sau Dickinson, Octavio Paz, nhà thơ Mễ Tây Cơ, giải văn chương
Nobel năm 1990, bước những bước chênh vênh dội vang từng góc phố,
từng nẻo nghách đời. Những bước chân vang rền trong khoảng phi thời
gian, phi không gian như tựa đề của bài thơ : Ở Đây – Hiện Tiền
– Here – Aquí.
bước chân tôi dọc phố này
nghe đồng vọng
gõ
ngân dài phố bên
vẫn âm tiếng điệu nghe rền
nhịp
lân la lại
điềm nhiên dội về
mà bên này hết bốn bề
chỉ còn sương, thật, sương che thật là
(My steps along this street
resound
in
another street
in which
I
hear my steps
passing along this street
in which
Only the mist is real
Octavio Paz)
Chân đi. Nhịp thời gian trôi. Chân bước. Vùng không gian xoay chiều.
Ở bên này tôi nghe tiếng chân bước bên kia. Ở phía bên kia tiếng
chân của chính tôi dội lại bên này. Bên kia trở thành bên này. Ta
nghe đủ cả những âm vọng của quá khứ, tương lai, hiện tại nhập lại
làm một, tất cả hiển hiện Ở Đây, Hiện Tiền, Here, Aquí.
Biên giới của không gian, mốc điểm của thời gian đã xóa mờ. Ta là
trung tâm, ta là biên cảnh, ta bao la cùng khắp mọi nơi.Tất cả quyện
tròn trong một màn kịch câm, mơ hồ như bóng nắng, huyễn hoặc ở phía
bên kia. Còn phía bên này ? Điều có thể thấy được, tưởng chắc là
thật hóa ra là sương mong manh. Chỉ còn sương, chút sương che là
thật phía bên này,
Only the mist is real
Và khi màn sương tan, cái gì sẽ còn lại ? Lời Nagārjuna như sấm
động dội về giữa vùng sương khói mờ ảo :
Như huyễn hóa, như mộng mị, như lâu đài giữa hư không, tất cả sự
hiện khởi, tồn tục và tan biến đều như vậy.
(Như huyễn diệc như mộng
Như Càn thát bà thành
Sở thuyết sanh trụ diệt
Kỳ tướng diệt như thị
Madhyamika – VII, 35)
Vũ Hoàng Thư
S.B., Tháng Tư, 2004
|