Quán café vỉa hè của tôi ẩn mình dưới bóng mát tỏa ra từ cây phượng
vỹ nằm bên trong bức tường rào xi măng của một xí nghiệp quốc doanh.
Chục chiếc ghế đẩu thấp đặt dựa theo vách tường, cái xe đẩy có chiếc
tủ kính chứa một ít ly tách, vài chai nước ngọt, dăm bao thuốc lá,
hủ chanh muối, lọ đường đặt phía trên, sau lưng chỗ tôi ngồi là
cái bếp nhỏ lúc nào cũng có ấm nước sôi sùng sục. Cái quán chiếm
vị trí ở đầu ngỏ một con hẻm cụt, tận cùng là cái kho hàng cũ trước
năm 75 chính quyền dùng để chứa đồ viện trợ của Mỹ. Bây giờ thì
kho hàng trống trơn dài hun hút chỉ còn trơ bốn bức vách tôn đầy
bụi bám nhện giăng.
Chiều sắp tắt nắng, tôi đang loay hoay lau rửa đống phin lược,
những thứ nghe nói thời gian đầu những người "thắng trận"
gọi chúng là "cái nồi ngồi trên cái cốc", đúng lúc tôi
chuẩn bị dẹp hàng thì một người khách dựng xe đạp dựa vách, kéo
chiếc ghế đẩu thấp ngồi xuống, chợt nhìn thấy người đàn ông tôi
ngạc nhiên thốt lên :
- Ủa, Anh Khang Hy, Anh đi đâu đây, lâu quá mới gặp lại ! Khỏe
không ?
Trước đây mấy tháng Anh Hy là công nhân trong xí nghiệp bên cạnh
quán của tôi. Vốn là Sĩ quan VNCH, sau hơn ba năm đi tù cải tạo,
mới được tạm tha về, Anh đã phải nhờ người quen đút lót tiền bạc,
quà cáp hậu hỉnh cho tay cán bộ phòng tổ chức để xin vào làm công
nhân tại đây, mục đích cho công an khu vực nơi Anh cư ngụ biết Anh
là người có công ăn việc làm chân chính. Nhưng không ngờ, sau ba
tháng làm việc Anh bị gọi lên phổ biến "chính sách mới"
của nhà nước không chấp thuận cho bất cứ một Sĩ quan, viên chức
VNCH nào sau thời gian "học tập cải tạo" được phép ở lại
thành phố. Thế là Anh mất toi khoảng tiền lót tay và cái ti vi 19"
bốn chân, cửa lùa dùng để mua chốn dung thân.
Hồi Anh mới vào làm tại xí nghiệp, nghe những công nhân ngồi uống
café kể lại rằng Anh là Sĩ quan đi học tập cải tạo vừa được thả,
tôi đã thấy có thiện cảm, đến khi có dịp chuyện vãn, tôi lân la
hỏi thăm, được biết Anh trước kia có thời gian ở cùng một trại tù
với chồng tôi. Hai người đã từng chia nhau những miếng cơm cháy
khi đói lòng. Riêng Anh cũng ngạc nhiên không kém tôi, cứ luôn miệng
xuýt xoa "thật tôi không thể ngờ được chị là vợ của Anh Trần".
Vì vậy niềm cảm thông cảnh ngộ, sự tin cẩn giữa chúng tôi sau này
lại càng thân thiết hơn.
Anh vẫn chưa trả lời thì tôi vội hỏi bồi thêm câu nữa :
- Từ khi nghỉ việc ở đây, mấy tháng nay Anh có đi làm ở đâu không
?.
Anh lắc đầu :
- Địa phương bắt tôi phải chọn đi kinh tế mới hoặc hồi hương
nên tôi đâu có dám ngủ nhà, phải lang thang nhà Anh chị em, bà
con mỗi nơi vài ba hôm.
Tôi ngập ngừng dò hỏi :
- Tôi thấy dạo này người ta đua nhau vượt biên nhiều, không nói
ở đâu xa, ngay xí nghiệp này cũng lác đác mấy mống vắng mặt một
tuần lễ, nửa tháng sau đó nghe tin có điện tín gởi về đang ở đảo.
Anh còn nhớ Anh Quang ốm, Chu bắc kỳ, Đạt đen hay ra quán tôi
mỗi trưa uống trà đá không ? Họ vượt biên và đã đến Galang rồi
đó.
- Chị thử đạp xe đi một vòng Saigon - Chợ Lớn thì thấy. Có biết
bao nhiêu nhà đóng cửa, phía trước dán giấy niêm phong. Những
căn nhà đó được liệt vào danh sách nhà vắng chủ.
Tôi hạ thấp giọng hỏi Anh :
- Anh còn độc thân, không vướng bận gì. Sao Anh không tìm đường
để đi đi. Tôi nghĩ là gia đình Anh có đủ khả năng tài chánh chi
phí cho Anh đi mà.
- Tôi về Saigon mấy hôm nay cũng vì chuyện này. Tôi ghé thăm chị
xem Anh ấy đã được thả chưa?
Nghe nhắc đến hoàn cảnh của mình, tôi buồn thiu than van :
- Về đâu mà về Anh ơi, tôi mới vừa nhận được giấy cho phép thăm
nuôi nè, hình như được thăm nuôi " đột xuất " sao đó
nên sớm hơn thời hạn.
Được giấy báo cho thăm mà tôi chẳng mừng vui chút nào vì thừa hiểu
còn đi thăm nuôi cũng có nghĩa là chưa có hy vọng được thả về.
Nhìn quanh, thấy không có ai, Khang Hy nói nhỏ với tôi :
- Hồi ở trong trại, tôi hay nghe Trần kể lại thời gian Anh ấy
đi biển, bây giờ ở ngoài này có nhiều tổ chức vượt biên họ rất
cần tài công. Tôi biết có một tổ chức đang cần người, họ nhờ tôi
tìm giùm nhưng phải là người trong giới hải quân và đã từng đi
biển.
Tôi cũng có nghe nhiều người đồn đãi, nếu làm tài công thì chẳng
những vợ con được đi theo không mất vàng mà người giới thiệu cũng
được cho đi theo kèm theo. Nay nghe Anh Hy nói đến chuyện này nhớ
ra hoàn cảnh, cá vẫn còn trong chậu, chim vẫn ở trong lồng, tôi
chỉ biết thở dài !!
- Anh có thể cho tôi địa chỉ liên lạc được không ? biết đâu chừng.....
có lúc chúng tôi cần đến...
Tôi bỏ lửng câu nói để nhen nhúm chút hy vọng tận cõi lòng.
Anh Hy về đã lâu mà tôi cứ ngồi yên lặng bần thần suy nghĩ quên
cả việc dẹp hàng.
oOo
Tôi có tật xấu là hay mau nước mắt vì bản tính đa sầu, đa cảm.
Chứng kiến một cảnh đời đau khổ, xem một vở kịch bi thương là tôi
nước mắt ngắn, nước mắt dài trông thê thảm hơn người trong cuộc.
Mọi người thường hay nghĩ rằng người mau nước mắt luôn luôn là kẻ
có tính mềm yếu, không thể chiụ nổi những hoàn cảnh nghiệt ngã xảy
ra nếu có. Vậy mà trong ngày 30/4 hỗn loạn, tôi không rơi nước mắt
và cứng cỏi, bình tĩnh lạ thường. Tôi nắm tay chồng nói với Anh,
bất cứ tình huống nào mình sẽ cùng nhau gánh vác, chia xẻ. Nước
mắt tôi chỉ chảy ra vì thương cảm chứ không vì sợ hãi. Tôi không
nhớ là đã đọc ở đâu câu này "những người có tính vui vẻ yêu
đời thường dễ khóc, vì những buồn rầu sẽ theo nước mắt mà cạn dòng.".
Thời gian đầu những người bị tập trung chưa có tin tức, những người
vợ tù chuyền tay nhau chép lại bài thơ " tâm sự người tù cải
tạo ". Mỗi lần đọc đến hai chữ biệt ly trong bài thơ tôi đều
khóc nức nở :
......... Bao năm chinh chiến ta gần gũi
Nay đã thanh bình lại biệt ly !!
Còn nhớ trong một lần đi thăm nuôi người cậu ruột ở trại Suối máu
thay cho mẹ tôi bị mệt không đi được. Tôi theo chuyến xe đi Long
Khánh đến ngang nhà thờ Thanh Hóa thì xuống đi bộ vào. Trại này
chỉ cho gởi đồ tiếp tế vài tháng một lần chứ không cho phép người
tù gặp mặt thân nhân. Khi ra về cách cổng trại độ vài chục bước,
bất chợt tôi nhìn thấy hai mô đất thấp nằm sát con đường đi cạnh
hàng rào kẽm gai bên tay phải, đầu mỗi mô đất có một cây cọc gỗ,
phía trên là một mảnh ván nhỏ dài độ hơn hai gang tay đóng thành
hình chữ thập, trên mặt gỗ có nét khắc sơ sài, mờ nhạt, tôi chỉ
đọc được con số cuối cùng.. 1978. Nếu không nhìn thấy hai cọc gỗ,
đố ai biết được đây là hai nấm mộ vì lớp đất phủ bên trên quá ít
ỏi. Tôi níu tay người phụ nữ đang bồng con đi bên cạnh, chỉ cho
thấy hai nấm mộ mới, miệng lắp bắp không ra lời vì cổ họng nghẹn
ngào. Nước mắt tôi trào ra không chỉ xót thương cho người chết bị
vùi nông, không bia mộ, không hòm quách mà khóc thương cho tất cả
những người đang bên trong và bên ngoài tù ngục.
...... Kiên nhẫn nghe em gắng đợi chờ
Anh về em sẽ hết bơ vơ
Bến xưa sẽ gặp con đò cũ
Tàu lỡ về ga giữa giấc mơ. (*)
Than ôi ! lời nhắn nhủ của người tù bây giờ chỉ còn lại tiếng vọng
ở cõi hư vô.
Tôi gắng gượng đè nén bi thương tột cùng vào tâm khảm để khỏi quỵ
xuống. Tôi cố vin vào những lý lẽ, lịch sử xã hội từ xưa đến nay
bao giờ cũng theo luật tuần hoàn biến thiên của trời đất. Hết nắng
hạn sẽ tới mưa rào, chân lý đời sống cho thấy "qua cơn bỉ cực
sẽ tới hồi thới lai" nhờ vậy con người mới có thêm sức mạnh
để vượt qua những đớn đau, khổ ải, tuyệt vọng để sinh tồn cho dù
chỉ là những tia hy vọng mỏng manh.
Mấy đêm tôi trăn trở vì suy nghĩ toan tính vấn đề đến buốt óc.
Ban ngày đôi lúc pha café cho khách tôi đãng trí suýt rót nhầm nước
sôi vào tay. Vắng khách tôi ngồi im sau tủ thuốc lá, đầu óc ngẩn
ngơ, phân vân giữa hai chữ có nên hay là không !. Dù sao tôi cũng
phải liều đánh ván bài quyết định.
Buổi chiều, dọn hàng về sớm, gởi đứa con trai lên bốn cho bà ngoại,
tôi qua gia đình bên chồng để hỏi ý kiến bởi vì nếu không có sự
đồng ý và giúp đỡ của nhà chồng thì tôi khó có thể thi hành được
ý định. Sự tán thành của gia đình chồng là sức mạnh thúc đẩy giúp
đỡ tôi mạnh dạn hành động.
Thỉnh thoảng, nghe chồng tôi kể lại vài mẩu chuyện trốn trại đa
số đều vượt rừng. Những lần đi thăm trước tôi biết khá rõ về vị
trí, đường lối đi lại cũng như những phương tiện chuyên chở. Tôi
nghiệm thấy muốn thành công thì phải nhanh chóng rời xa nơi này
càng nhanh càng tốt và phương tiện di chuyển là yếu tố quyết định
chính. Tôi biết chắc một khi phát hiện có người bỏ trốn, việc đầu
tiên của đám cán bộ quản giáo là chận xét các chuyến xe rời thị
trấn. Việc thứ hai là theo dõi gia đình, vợ con người tù, do đó
những người thân trong gia đình tuyệt đối không nên trực tiếp gặp
gỡ họ.
Nhờ tài ngoại giao của người em chồng, tôi mua được trọn bộ giấy
tờ của một công nhân lâm trường địa phương bên cạnh. Giấy tờ thật
nhưng người cầm nó để sử dụng thì giả. Tôi cũng an bài được nơi
tạm ngụ trong thời gian ngắn ở nhà một người bà con xa. Việc liên
lạc để móc nối tìm đường đi thì không khó mấy vì đang trong tình
trạng người người đang đua nhau vượt biển ào ào. Tất cả ra đi bằng
nhiều hình thức: đi bán công khai do chính quyền cộng sản tổ chức,
đi an toàn với sự hợp tác bán bến, bãi của công an địa phương và
đi "chui" một cách âm thầm.
Khi người ta có điều mong mỏi vượt quá khả năng thì thường hay
nghĩ đến sự huyền diệu cao cả của thần linh để cầu xin, tôi cũng
không ngoại lệ. Nghe đồn nhà thờ Fatima Bình Triệu có tượng đức
mẹ hằng cứu giúp rất linh thiêng tôi bèn đạp xe đến đó. Là người
ngoại đạo nhưng tôi cũng thành tâm quỳ rất lâu dưới chân đức mẹ,
cầu nguyện cho công việc của chúng tôi sắp tới gặp nhiều thuận lợi
và êm xuôi.
oOo
Tôi và đứa em chồng khởi hành từ lúc nửa đêm về sáng bằng chiếc
xe honda trước đó đã được mang đi tu bổ cẩn thận mọi thứ. Chúng
tôi đến thị trấn gởi xe tại một quán nước quen mà bà chủ là vợ góa
một người lính địa phương quân chết trận 75. Cũng giống như những
lần thăm nuôi trước, chúng tôi theo chiếc xe cà tàng duy nhất vượt
qua ngọn núi cao, dốc thẳng đứng để vào trại. trước đó chồng tôi
đã được chọn bổ sung vào nhóm công tác cách xa khu trại tập trung
chính thức gần hơn nửa đoạn đường. Ở đây việc canh gác có phần dễ
dãi hơn vì tù cải tạo được phân công tác phá rừng chung với những
bộ đội trẻ đang thi hành nghĩa vụ quân sự và sự phân biệt, kỳ thị
thấy rất rõ trong đám bộ đội khi họ gọi nhóm người đi nghĩa vụ này
là "tù con".
Chúng tôi được phép gặp nhau qua đêm nên có thừa thời gian để tôi
bàn bạc dặn dò cho Anh những điều cần thiết. Đoạn đường phải vượt
qua đi đến nơi hẹn không phải khó khăn lắm đối với Anh, có thể gọi
là quen thuộc vì trong thời gian đi rừng đốn cây theo chỉ tiêu quy
định, nhiều tù nhân thường hay lén đi đến các phum, sóc của người
thượng hoặc ven khu kinh tế mới gần đó để mua thêm gạo hoặc cá khô.
Tuy phải lội ngang con suối nằm ở hẻm núi dưới thung lũng, nhưng
đang mùa khô nên con suối chỉ ngập quá gối. Đứng trên bờ vực nhìn
thấy rõ dòng nước chảy ngoằn ngoèo qua những tảng đá trắng xám lô
nhô.
Buổi sáng các thân nhân thăm nuôi giã từ trại theo chuyến xe vào
từ ngày hôm qua, vượt núi trở ra thị trấn. Tù nhân tập họp điểm
danh vào rừng lao động đến chiều như thường lệ. Vì phải vượt qua
đỉnh núi theo đường vòng nên thời gian đi xe và đi băng rừng bằng
đường tắt suýt soát nhau. khoảng thơi gian đi và về từ trại đến
khu kinh tế mới chỉ mất nửa ngày, trong trường hợp đột biến không
thể thi hành theo kế hoạch, Anh vẫn có đủ thì giờ trở về trại đúng
giờ.
Khi chúng tôi ra đến thị trấn thì trời đã quá trưa. Đứa em vội
lấy xe chở tôi đến ngã ba con đường rẽ vào khu kinh tế mới thì dừng
lại, thằng em giả vờ loay hoay sửa xe, tôi ngồi bệt xuống bãi cỏ
hoang bên đường, mắt liếc nhìn chung quanh dưới vành nón. Xa xa
có bóng một chiếc xe chở tre lồ ô của công ty hợp doanh vận tải
đang đậu, dường như tài xế đang nghỉ xả hơi. Con đường đất vắng
hoe, bỗng tôi thấy một bóng người từ ven đường bên trong đi ra,
tay ôm một vật, giữa bóng nắng lóa tôi vẫn nhận ra Anh nhờ bộ quần
áo lành lặn tôi đưa hôm qua. Tôi giục đứa em nổ sẵn máy chờ đợi.
rất gọn gàng Anh đi thẳng đến chỗ chúng tôi, trao cho tôi trái mít
và cầm lấy tay lái chiếc honda, tôi ngồi phía sau, chiếc xe thẳng
hướng trở ra chạy về phía con đường độc nhất ngang qua bến xe thị
trấn, xuôi theo quốc lộ hoạt cảnh diễn ra rất nhanh không đầy năm
phút. Người ta chỉ kịp nhìn thấy một đôi vợ chồng chắc vừa đi thăm
bà con về, phía sau xe đèo một trái mít to, bên hông là cái giỏ
bàng, thật ra trong giỏ chỉ có một bình xăng đầy ắp. Ngang qua chiếc
xe vận tải tôi gật đầu ra hiệu, đứa em chúng tôi sẽ theo chiếc xe
này đi bọc hậu phía sau một quãng đề phòng chuyện bất trắc xe cộ
dọc đường, nếu có chuyện bất ngờ xảy ra, chồng tôi sẽ theo chiếc
xe vận tải này tiếp tục đi đến nơi an toàn. Tôi ước tính với đoạn
đường gần ba trăm cây số chỉ mất hơn bốn giờ đồng hồ là sẽ về đến
nơi như dự định. Tôi cố mang con kình ngư từ ao hồ tù hãm về dòng
sông rộng chờ ngày trở lại biển cả bao la.
oOo
Tôi tìm gặp Anh Khang Hy ngay ngày hôm sau. Quán café của tôi vẫn
dọn hàng bán như thường lệ. Để tiện liên lạc, theo dõi tiến trình
của việc đóng tàu, Anh Hy đưa luôn chồng tôi đến gặp người tổ chức.
Biết tôi sốt ruột và lo lắng, chồng tôi nhờ em gái Anh Hy mỗi tuần
ghé quán cho tôi biết tin tức về Anh.
Từ hôm chia tay đến nay chúng tôi chưa gặp được nhau lần nào. Cảnh
tượng người Tương giang đầu, kẻ Tương giang vỹ, nhớ nhau không được
gặp mặt, cùng uống nước sông Tương cho đỡ nhớ có lẽ còn sung sướng
hơn chúng tôi nhiều.
Lần cuối cùng, em gái Anh Hy đến đưa tin chuẩn bị lên đường, sau
khi đọc xong mảnh giấy Anh viết, tôi cho vào ngay cái bếp than đỏ
lửa sau lưng xóa đi dấu vết..
Ngày khởi hành, tôi giã từ mẹ dắt con ra đi cùng em gái Anh Hy,
đi theo người hướng dẫn, đổi thay nhiều chuyến xe qua nhiều chặng
đường, vượt qua chiếc phà cũ kỹ, ngủ lại dưới mái hiên nhà ngoài
bến xe. Khi được dẫn vào một nơi tạm ngụ chờ liên lạc tôi hốt hoảng
nói với Hạnh, em gái Anh Hy :
- Trời ơi ! có phải dẫn mình đi nhầm chỗ không đây ??
Bởi vì vừa bước vào nhà tôi thấy ngay trước mắt chiếc tủ thờ trên
có hình Hồ Chí Minh khuôn mặt hom hem với bộ râu còi cọc. Trên bức
tường sau lưng có thêm hàng chữ " Hồ Chí Minh muôn năm ".
Căn nhà vắng hoe, nằm dựa trên sàn gạch bông trước bàn thờ, chúng
tôi mệt mỏi ngủ thiếp trong lo âu, chờ đợi.
Gần tối người dẫn đường mới trở lại. Qua câu chuyện lơ mơ tôi được
biết căn nhà là địa điểm ngụy trang để đón khách. Chủ nhà là hai
ông bà già thuộc loại gia đình cách mạng có thành tích chín năm
kháng chiến. Em, cháu của họ là người đi tập kết được đám cán bộ
địa phương rất nể mặt. Không hiểu tại sao những chuyến đi bán công
khai bị đình lại. Những người đã lỡ nộp vàng thì nằng nặc đòi ra
đi, vì vậy chuyến đi được tổ chức để giải quyết số người này. Tuy
khác với hình thức bán công khai ở chỗ không có ghe công An dẫn
đường, nhưng bến bãi đổ người vẫn được thu xếp an toàn.
Tôi gặp lại chồng ở nhà người thợ máy, sau khi chồng tôi cùng với
Anh này đi kiểm tra lại một lần nữa. Để chuẩn bị ngày mai sẽ ra
khơi, gạo nước, dầu mỡ. Người tổ chức cho mang thêm mấy giỏ đựng
đầy ắp bánh tét xuống ghe.
Gặp nhau chưa kịp mừng, Anh nắm tay tôi bóp nhẹ như muốn nói điều
gì. Tôi im lặng chờ đợi, sau giây phút phân vân, ngập ngừng, anh
khẽ nói :
- Anh tính như vầy...!! Em dẫn con đi về đi.
Tôi hốt hoảng,
- Anh nói sao ? có việc gì xảy ra vậy ?
Giọng Anh buồn buồn
- Anh không muốn em và con phiêu lưu theo Anh. Con mình còn nhỏ
quá, tội nghiệp cho con lắm. Anh không đành lòng đưa con và em
vào chỗ chết.
- Anh nói gì sao em vẫn chưa hiểu ra ?!
- Anh vừa đi thử ghe về. Phương châm người đi biển là phải dự
trù tình trạng xấu nhất có thể xảy ra. Rất nhiều người chưa từng
đi biển nên họ chưa hiểu được hiểm nguy đang chờ đợi. Với số lượng
người dự trù lên ghe chiếc tàu sẽ không đủ chỗ chứa. Chủ tàu và
người tổ chức chắc chắn sẽ cố nhồi nhét, gởi gắm thêm người. Ghe
nhỏ người đông, chỉ cần gặp một con sóng lớn là có thể vỡ tan
tành. Vì vậy anh không muốn em và con đi vào nơi nguy hiểm.
Tôi lắc đầu từ chối :
- Không, Em và con không thể sống thiếu Anh. Thời gian qua mình
xa nhau đã nếm trải quá đủ mùi đau khổ rồi. Nếu sống thì cả ba
người cùng sống. Còn nếu chết thì chúng ta cùng chết. Em và con
sẽ theo Anh đi đến cùng trời cuối đất. Chúng mình sẽ có đôi đi
biển và nếu cần sẽ đồng lòng tát cạn biển đông.
Cỏ Biển
----------------------------------------------------
(+) Trích trong bài thơ "tâm sự người tù cải tạo" không
có tên tác giả.
|