(Gởi các bạn cựu Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân OCS, Newport, R.I.,
nhân Đại Hội 8 của GĐHQ/THĐ/OCS tại Boston, Tháng 8, 2004)
Ithaca... Heart racing, Odysseus that great exile
filled with joy to hear Athena, daughter of storming Zeus,
pronounce that name. He stood on native ground at last...
Homer, The Odyssey
1.
Một đêm trăng sáng, có hoa nở và có mây bay, ông Lý Bạch bất chợt
nhớ đến cảnh cũ quê xưa của ông. Trăng sáng sanh tình ông gọi tên
Đông Sơn, ngọn núi hướng đông mà giờ này mịt mù khuất hướng. Gọi
là gọi núi nhưng từ núi nhắc đến hoa rồi từ hoa lân la qua tới người.
Không người thì lấy ai mà trồng hoa. Không người thì hoa nở cho
ai ngắm. Hoa nở mà người không ở bên, người đâm tiếc rẻ, người thấy
mất mát một cái gì không thể thiếu. Người thiếu một cái gì dường
như đã mất. Rồi người bâng khuâng tự hỏi mình đã xa nhà, xa cái
chốn có hoa nở ấy bao lâu rồi. Buồn lắm thay, đã bao lần hoa nở
đứng chờ bên nhà, biết bao lần người lỡ hẹn với hoa. Đã thế, trăng
thật quá vô tình, trăng sáng làm chi dữ vậy đêm nay cho trăng xưa
lồ lộ về trong ký ức. Thì ra có một dạo xa xôi. Có những lùm hoa
dưới vườn đêm. Và có trăng long lanh diệu vợi trước ngõ nhà ai...
Bất hướng Đông Sơn cửu
Tường vi kỷ độ hoa
Bạch vân hoàn tự thán
Minh nguyệt lạc thùy gia
(Lý Bạch – Ức Đông Sơn)
(Non Đông xa cách bao xuân
Cây tường vi đã bao lần nở hoa
Mây xưa hẳn vẫn bay xa?
Trăng xưa biết rụng xuống nhà ai nao?
Ngô Tất Tố dịch)
Bây giờ, tất cả đã xa, thời gian ngưng lại, trăng hôm nay không
thấy mà chỉ thấy trăng xưa. Rồi ông bâng quơ thầm hỏi trăng rụng
xuống nhà ai. Thi sĩ hỏi là hỏi cho vui vậy thôi, chứ thật ra ông
đang tự nói với chính mình. Cái lối tự truyện của kẻ nhớ nhà, vơ
hết vũ trụ vào làm riêng của mình để khỏa lấp phần nào sự trống
trải ở trong lòng. Trăng sáng cho cả thế gian chứ nào phải cho riêng
ai, nhưng không, thi sĩ chỉ thấy mảnh trăng rụng xuống nhà ai đó.
Ai là ai đó, ông nào nói ra vì ai vào đây giữa ta với người ? Ta
với người bên nhau làm nên mái nhà. Những mái nhà nối nhau thành
xóm làng. Từ đó có nơi chôn nhau cắt rốn. Cái trăng tâm linh đó,
người xa quê không thể nào rời bỏ. Nói gì đến trăng, mọi chuyện
nhỏ nhặt xưa cũ cũng trở thành những kỷ niệm khó quên. Đông Sơn
của Lý Bạch cũng chính là Trường Sơn của chúng ta, dãy núi thăm
thẳm in dấu một đời miền Trung nhọc nhằn đói khổ; hay Thất Sơn của
đồng lúa miền Nam chạy thẳng chân trời. Và Đông Sơn tại sao không
phải là Hoàng Liên Sơn vùng Việt Bắc đã hai lần mất nhau, lần đầu
bỏ xóm làng di cư vào Nam năm 1954 và lần thứ hai cuộc di tản ra
biển Đông năm 1975 ?
Đêm trăng yên tĩnh. Ngọn núi vạch vào nền trời thẫm như mũi kim
đâm vào dạ khơi mào. Núi thăm thẳm một màu xanh Trường Sơn và đá
muôn thuở khô cằn. Đêm bật dậy với mảnh trăng treo bên mành cửa.
Nhớ và nhớ. Nhớ manh áo người. Nhớ vạt tóc ai. Nhớ đường khuya hương
ngời hoa lý. Nhớ bùng vỡ ôm đầu. Nhớ rơi xuống lòng cho trổi dậy
quê hương.
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Lý Bạch – Tĩnh dạ tứ)
(Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Tương Như dịch)
Lý Bạch chỉ xa quê nhưng chưa xa nước mà hằng đêm ông đã “đê đầu
tư cố hương”. Ngày nay đối với hơn hai triệu người Việt lưu vong,
quê hương xa vời ở phía cuối chân trời, nửa vòng trái đất nghìn
trùng, ở bên đó dưới những chân mây.
2.
Chiều nay gió về nhiều hơn mọi khi, nơi thị trấn biển chỗ tôi đang
trọ. Từng đợt len lỏi vào da mang theo chất mặn của muối. Rất nồng
nàn. Một chút hương rêu dậy lên níu kéo cả một lòng biển vỗ cuồng.
Bờ đá. Bãi cát dài và chú còng vô vọng trốn chạy vào hang trước
những cơn sóng. Cũng như thế, con người tưởng yên ổn trong ốc đảo
của mình dưới những hưng phế đổi thay của thời gian. Bao ngàn năm
sóng vỗ, những con thuyền ra đi nhắm thẳng biển khơi. Cũng có những
con tàu không bao giờ trở về. Viễn du. Hải hồ. Nhưng bất cứ ở chân
trời góc biển nào, cuối cùng rồi chàng thủy thủ nào lại không ao
ước được trở về bến cảng. Về với người yêu, về với những vòng tay
chờ. Về bến. Về lại nhà. Về lại quê.
Ithaca... yes, I seem to have heard of Ithaca,
even on Crete’s broad island far across the sea
(Homer, The Odyssey : Ithaca at Last)
Ithaca... phải, ta dường như đã nghe tiếng Ithaca,
vang vang ngay từ khơi ngoài đảo Crete bao la.
Odysseus, nhà hàng hải của mọi nhà hàng hải, chàng thủy thủ của
mọi thủy thủ, đã nghẹn ngào thốt lên như vậy trong lần về bến sau
bao năm xa cách quê nhà. Ithaca nung nóng một khát vọng trở về.
Âm vọng từng giây, âm ỉ trong tiềm thức, có nơi nào trên thế giới
này mà ta không nghe đến tên mi. Ithaca at Last ! Cuối cùng ta đã
về lại cùng mi !
Odysseus (Ulysse), nhân vật thần thoại Hy Lạp, anh hùng trận đánh
thành Troy và cũng là vua của đảo Ithaca. Cuộc hành trình trở về
nhà của Odysseus sau cuộc chiến thành Troy, tưởng là một chuyến
về xuôi mái như bao chuyến hải hành bình thường khác trở thành gian
lao với bao cuộc phiêu lưu vào sinh ra tử. Chuyến đi được Homer,
một thiên tài kỳ bí người Hy Lạp vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên,
kể lại trong tập thơ Odyssey, dài hơn mười hai ngàn câu. Biển cả
bao giờ cũng gắn liền với cuộc đời của Odysseus. Từ những trận thập
tử nhất sinh đối đầu với thần khổng lồ một mắt Cyclops cho đến việc
chống chọi tiếng gọi mê hồn của đám ma nữ Sirens, Odysseus luôn
luôn chứng tỏ mình là một kẻ khôn ngoan và mưu lược. Chàng đã lập
kế phục rượu và đâm mù mắt thần Cyclops trong hang động rồi trốn
thoát. Để chống lại sự mê hoặc của Sirens, chàng đã phải dùng sáp
dán kín tai của thủy thủ đoàn, còn bản thân mình thì tự trói vào
cột buồm để không bị rơi vào sự quyến rũ của ma nữ. Lần khác, khi
về gần đến Ithaca, Odysseus vì quá mệt mỏi nên đã gục thiếp đi.
Bọn thuộc hạ ngu dốt đã mở túi gió của thần gió Aeolus vì lầm tưởng
đây là túi vàng bạc quý giá cướp được. Những cơn gió cuồng loạn
thổi đoàn tàu Odysseus trở lại vùng đảo của Aeolus. Tưởng như là
đoạn chót của chuyến trở về đã gần kề ngờ đâu định mệnh xô đẩy cho
những trận càn khôn dời đổi chờ đợi khách anh hùng. Biết bao gian
nguy thử thách, Odysseus vẫn cang cường tranh thủ cho một ngày về
bên vợ con thân yêu. Ithaca, bến cảng quê hương tuy xa vời trong
địa lý mà luôn luôn thân mật cận kề trong tâm tư.
3.
Quê và Biển. Biển chạy dài trên hai ngàn hai trăm cây số,
ôm gọn hết dải đất Việt Nam. Đi đâu trên đất nước mà ta không thấy
biển và sông. Đông hải mênh mông nối dài cho Hồng, cho Hương, cho
Cửu Long cuồn cuộn chảy. Nước bao quanh nhà. Nước trở thành Nước
viết bằng chữ hoa, nơi sanh sản ra nòi giống Việt. Không có ngôn
ngữ của một quốc gia nào gọi quê hương mình bằng chữ Nước. Nước
tôi là “my country” trong tiếng Anh và “mon pays” trong tiếng Pháp,
chứ không là “water” hay “eau” cho danh từ quốc gia bao giờ. Ta
gọi Nước Nhà vì nhà là đơn vị cơ bản của một xã hội. Có nhà từ đó
mới thành ra nước. Hoán chuyển vị trí của hai chữ Nước Nhà thành
Nhà Nước ta liền có chính phủ, tức là công quyền, tức là nhà cai
trị. Ngay ngôn tự, cha ông ta đã có một tinh thần dân chủ, hay nói
rõ hơn một tinh thần từ dân, vì dân và cho dân mà không cần vin
vào một lý thuyết xa vời nào khác. Nhà Nước, hay chính phủ, bắt
đầu bằng chữ Nhà. Mà trong nhà có ai khác ngoài dân, ngoài quần
chúng, ngoài đồng bào, những đơn vị nhỏ nhất, thấp cổ bé miệng nhất
nhưng cũng quan trọng nhất để tạo nên quốc gia. Nhà Nước không lo
cho dân và vì dân, dân sẽ đói khổ, lầm than. Một khi con người đau
khổ thì làm sao họ an cư, xã hội làm sao ổn định? Từ đó đất nước
đâm loạn lạc vì Nhà không hạnh phúc, lấy gì Nước được phú cường?
Cho nên khi Nhà Nước không lo cho dân, không phục vụ cho nước thì
Nước Nhà rắm rối bại hoại. Nhà Nước hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa
bao giờ chịu hiểu cái nghĩa lý sơ đẳng nhất đó của danh từ Nhà Nước.
Đã gần ba mươi năm xa nước, những chàng thủy thủ hào hùng ngày
nào đã bắt đầu thấm thía sự tàn nhẫn của thời gian trên những bến
lạ. Đâu đó những vùng sông rạch một thời, những thành phố duyên
hải đã ghé qua, những chuyến hải hành đêm, không nhắc đến vẫn tự
tìm về đôi khi trong trí nhớ. Gặp nhau, năm bảy đầu tụm lại, mái
trắng pha màu, chuyện vỡ những năm tháng cũ xưa, nói mấy cho vừa.
Nhớ nước, thương nhà, nhưng nhà còn đau và nước chưa yên. Một vài
chuyến về thăm quê, vui thú gia đình sum họp quây quần nghe chừng
như những ánh đom đóm bập bùng trong đêm tối. Ở bên đó đêm vẫn còn
rất đêm. Ừ, thì sẽ có những đêm dài “đê đầu tư cố hương” trong cuộc
sống lưu vong ở bên này, nhưng còn lại rất nhiều những đêm khác,
những đêm Odysseus vùng dậy trong lòng chàng thủy thủ, vung gậy
đánh thẳng vào ngay tâm điểm mắt của độc nhãn Cyclops. Hắn sẽ ngã
xuống và chết mù lòa ngay trong chính hang động của hắn. Vết đâm
quyết liệt rút ngắn đường về. Chàng thủy thủ sẽ thuận buồm xuôi
gió trở về bến. Như Odysseus, chàng sẽ reo lên, Saigon at Last !
Xin trả lại tên cho ngươi, Saigon ơi ! Và như thế, “như chim
hồng, chim hạc... dù lưu lạc mười phương, chúng ta vẫn bay mãi trên
vùng trời quê hương, đuôi xòe đóa sen, lưng chở núi, lòng ôm mặt
trời, đôi mắt trừng trừng nhìn hư không xanh, và đôi cánh lộng làm
rơi rụng nghìn dặm cách chia...” (Thi Vũ – Quê Mẹ, Paris)
Vũ Hoàng Thư
Santa Barbara
Tháng Tư, 2004
|