Hắt hiu về lại tiếng lời
Mưa ruồng tuổi dại nhịp khơi vô thường
Đêm mùa ngõ lối mù phương
Trắng em bờ vực còn hương ngải trầm
Vũ Hoàng Thư
1.
Mùa hè ở Song Thành năm nay mưa nhiều. Mưa về gần như mỗi ngày,
dai dẳng khác thường. Mưa từ chiều rả rích vào đêm, thức dậy cùng
buổi sáng ướt tiếng chim hót trong tàng cây bồ đào trước nhà. Đêm
chờ ngủ, tôi ngồi nghe gió thổi mưa lên khung cửa kính khép hờ.
Tiếng mưa rơi đều, bời bời nhịp đập vọng về từ những đêm mưa mùa
cũ. Xa tắp. Mơ hồ. Âm thanh vỗ về hoài niệm nghe như tiếng gọi thân
tình vọng tự một miền xa. Mưa bay theo gió chùng thổi vào hồn nỗi
xao xác nhớ nhà. Nhà thì ngút ngàn bên kia biển xa xôi. Người thì
vẫn kiếp lục bình trôi dọc thời gian. Thế nhưng tưởng nhớ mang kỷ
niệm về gần. Hai mươi chín, ba mươi năm xa mà chừng như mới vừa
hôm qua. Mới như tiếng dế đêm qua rộn góc vườn trăng lóng lánh giọt
mưa vừa ngớt, hồi hộp bàn chân bước trẻ thơ. Mới như đang lúc này
giữa cơn mơ mòng thèm hít thở hơi mưa bay bay chiều phố biển quê
nhà.
Đôi mắt trong hồn hắt hiu ngó về quê mẹ rồi lòng chợt bồn chồn mối
chiêm nghiệm về những chọn lựa trong đời. Chọn lựa nào cũng để lại
mối đau như cơn mưa rớt hoài không tạnh trong lòng. Dòng mưa bay
qua năm tháng, nơi chốn, kỷ niệm, tuổi xuân. Mưa rơi nhòa hệ lụy,
biển dâu, phai nát đá vàng. Hạt mưa quyện bay theo cung bậc miên
man của dòng sinh chuyển đất trời, lay thức giấc cô miên trong mỗi
tâm hồn đang chùng đợi buổi sáng giao mùa.
Mơ màng theo dòng mưa bay, tôi bắt gặp mình thơ dại phân vân giữa
cơn mưa đầu nguồn trí nhớ. Thời gian có lẽ vào khoảng tháng Mười,
năm năm ba. Sao lại tháng Mười ? Tôi không còn nhớ. Có lẽ những
năm sau đó, thường nghe cha mẹ hay người lớn than thở về những ngày
tháng Mười mưa bão nhiều. Tội nghiệp tháng Mười không kịp vui, tháng
Mười “chưa cười đã tối”, tháng Mười “ông tha mà bà không tha”. Tội
nghiệp đứa bé vừa mấy tuổi đời đã nếm cảnh tấn thối, sinh ly...
Trời đã sẩm tối mà bến xe Vĩnh Điện vẫn còn nhộn nhịp. Đèn măng-sông
trong quán trọ thắp sáng trưng. Thằng bé chưa đầy bốn tuổi, ngồi
im lặng bên đứa em gái lên hai, mắt hấp háy nhìn ly sửa trắng ngà
trên bàn. Ngoài trời mưa tuôn tầm tã. Lấp lánh qua ánh đèn, từng
sợi mưa cắm nghiêng xéo xuống mặt đất sình lội, rác rưởi. Người
cha râu tóc phong trần trong chiếc áo nhà binh bốn túi rộng thùng
thình. Ông ngồi quên ăn chăm chú nhìn người mẹ đút cơm cho đứa bé
gái. Thỉnh thoảng ông quay qua, mỉm cười, xoa đầu đứa con trai vẫn
ngồi nhìn ra màn mưa đang xối xả bên ngoài. Mưa trút xuống đời như
nỗi lo lắng cho tương lai gia đình đang xốn xang trong lòng ông.
Luồn lỏi vén khéo lắm người cha mới đưa được gia đình ra khỏi vùng
kháng chiến. Gia sản gom không đầy chiếc ba-lô trên vai, họ dắt
díu nhau rời Bồng Sơn tìm đường hồi cư về Huế. Ra tới Quảng Ngãi,
gia đình phải chờ đợi nhiều ngày, cuối cùng mới được cấp giấy về
vùng Quốc Gia.
Mưa bắt đầu lúc trời mới qua trưa, khi cả nhà leo quá giang chiếc
xe nhà binh ở Quảng Ngãi. Tấm vải bạt đậy thùng xe cột lỏng lẻo,
buông phất phơ như ống tay áo của một phế binh. Trong một lúc lâu,
thằng bé thích thú ngồi lắc lư theo nhịp dằn của chiếc xe nhà binh
cũ kỹ, mắt ngóng chờ từng đợt nước văng tung tóe lúc xe chạy qua
ổ gà ngập nước. Lúc xe dừng lại ở bến xe Vĩnh Điện, người cha phải
bồng thằng bé đã ngủ say vùi vào quán trọ. Ánh sáng chan hòa và
cảnh rộn rịp trong quán khiến đứa bé tỉnh ngủ, ngơ ngác nhìn quanh.
Rồi nhìn mưa.
Lắng nghe cha mẹ bàn định chuyến đi ngày mai về Ngoại, thằng bé
lờ mờ không hiểu nhưng lòng cảm thấy buồn buồn. Mẹ nhắc đến gia
đình đứa bạn duy nhất của nó đã hồi cư về Đà Nẵng một tháng trước
đây. Huế. Đà Nẵng. Hai nơi có lẽ rất xa nhau. Nghe nói là phải qua
đèo. Thằng bé tụt xuống ghế, ra đứng bên hiên quán nhìn mưa.
Hắn suy nghĩ cả hồi lâu vẫn không thể nhớ ra một cơn mưa lớn và
dai dẳng như thế ở Bồng Sơn. Có thể là hắn bận chơi đùa với bạn
nên không để ý tới chuyện mưa nắng, chia lìa. Có thể vì hai đứa
sẽ không bao giờ gặp nhau nữa nên trời mới mưa lớn thế này. Hồi
trước, hai đứa lúc nào cũng cặp kè với nhau nên bờ sông Lại ngờ
ngợ cát trắng lúc nào cũng nắng ấm. Và trời thì rất xanh, như bóng
dừa. Đôi bàn chân nhỏ lúc thúc chạy dọc theo bờ sông, giỡn đùa với
nước. “É ơi É, qua nhà ông Mỹ Hẻ chơi É!” ...Thằng bé nghĩ đến tiếng
rủ gọi của bạn mà tiếc ngẩn ngơ những lần hai đứa qua nhà ông già
hàng xóm chờ được ăn rẻo kẹo đậu phụng. Hắn chợt biết sẽ không còn
dịp hai đứa ngồi sụp nép vào nhau bên vệ đường, thích thú lẫn sợ
sệt nhìn bầy voi từ An Lão xuống, đủng đỉnh đi qua khu phố nghèo
mái tranh đường đất, vòi vươn cao ngang đọt dừa. Thằng bé đứng nhìn
mưa, nhớ bạn, lòng buồn quá đỗi.
Thế mà sáng hôm sau qua đèo Hải Vân, được đứng giữa lưng trời, khích
động nhìn mây nước phủ mờ dưới chân, lòng trẻ thơ đã vội quên đi
nỗi buồn.
Hai năm ở Huế trôi qua với hình ảnh ngôi nhà có nhiều bậc cấp của
Ngoại ở gần chợ Bến Ngự và những chiếc dù khác màu treo lủng lẳng
dưới hàng hiên vào những ngày mưa. Có rất nhiều ngày mưa ở Huế.
Thằng bé tiếc rẻ nhìn những tái thị vàng thơm nằm tả tơi trên mặt
đất trong sân nhà hàng xóm ở hông chợ lối xuống bến sông. Vào một
ngày tạnh ráo hiếm hoi giữa mùa mưa lũ, không lâu sau ngày mẹ cha
thối về quê ngoại, thằng bé được ông Ngoại cho cầm dù theo ông đi
coi nước lụt. Nhìn dòng nước đục cuồn cuộn từ ngả Phú Cam trôi về
như muốn đâm sầm vào cầu Bến Ngự, đứa bé sợ hãi nắm chặt lấy tay
Ngoại quên cả sự e dè thường ngày. Những thân cầu Kho Rèn, Nam Giao
nhìn từ xa như chìm thấp hẳn xuống, chới với trên mặt nước đang
hồi thịnh nộ. Bờ sông ngắn và dốc thường ngày với những bến giặt
có nhiều bậc cấp giờ đây đã chìm trong nước. Thằng bé thích thú
theo ông Ngoại lội qua khoảng đường lắp xắp nước trước cổng vườn
Viễn Đệ. Đôi chân đứa bé chìm ngập lên tới háng trong cặp bốt nhà
binh màu cứt ngựa của người cậu. Chiếc dù vàng bung rộng chụp xuống
thân hình bé nhỏ. Nhìn từ xa, trông như Ngoại của hắn đang dẫn một
chiếc nấm biết đi.
Lúc hai ông cháu về lại nhà, Ngoại lấy cán dù chỉ vào vết lằn chạy
dọc theo bậc cấp cao nhất, ngấp nghé nền hiên. Chưa thấm chi với
trận năm Thìn. Ngoại treo chiếc dù sũng nước lên mái hiên, bước
vào nhà. Đứa cháu ngoại đứng ngơ ngác nhìn theo. Lần này Ngoại không
chêm tiếng Tây, nhưng năm Thìn là gì thì phải hỏi ba mẹ. Đứa bé
lắc đầu, ngồi xuống thềm hiên, nằm ngửa người rảy rảy đôi bốt ra
khỏi chân.
Vài ngày sau, người cha dẫn con đi hớt tóc ở tiệm của một ông già
phía bên kia cầu Bến Ngự . Năm Thìn là năm con Rồng. Rồng phun nước
nên năm Thìn thường hay lụt lội dữ lắm. Người cha giải thích. Đứa
con ậm ừ chẳng hiểu gì thêm, chân lúp xúp chạy theo cha cho kịp
lần hớt tóc tiệm đầu tiên trong đời. Tiệm là gian nhà tranh nhỏ
bên đường, dọc theo bờ sông giữa cầu Nam Giao và Bến Ngự. Bên trong
lỏng chỏng chiếc bàn nhỏ có hộc đựng dao kéo, tấm kính soi mặt lớn
treo trên vách đã ngả màu. Lơ lửng treo từ giữa nóc tiệm là tấm
ván mỏng cắt theo dạng một chiếc quạt nan thật lớn có dây kéo. Khách
chờ ngồi trên băng ghế nhỏ đặt dọc theo vách hông có nhiệm vụ kép
dây để chiếc quạt lui tới phe phẩy vào những ngày hè đứng gió. Ngồi
trên chiếc ghế đẩu cao trước bàn, thằng bé để ý thấy khoảng sông
nước trong tấm kính hình như cũ kỹ, chìm xa. Đứa bé xoay người nhìn
chiếc ghe chài trên sông rồi lạ lẫm nhìn hình ảnh chiếc lưng của
người quăng lưới gù lệch đi trong tấm kính. Thợ hớt tóc là một ông
già nhỏ bé, hói đầu, chuyện trò luôn miệng.
- Rứa mi là cháu ngoại của ông Thông Tằm đó hỉ ?!...
- Cái ôn ni hay thiệt. Làm răng mà ôn nôm được con gái lớn của
ông Thông Tằm giỏi rứa ?
Người cha ừ ào cho qua chuyện, tay lơ đãng kéo sợi dây làm chiếc
quạt đong đưa phả gió mát rượi.
- Thằng cháu ngoại ni cũng giỏi ghê nghe. Tao tưởng mi nói giọng
nẫu chớ. Té ra mi nói tiếng Huế mình.
- Chẳng có chi lạ. Cho dù ở đâu, con cái thường hay nói theo giọng
quê của cha mẹ.
Người cha phân bua, trong lúc thằng bé chợt sặc lên cười, không
biết vì tiếng “nẫu” ông già rất-Huế cố ý giả giọng hay vì sự nhột
nhạt lúc ông dùng cái bót lông mềm thoa nước lạnh ngắt lên gáy lên
cổ đứa bé.
2.
Gần mười năm sau, khi gia đình tôi từ Đà Nẵng trở lại Huế thì ông
bà Ngoại đã theo người cậu, em kế mẹ, vào sống ở Sài Gòn từ vài
năm trước. Ở lại Đà Nẵng trọ học, tôi thích thú nôn nao từng chuyến
xe đi về qua ngọn Hải Vân vào những dịp nghỉ hè tết lễ. Cảm giác
lâng lâng khi nhìn mây nước quyện nhau từ chốn lưng trời trên đỉnh
Hải Vân chẳng hề suy biến trong tôi. Mãi mãi đậm nét trong ngăn
phần kỷ niệm, hình ảnh đứa bé bốn tuổi, rồi sáu tuổi, thích thú
lạ kỳ với cảm giác đang đứng trên mây nhìn xuống mặt biển mờ sương
khói. Những cụm mây vương vấn sương mai, trễ hẹn với gió, bay là
đà trên mặt đường rồi nhẹ nhàng vờn níu bước chân khách viễn du.
Những năm về sau, đôi khi đứng trên đỉnh đèo mưa rơi nhìn về phía
vừa đi qua, bối rối phân vân, tôi quay bước rồi mà vẫn tự hỏi lòng.
Đi đến hay đi về, phần còn lại của cuộc hành trình vẫn là con đường
đi xuống. Hạnh phúc có phải đang náu mình đâu đó dưới truông mây
xa? Sỏi đá lăn mình về lũng sâu, ước mơ rồi thất lạc kiếm tìm. Dù
sao, tôi đã có lần từ đỉnh núi đó bâng khuâng nhìn về hai phía,
thấy bay đi những cơn mưa.
“Mỗi người Huế có một mùa mưa riêng trong trí nhớ đã thành
kỷ niệm...” (1). Còn tôi, đi đi về về với Huế, với Đà Nẵng,
cậu trai tơ chợt thấy mình lớn lên, chợt tất bật vụng về, trong
ni thương ra, ngoài nớ nhớ vô. Dòng thương nhớ, dòng mưa, bay qua
Hoàng Thành, qua dòng sông An Cựu nắng đục mưa trong (2). Mưa vần
vũ trên đỉnh Hải Vân, níu thêm mây xám lưng đèo, rồi đổ hết luyến
lưu xuống bến Hà Thân làm ướt áo bầy nữ sinh qua chuyến phà lối
về An Hải. Hắn vội vàng quảy thêm nỗi nhớ đổ vào mưa, đầm đìa một
mùa riêng từ lúc hạt mưa còn tươi, lóng lánh trên từng sợi tóc mai
e ấp má hồng non mười bốn. Cậu học trò nửa-Huế-nửa-Quảng bỡ ngỡ
theo bầy bạn mới quen từ Bến Ngự đạp xe qua Kim Long. Cơn mưa mùa
hè bất ngờ đổ xuống bến Vạn Xuân. Bầy học trò ồn ào bỏ bến nước,
té chạy vào ngôi từ đường kín đáo trầm tư trong khu vườn xanh mướt
thanh trà. Nép mình bên gốc phượng, hắn điếng người không dám thở
mạnh, nhìn mưa sa mù trên dòng Hương bất chợt lênh đênh. Con bé
Đồng Khánh mà hắn ớn nhất vì cái tính chua ngoa, không chạy theo
bầy, có lẽ đang đứng núp mưa cạnh hắn. Gần lắm. Từ cuối tia mắt
nhìn xuống, lụa đẫm mưa hồng ôm bờ chân thuôn mịn màng tôn nữ. Mưa
vẫn rơi. Không gian rạt rào cơn luân vũ, thấm đượm vào thân thể
dòng cảm giác ngần say của một cơn sốt lạ đang nóng bừng da thịt.
Trong thảng thốt hắn nghiêng người theo nhịp tim đang đập nhanh
hồi xúc động, chạm vào cánh tay trần mát rượi mưa sa. Đôi mắt mở
lớn vướng sau nhành tóc ướt buông rèm theo bờ mi thanh xuân. Hạt
mưa đọng trên môi, lưỡng lự lăn dài xuống cằm, xuống cánh áo lụa
đẫm mượt vóc tràm thơm. Hắn hoảng hồn quay mặt, bước đâm sầm xuống
bến sông. Những giọt mưa mát mặt và nước dòng Hương quyện ấm dưới
chân giúp hắn choàng tỉnh cơn mộng du, chỉ để cảm thấy ngượng ngùng
mà tự trách mình sao vụng về quá đỗi. Té ra con chằng ni đẹp dễ
sợ. Hắn thầm nghĩ, trong bụng muốn gan góc quay lại, ngắm cho bưa,
nhưng cuối cùng rồi cũng chỉ dám một thoáng nhìn. Mường tượng bóng
lụa hồng bên bờ nước lẫn chìm trong tàng phượng rũ lá, mênh mông
màu hoa đỏ lưng trời vừa ngớt hột.
Mùa hè ở Huế oi ả trôi qua, hiếm hoi những ngày mưa. Nên vẫn còn
ướt át trong lòng cơn mưa đầu mùa mới lớn. Còn thơm trong trí nhớ
đôi môi xinh tôn nữ láu táu ăn hàng trong quán bánh bèo dưới chân
núi Ngự Bình. Và vẫn giòn tan tiếng cười bầy con gái Đồng Khánh
giỡn đùa trên bến nước xanh bóng tre. Lối mòn xuống bến gần Tòa
Viện Trưởng, hắn rành như đếm nhưng chẳng dám mon men, nên Cầu Ga
vẫn cụt ngủn cho dù hắn và lũ bạn liên minh Quốc-Học Hàm-Nghi đã
vòng xe đạp không biết bao lần. Cuối cùng, tên gan lì nhất trong
bọn đã hiên ngang dựng chiếc xe đạp bên thành cầu, khum tay cất
tiếng gọi tên con bé nó “chiếu tướng” từ lâu. H. thơ H. mộng, cái
... H. tọng bộng... Bến nước hiền ngoan bổng dậy ba đào. Bầy con
trai tan tác đạp xe, cao chạy xa bay khỏi vùng âm thanh ngọt xớt
mà chanh chua eo óc. Ngồi nghĩ mệt dưới chân bậc cấp lối lên chùa
Báo Quốc, hắn nghĩ tới chút nhụy bánh bèo dính phía trên khóe môi
đứa con gái, như một nét son duyên... Đạp xe thả dốc Nam Giao, gió
mát lộng và cái miệng duyên dáng dễ thương của đứa con gái đỏ au
trong trí tưởng hắn. Lúc chiếc xe đạp hết đà lừ đừ lăn từng vòng
bánh qua cầu, quẹo về phía đầu đường Nguyễn Huệ, hắn cũng vừa quyết
định là con bé chẳng cần thêm thắt nút ruồi son làm chi cho rườm
rà. Cái miệng đó đẹp nhất trong đám và đã ăn hàng quá mạng rồi...
Ngày vào lại Đà Nẵng, đứng trên đỉnh đèo Hải Vân giăng mắc mây
trôi, hắn nhớ những ngày hè qua mà lòng thì nao nao nghĩ tới bạn
bè trường lớp và trời thu mưa sắp đến trong thành phố trở lại. Sự
luân chuyền của mùa theo dòng thời gian trôi xuôi cùng thinh sắc
ảnh hình khiến nơi chốn trở thành và chỉ còn là nỗi nhớ im lìm mà
bền chặt như những tảng màu lạnh của một bức tranh tĩnh vật . Hình
ảnh cánh phượng hồng lả tả rơi trên dòng Hương và những trái phượng
già rụng nằm vương vãi trên đường dọc bờ sông Hàn như nét chấm phá
ở hai đầu của một quãng đời. Thời gian trôi, những đứa con trai,
con gái, lớn lên và kỷ niệm chuỗi ngày thơ sẽ nối dài thêm ước vọng.
Người đứng nhìn đọt núi vói trời rồi vọng theo ngàn mây trôi mà
mãi hoài kiếm tìm cho mình giấc mộng trùng khơi muối mặn. Tự nghìn
năm xưa, người đi về biển xanh, người ở lại đầu non, nên người vẫn
mãi phân ly, ngoái vọng, đợi chờ, dắt díu, ra đi. Trên đá cũ lũy
đồn cheo leo quan ải, từ hàng trăm năm trước có lẽ gió núi vẫn thổi
chạnh lòng người lính thú Đàng Trong. Người hiu hắt nỗi lòng trấn
thủ lưu đồn, đợi chờ một tin nhạn, một bóng quần thoa, từ tuốt luốt
ngoài tê xa xôi truông phá. Bởi thương anh em cũng muốn vô,
sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang... nên người vẫn... chiều
chiều mây phủ Hải Vân, súng rền Non Nước bâng khuâng dạ người...(2).
Trăm năm sau, chiều nay cũng có những người lính áo trận bạc màu,
đóng đồn trên ải quan xưa lộng gió, theo xe từ đỉnh núi xuôi về
hai phía chân đèo.
Những giấc mơ vẫn lặn lội trên đường. Cơn mơ nào nối liền cách
trở cheo leo như những toa tàu nối vào nhau bền bỉ, chừng mực. Con
tàu thấp thoáng băng mình qua cánh rừng xa, mỏng manh làn khói xám
bị gió xé rã rời. Thế thôi, dù có lắng tai cũng chẳng nghe được
chút âm vọng nào ngoài nhịp đập tim mình và tiếng gió trời. Con
tàu vẫn lăn mình về phía trước, lúc chênh vênh bên triền vực, khi
tối tăm dằng dặc qua mấy dặm hầm sâu, để làm chuyện nối liền. Con
tàu ra đi, quay về, níu kéo thời gian, nối lại những quãng đời có
mưa rơi ở hai đầu nỗi nhớ. Tàu ra Huế, tàu vô Đà Nẵng. Nam Ô. Liên
Chiểu. Cầu Hai. Nước Ngọt. Ga lớn. Ga xép. Sân ga. Vẫn tiếng máy
tàu sình sịch, vẫn khói tàu phun cao hào sảng rộn ràng và tiếng
người gặp gỡ chia lìa, ân cần lưu luyến.
Rất nhiều năm sau, vào những ngày mưa trên Tiền Giang hay bên dòng
kinh miền cuối Việt, gã lính sông biển giang hồ vẫn thường bâng
khuâng nhớ về mùa mưa thời mới lớn với từng cơn bão rớt qua phố
vịnh quê nhà. Gió khơi xa về vần vũ thét gào làm cánh rừng dương
quanh bờ vịnh run rẩy rạp mình. Gió cuồng lay xé tả tơi những đám
mây thấp trôi nhanh trên nóc hàng phượng dọc bờ sông. Vùng nước
bình yên cuối dòng sướt mướt mưa nguồn chợt cuồn cuộn sóng trào
như đại dương cuồng nộ ngoài kia. Nước nguồn. Giọt núi rừng truyền
kiếp cưu mang chợt một ngày nhớ biển kéo phăng về đồng bằng, hiếp
đáp dòng sông phẳng lặng, nước xanh như tàu lá.
Dưới trần mây xám sũng nước, bầy học trò con trai tơi nón đạp xe
đi coi nước lụt. Trên khoảng đường dọc bờ sông Hàn từ Bến Mía về
phía cổ viện Chàm, có lẽ hình ảnh sinh động duy nhất là dáng bầy
học trò gò lưng trong gió ngược. Những chiếc áo mưa trùm đầu, gió
bọc căng phồng, nối đuôi nhau như đoàn người lưng gù lặng lẽ hành
hương mặc cho dòng nước lũ giận dữ tuôn trào. Đỉnh tháp chuông nhà
thờ Con Gà thoắt biến thoắt hiện trong nền mây hung hãn, trông như
một cánh buồm trên đại dương giông bão.
Bầy học trò hăng hái đạp xe qua đoạn đường trũng từ ngã ba Chợ
Mới đến gần cầu Trịnh Minh Thế. Một phần vòng xe ngập nước theo
đà quay chẻ tuông tung tóe làm sũng ướt từng trận cười vô tư. Cả
bọn tụ tập trước cổng nhà cô giáo dạy Pháp Văn, chờ được dịp đẩy
chiếc xuồng nhỏ từ sân ra đến bờ đường cao để cô giáo khỏi ướt chân.
Trường Phan Châu Trinh của hắn đã tạm đóng cửa mấy hôm để làm nơi
tạm trú cho nạn nhân lũ lụt từ những quận lỵ vùng núi miệt Tiên
Phước, Quế Sơn. Cô ra vào lo lắng, dõi mắt nhìn về phía cây cầu
đang oằn mình chịu đựng sức nước từ núi rừng cao đổ xuống. Giữa
làn nước đục cuồn cuộn sóng trào và trần mây sa thấp xỉn, chiếc
cầu sắt đen trông mỏng manh đến tội nghiệp. Xác những mái tranh
nghèo, bụi chuối tàng lá còn xanh, bị bứng gốc khỏi mảnh đất quê,
trôi nổi rã rời trên dòng nước lũ.
Bầy học trò quay xe, đạp dọc theo bờ sông xuôi về lại phố. Những
chiếc lưng đầm mưa cúi rạp trên thành xe, nương theo đường gió rít
điên cuồng trên tàng cây bạc hà lúc qua Trẹm. Dải đất bồi cuối thành
phố giờ đây như hải đảo sóng cuộn quanh bờ. Con đường cát mòn ngấm
đẫm mưa dầm, dẫn bầy học trò len lỏi qua xóm Thanh Bồ, rồi dừng
túm lại sững sờ trước khu rừng dương ủ ê gãy đổ, nằm rạp mình bi
thương dưới trận gió bão cuồng quay. Mây đen cuồn cuộn phủ kín vùng
trời vịnh biển, chỉ chừa khoảng sáng nhỏ phía cửa chân trời tiếp
giáp với đại dương. Từng đợt sóng bạc đầu tung trào hung hãn. Sóng
thét gào đổ ầm vào bờ mà giờ đây chỉ còn là rẻo cát xám gầy guộc.
Liếp cát chắn quá mong manh cho cánh rừng dương chừng như đang phải
liếm láp vị mặn của biển sau mỗi cơn sóng trào.
Trên đường trở về nhà, đạp xe qua ngã Cầu Vồng, cậu học trò một
mình thả dốc về phía Ga. Hắn tần ngần vòng xe trước con hẻm ướt
mưa. Tim đập rộn ràng khi hắn nhìn thấy bóng dáng mái tóc dài thấp
thoáng sau khung cửa màu xanh. Mái hiên nhà cô học trò e ấp dưới
giàn bông giấy đang chờ mùa hoa tới, vầng lá xanh rì đầm đìa giọt
trời theo cơn bão rớt qua thành phố. Hắn đạp xe đi, mắt còn ngoái
chờ một tia ngẩng nhìn và lòng thì vẫn nhủ thầm.
Lúc đạp xe qua ngã ba Cây Quăng, đứng nhìn cống nước cuồn cuộn chảy,
hắn mường tượng tới lúc mái tóc ngẩng nhìn lên. Hắn ngần ngừ tiếc
rẻ không còn đứng đó vì lúc này cô học trò có lẽ chỉ còn nhìn thấy
mưa trôi giạt bên ngoài khung kính.
Phan thái Yên
7/2004
(1) Trần Kiêm Đoàn
(2) Ca dao |