Ông già khum khum lưng bàn tay che mắt. Mặt trời
đã lên cao nhưng dãy phố bìa sa mạc này vẫn còn tê ngủ. Cổ, tay
áo ông bay phần phật. Gió lớn. Gió, nghe âm âm đâu từ bên kia dãy
núi, luồn lách hung hãn qua những sườn đèo, đổ bộ xuống cánh đồng
dại, làm sóng dữ trên mặt thảm hoa vàng. Phải hủy chuyến đi dạo
thường lệ thôi! Ông già quay lại chiếc ghế đá dưới giàn hoa giấy
bên hiên, đốt cối thuốc đầu ngày. “Ở nhà vậy, bạn ta!” Ông già
vỗ vỗ hông con chó. Con chó, đã ngán đuổi loắng quắng theo những
chiếc lá khô, nằm ngoan xuống bên chân ông, hai tai cụp đến má.
“Chào bác! Gió quá! Vẫn không có gì cho bác ạ!” Cô
gái bưu tá viên vẫy tay khi băng qua sân cỏ.
“A, cháu... Ta hiểu!
Ta biết bà ấy sẽ không bao giờ gọi hay viết cho ta đâu!” Ông già
ngượng nghịu.
“Thế còn mấy con bác?”
“Bọn chúng cũng bận lắm. Trôi
những dòng riêng!” Ông già thở dài. “Bây giờ ta chỉ còn trông đợi
giấy tờ trợ cấp hưu bổng và tờ tạp chí Việt Nam thôi!”
“Thế đấy!”
Cô gái chậc lưỡi. “Chúc một ngày tốt lành.”
oOo
Sau đám cháy, người trong phố chỉ biết bấy nhiêu chuyện
về ông già trong ngày gió lớn ấy. Cảnh sát sở tại cũng chẳng hề
truy cứu gì thêm dù đã được cô gái cung cấp thêm một chi tiết quý
giá: buổi sáng ấy có một chàng thanh niên lạ mặt đến gặp ông già.
Bảo anh ta hai mươi cũng được. Ba mươi cũng xong. Thật khó lòng
lượng tuổi một thanh niên Á Châu có màu mắt và nét mũi Tây Phương.
Chàng đỗ xe bên kia đường khi cô gái vừa ném túi thư vào xe cộ
Con chó gầm gừ dưới chân ông già. Cô gái nghe chàng xưng tên. Cái
tên thật khó nhớ trong âm ngữ lơ lớ. Chàng đưa ông già mảnh giấy
nhỏ và hỏi tin tức về người trên tờ giấy. Rồi ông già bắt tay chàng
thanh niên. Cô bưu tá viên chỉ khai có vậy. Cô phải thanh toán
gấp đống thư từ bề bộn trước cái hẹn cuối tuần với bạn trai cô
ta.
oOo
“Cuối cùng rồi ta đã gặp nhau!” Giọng chàng trai căng thẳng.
“Ta
không hiểu. Ta không biết duyên do nào anh có ý tìm gặp ta!” Ông
già nheo nheo mắt.
“Ông đã ở Việt Nam năm năm. Tôi cũng đã mất
chừng ấy năm để có tin tức ông từ văn phòng Cựu Chiến Binh Hoa
Kỳ. Vậy mà, trước khi rời nước, tôi đã nghĩ tôi có thể tìm ra ông
trong vòng năm tuần lễ.” Chàng trai hạ giọng.
“Không sao! Điều
quan trọng là cuối cùng rồi... ta đã gặp nhau.”
“Ồ, ta vẫn chưa
hiểu là ... Được, cứ thư thả... nếu anh có thời giờ.” Ông già ngần
ngừ. “Lúc ấy ta vừa tốt nghiệp đại học. Ta trẻ trung, bồng bột,
sôi nổi. Đầy ắp lý tưởng. Lãng mạn. Thích phiêu lưu. Nhiều lần
ta đã định một người một ngựa vượt qua cái sa mạc khốn khổ kia
trong trang phục của một gã chăn bò. Ta sẽ bắt gặp đâu đó trên
đường đi những mẩu xương súc vật, sừng trâu. Ta sẽ ngồi nghỉ nắng
đâu đó dưới bóng những cụm xương rồng. Đất trời chỉ có ta. Và gió...”
“Nhưng tôi định nói...”
“A, xin lỗi! Xin lỗi! Ta lẩm cẩm quá!
Đừng trách người già, anh bạn trẻ!” Ông già cười khan. “Ta đã tình
nguyện vào quân đội và sang đánh nhau ở quê hương anh. Ngày ấy...
Nhưng càng lún sâu vào cuộc chiến tranh chết tiệt ấy bao nhiêu
ta lại càng chán chường bấy nhiêu. Ta rời quê hương anh với nỗi
tuyệt vọng cùng cực, hối tiếc rằng lý ra ta không nên rơi vào mớ
bòng bong ấy.”
“Vâng, ông có lý do để hối tiếc!”
“Hối tiếc! Ta vừa nói vậy sao?
Xin lỗi, ta lẩm cẩm quá! Lạ nhỉ...” Ông già lẩm bẩm. “Cái lý tưởng
ấy chỉ sáng tỏ sau mười lăm, hai mươi năm bị bôi đen...Nhưng anh
vào nhà chứ? Gió nhiều đấy...”
Gió dựng bờm tóc hàng cọ bên kia đường. Gió xoay tít cánh quạt
trên nóc nhà trước mặt. Gió đóng sầm cánh cửa phía sau lưng ông
già.
“Ông ở một mình?” Chàng trai ái ngại hỏi.
“Ừ, con chim ưng già
cỗi. Móng vuốt đã cùn. Cô đơn chóp núi.” Giọng ông già trở nên
xa xôi. “Tất cả đã rời bỏ ta rồi. Người ta bảo trong ta có cái
hội chứng tội nghiệp ấy...Ô, anh có thể hút thuốc được.” Ông đẩy
cái gạt tàn về phía chàng trai.
“Thời gian của ông bây giờ phải
lê thê biết bao.” Chàng trai cầm tờ tạp chí Việt Nam. Chàng ngắm
nghía những trang màu có hình tàu chiến, phi cơ, những cảnh khói
lửa ngoạn mục
“Đấy, ta chỉ còn lại chút kỷ niệm. Chút hồi ức một
thời để yêu. Con chim ưng già hồi tưởng những cuộc săn xưa.”
Đôi
mắt ông già đờ đẫn hơn. “Mỗi ngày ta ngồi đây mà cứ tưởng đang
trấn đâu đó ở một căn cứ hỏa lực nào.
Bridgeston? Khe Sanh? Ôi,
làm sao ta nhớ hết. Trên những con đèo ngất mây của dãy Trường
Sơn kia là trùng trùng những đoàn xe nam tiến. Và gió. Gió Lào.
Cái thứ gió ác liệt hấp da đốt tóc. Như gió ở đây. Từ bên kia hoang
mạc thốc về. Thời thanh niên nhiều lần ta đã định vượt qua cái
hoang mạc khốn khổ ấy. Trong trang phục của một gã cao bồi...”
“Nhưng tôi chỉ có một ít thời giờ.” Chàng trai ngắt.
“Ta đang nói về...”
“À... những tiền đồn! Vậy mà, sau lưng ta,
chỉ cách một tầm bay nhỏ nhoi là cả một thành phố nhộn nhịp. Những
thành phố mọc chỉ trong một đêm rồi cuống cuồng sống vội một ngày
như thể đã biết và không muốn nghĩ gì thêm về cơn đại hồng thủy
hôm sau. Cũng như ở đây, sau lưng con phố này...”
“Và, ở đó, ông
đã có những cuộc vui?”
“Những cuộc săn. Ồ ... bẫy người ...” Giọng
ông già đanh lại.
“Chỉ vậy thôi à? Tiếc thật!” Chàng trai chép
miệng.
“Hừm, cũng không hoàn toàn như vậy. Cũng có một ngoại lệ
đáng buồn.” Ông già tư lự. “Nàng tản cư từ một vùng quê lửa đạn
nào đó. Nàng cô đơn, khắc khoải như, ... biết diễn tả thế nào đây
nhỉ, à...như một cội xương rồng.”
“Ông có được chút hạnh phúc nào
không, trong những phút giây ngắn ngủi với nàng?”
“Ta không biết,
anh bạn trẻ. Ở phương Đông, người ta hay suy nghĩ về cuộc sống
hơn là sống. Còn ta, nếu phải suy nghĩ, ta chỉ có thể khái quát
một điều: Đời sống là những cuộc săn, những cái bẫy lớn. Lắm khi
kẻ đi săn lại bị sụp bẫy! Này, lý tưởng tự do cũng là một cái
bẫy đấy, bạn trẻ!”
“Ông định nói gì về chúng tôi chăng? Về những
người tị nạn?” Chàng trai bực dọc.
“Mà thôi, hãy nói về nàng. Nàng
đã nhục nhằn biết bao khi chung sống với ta. Xứ sở của anh bạn
có đầy dẫy những điều đố kỵ. Ta không hề thấy một ánh mắt có thiện
cảm nào về phía đồng bào anh bạn. Khổ cho nàng, nàng lại yêu ta.
Ta tin thế! Mà ta thì ... May quá, ta chẳng chút mảy may yêu nàng.
Nàng chỉ giúp ta quên đi cuộc chiến tranh khốn nạn kia trong thoáng
chốc. Nhưng ta vẫn nghĩ một ngày nào đó nàng sẽ lại
tìm ta.”
“Không đâu! Nhưng bà ấy có gởi cho ông một lá thư.” Chàng
trai cắt đột ngột.
“Thư ?” Ông già chồm dậy, mắt mở lớn, chiếc
miệng móm xọm há hốc.
“Phải, bà ấy bảo tôi phải tìm mọi cách để
thư này tới tay ông. Mọi cách.” Chàng nuốt nước bọt. “Lúc ấy chúng
tôi đang ở trong vùng Kinh Tế Mới chờ đợi chuyến bay và bà biết
rằng bà không thể nào sang đây được. Căn bệnh của bà đang ở vào
giai đoạn sau cùng. Tôi giữ lá thư này đã tám năm rồi đấy!”
Bây giờ ông già mới nhìn kỹ mặt chàng trai hơn. Rồi ông
lại nhìn lên bức ảnh trên tường. Chàng trai có sống mũi cao và
ánh mắt đăm chiêu của viên trung úy thủy quân lục chiến trong ảnh.
Rồi ông cúi xuống tờ thư. Hàng chữ run lẩy bẩy. “Em đã biết anh
không kịp đưa mẹ con em sang bên ấy được rồi. Em vẫn còn yêu anh.
Con sẽ tìm gặp lại anh chỉ để nói rằng em vẫn còn yêu. Em phải
nhờ người viết hộ đây. Tội cho anh, không đọc được nét chữ từ em.”
“Bạn trẻ là ...?” Ông già lạc giọng.
“Con của bà ấy. Bà ấy sinh
tôi khi ông đã về nước chừng tám tháng.”
Đôi vai ông già oằn xuống.
“Nhưng còn một lá thư nữa, tôi cũng
muốn trả lại cho ông.”
Chàng trai tiếp. “Lá thư ấy ông đã viết
và nhờ bạn bè trao lại cho mẹ tôi mà không một lời từ giã.”
Chàng
trai phải mở lá thư vàng ố và đặt trước mặt ông già. Ông già không
còn nhấc nổi cánh tay mình nữa. Thân hình ông như bị dán chặt trong
lòng chiếc ghế dài. Một màn sương mỏng phủ trên cặp kính lão. “Tôi
phải về nước gấp. Cám ơn em đã cho tôi những giây phút bình yên
trong cuộc chiến tranh khốn nạn này. Hãy quên hết mọi chuyện đi
em.”
“Ta ân hận...” Ông già nấc lên. “Ta ân hận vì đã viết những
lời như vậy.”
“Nhưng mẹ tôi không hề hiểu ông đã viết gì. Sau này
tôi biết rằng một người bạn của mẹ tôi đã dịch cho bà một nội dung
hoàn toàn khác hẳn.” Chàng trai cười buồn. “Rằng ông sẽ trở lại
rất sớm để đưa mẹ con tôi sang đây. Buồn cười quá. Mẹ tôi đã giữ
lá thư bạc bẽo này như một bảo vật. Suốt hai mươi năm. Cho đến
khi bà mất.”
“...Con!”
“Xong rồi! Tôi đã làm xong việc của tôi.”
“Con! Mọi người thân
thiết của ta đã bỏ ta đi cả rồi. Giờ thì Thượng Đế đã xót thương
mà sai phái con đến với ta. Con sẽ ở lại đây với ta chứ?”
“Không
bao giờ!”
“Vậy thì ... Con đến với ta thường chứ? Con ở bao xa?”
“Rất xa.
Không bao giờ. Tôi sẽ không gặp lại ông thêm một lần nào nữa.”
Chàng trai đứng dậy.
oOo
Ông già nhìn ra cửa sổ. Cái dáng cao gầy của chàng trai
đã khuất sau giàn hoa giấy tím. Ông nghe tiếng cửa xe đóng sầm.
Buổi chiều sụp xám. Thành phố im vắng đến đỗi ông nghe tiếng gió
triền miên. “Hừm, nước Mỹ muốn quên đi sự phản bội của nó trong
quá khứ. Cũng như ta đã. Nhưng trong khi quốc gia, bằng những phương
cách rất riêng, bịt miệng lương tâm của nó, nó đã đánh động thiên
lương từng cá nhân. Phần của ta đấy ...” Ông già chua chát nghĩ.
Ông già ngồi như thế rất lâu. Bất động. Bóng tối chập choạng quanh
ông. Ông sờ soạng đến bên lò sưởi và bật chốt gas. Ông nghe như
có tiếng gió từ hoang mạc vọng về.
Rồi ông đến ngồi bên bàn viết.
Ánh đèn đường vàng vọt hắt qua cửa sổ. Giàn hoa tím lay động mạnh.
Hai tờ thư chờn vờn trước mặt. Ông thấy mình đang ngồi quạnh hiu
trong công sự một tiền đồn cách đây nửa vòng trái đất. Ông lại
nghe từng chuyến gió âm âm từ bên kia dãy Trường Sơn cao ngất.
Bây giờ khắp gian phòng đã đầy ắp mùi hơi đốt hăng hắc. “Có lẽ
đã đủ,” ông già lẩm bẩm. Rồi ông chậm rãi đánh một que diêm. Một
vòm sáng bùng lên. Rực rỡ. Ông già thấy mình đang lừng lững đi
vào hoang mạc trong trang phục của một gã chăn bò. Rồi an nhiên
ngồi thả khói thuốc bên một cội xương rồng.
Nguyên Nhi
2.1998
|