Thời mà tôi cắp sách đến trường học thì chỉ cần đủ điểm hai kỳ thi
lục cá nguyệt và có học bạ tốt là được lên lớp, không phải thi lấy
bằng Tiểu Học, Trung Học gì cả. Không phải thi có nghĩa là thoát
được biết bao ngày khan cổ học bài ra rả như chim cuốc kêu mùa hè,
ve sầu kêu mùa hạ, chim quạ kêu mùa đông để kiếm lấy cái bằng đem
về lộng kiếng, treo lên tường hù dọa những người ít chữ. Chỉ còn
phải thi Tú Tài bán phần rồi toàn phần là được quyền làm sinh viên
rồi. Làm sinh viên là làm người lớn. Nghe oai dễ sợ, dù vẫn còn
trong cái tuổi "teen" mười tám, mười chín. Ngày xưa, khi
nghe người lớn chọc nhau: nhỏ không học lớn làm Đại Úy tôi không
hiểu họ mỉa mai những ông sĩ quan đánh trận giỏi nhưng không giỏi
về học vấn. Rồi đến câu vè: Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ. Cấp bậc
Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan chỉ khác nhau ở mảnh bằng Tú Tài I. (Sau này
bỏ thi Tú Tài I, chỉ còn Tú Tài II) Chương trình bậc Tú Tài đâu
có dạy con người lối xử sự đẹp với nhau, cũng chẳng dạy con người
cách ăn ở sao cho phải đạo. Mà là từ bậc Tiểu Học. Những môn Công
Dân, Đức Dục đã dạy cho đứa trẻ biết kính trên, nhường dưới, biết
bổn phận một người con trong gia đình, một người dân trong xã hội.
Có Học còn phải có Hạnh mới thành Nhân. Học mà thiếu Hành thì chẳng
giúp được gì dù là cho chính bản thân, chỉ là một mớ từ chương nhét
trong đầu.
Không chỉ người Á Đông mời trọng bằng cấp, Tây Phương cũng quý
bằng cấp vậy. Có khi còn hơn chúng ta nhiều. Bằng cớ là họ đưa ra
hằng ngàn loại bằng khác nhau. Nào là những cái bằng chứng thực
hiểu biết về trí tuệ như Tiến Sĩ, Cao Học, Cử nhân.. thật khó nuốt.
Thấp hơn một tí là bằng chứng nhận hai năm Dại Học. Dê dễ hơn một
chút nữa là bằng cấp xác định khả năng chuyên môn như bằng thợ điên,
thợ máy, thợ làm tóc, móng tay. Dễ có hơn nữa là bằng lái xe, và
dễ ợt, chẳng cần thi cử là bằng... câu cá (nếu ta dịch chữ License
là cái bằng). Học ít, học nhiều hay không học, mọi loại bằng đều
phải tốn tiền vì hầu như cùng dùng trong một mục đích kiếm ăn. Kiếm
lại số vốn đã đầu tư trong việc học. Cũng có không ít người cần
cái bằng để cầu danh. Số người học thực sự cho kiến thức hay chỉ
để giúp đời thật là nhỏ nhoi khiêm nhượng.
Hồi tôi mới tốt nghiệp bằng cử nhân, một anh bạn chồng đến rủ tôi
ghi danh học trường hàm thụ mà anh đã theo. Cứ đóng đủ tiền, bảo
đảm hai năm chị có cả bằng cao học lẫn tiến sĩ. Nghe đã lỗ tai quá
nhưng tôi vẫn thắc mắc hỏi lại anh: Học vậy thì mình biết cái quái
gì. Anh cười tỉnh bơ: Who care. Ai biết được. Miễn mình có mác tiến
sĩ là oai rồi. Vừa nghe thế ông chồng tôi dằn mặt vợ liền: Em đi
học trường đàng hoàng để dạy con chứ không phải để lòe thiên hạ
đâu nhé. Thế là tôi chẳng bao giờ được làm bà tiến sĩ. Dù là tiến
sĩ giấy. Tiến sĩ thật học gì nổi, khó thấy mồ. Người Mỹ học còn
khờ người, huống chi mình tiếng Mỹ ăn đong. Đôi khi tôi giả vờ tiếc
phải chi mình ở Việt Nam thì thế nào tôi cũng tiếp tục đi học để
kiếm một mớ bằng cấp vì chữ của mình chắc dễ học hơn chăng. Cho
đến một hôm tôi gặp mặt Soeur Vân từ Việt Nam sang Italy công tác,
ghé Hoa Kỳ thăm một hội thiện nguyện. Tôi gọi là chị Vân. Chị trông
nom một làng cùi. Chị được nhà dòng gửi về Sài Gòn học về Giáo Dục
để dạy trẻ em. Thiếu bác sĩ, chị được gửi đi học Y khoa để lấy bằng
ra chữa bệnh cho người nghèo trên cao nguyên. Rồi lại tiếp tục học
Dược để phát thuốc. Vẫn chưa đủ, chị lại được đưa đi học Vật Lý
trị liệu về chỉnh hình miễn phí cho người tật nguyền. Khi tôi hỏi
cái bằng nào khó học nhất thì Chị Vân cười thật tươi, nhã nhặn trả
lời: theo chị thì chỉ có mỗi một cái bằng khó học nhất là Bằng Lòng.
Thật là một bài học quý giá cho tôi.
Trần Phương
|