Bức tranh duy nhất treo trong phòng khách là tấm hình đám cưới
rọi lớn, trịnh trọng trong khung gỗ chạm hồi văn nâu bóng thời gian.
Cô dâu, chú rể, xênh xoang trong áo dài khăn đóng. Màu xanh đậm
phu quân trang quyện vào tà vạc giai nhân rực rỡ sắc vàng hoàng
hậu. Chỉ hai người trong tấm hình và những nét dọc ngang của tòa
nhà trong nền ảnh thì mờ nhạt. Có lẽ tấm hình được chụp vào khoảnh
khắc họ quay lại vì tiếng gọi của ai đó, lúc đang nôn nả bước lên
những bậc cấp lối vào khách sạn.
Không như hầu hết những tấm hình tân hôn ước lệ thường treo trong
nhà vợ chồng mới cưới, chẳng ai nhìn vào ống kính hay đăm đăm nhìn
nhau, hi vọng có được một tấm hình ăn ảnh. Chú rể trẻ trung với
khuôn mặt thanh gầy quay về phía trước trong lúc đường mắt thì rẽ
nhìn xuống mặt đất, nơi gót hài cô dâu vừa bước qua hồ như còn thoáng
vàng vạt gấm quyện chân. Một tay xách chiếc rương hành lý nhỏ, tay
kia là hộp trang điểm của cô dâu, chàng thanh niên tươi cười rạng
rỡ. Cạnh tân lang, cô dâu đang trong dáng e ấp quay nhìn một đôi
người nào đó trong đám đông gia đình bè bạn vừa gọi tên cô chúc
tụng. Đôi tà áo chéo quyện vào nhau lung linh như ngọn lửa gấm vàng
lay động. Cánh tay nàng vươn thon thả trong găng voan trắng vẫy
chào tạm biệt , tay áo che hờ lên một phần khuôn mặt khiến người
xem ảnh khó hình dung được nàng đang mỉm cười hay rưng lệ hân hoan.
Cô dâu chú rể trong bức hình là vợ chồng bác Xương-Xuân ở Vaureal,
khu ngoại ô xa Paris cả giờ tàu điện. Ngôi nhà nhỏ hai tầng màu
xanh của họ xinh xắn như một chuồng chim câu với ba cô con gái ríu
rít líu lo vào mỗi buổi sáng chuẩn bị đến trường. Chỉ cái tivi lớn
quá khổ và chiếc tủ dàn bày hệ thống dĩa hát, âm thanh, đã chiếm
một góc lớn của gian phòng khách bài trí đơn giản bình thường. Góc
kia là một ghế nệm da dài và cái bàn nhỏ với chiếc máy vi tính rối
bời dây nhợ. Chiếc cửa kính lùa trông ra khoảnh sân nhỏ, giang sơn
của con Kiki nằm chực chờ cửa mở là phóng chạy ngay vào nhà. Trời
vừa qua tết Dương lịch, hai bụi hoa nở vàng ối dưới hiên nhà, cánh
nhỏ như hoa mai.
Hầu như mỗi tối bác Xuân đều hát karaoke. Bà hát khá hay với giọng
thổ, thâm thấp khàn khàn. Mặc dầu cha mẹ tôi không hát karaoke,
tôi biết hầu hết những bài hát đó trên nhiều băng nhạc mà họ vẫn
thường lắng nghe. Bác Xuân hát mỗi ngày, bà nói, nếu không bác sẽ
quên lời. Do vậy mỗi lần quên vài chữ đâu đó hay vấp váp nhịp lời
của bài hát, tôi lại nghe bác lẩm bẩm một mình là cần phải tập thêm
nhiều. Phước, con gái bác Xuân, nói với tôi mẹ nàng vui hơn khi
có người mới nghe bà hát. Bác Xuân vừa nghỉ hưu vì lý do sức khỏe
sau nhiều năm làm việc ở phòng ăn của trường trung học trong phố
Vaureal. Ban ngày khi ba cô con gái ở trường và chồng ở sở làm,
bác Xuân hát một mình ở nhà. Vào những ngày không la cà ở Paris,
sự hiện diện biếng lười của tôi ở nhà dù sao cũng đã giúp bác Xuân
nghĩ bác có được một thính giả trung thành. Thỉnh thoảng tôi ngưng
viết, ngồi lắng nghe rồi góp chuyện với bác Xuân bằng mớ tiếng Việt
đáng bị đánh đòn của mình về bản nhạc bà vừa hát xong. Dù bác Xuân
có vẽ vui và linh hoạt hẳn lên mỗi khi bà hát, tôi lại cảm thấy
buồn buồn khi nghe những lời ca quen thuộc. Tôi nghĩ tới mẹ cũng
nghe bài hát này lúc bà im lặng làm việc, mắt nhìn ra khu vườn hoa
lá xanh tươi, góc Đông Phương của cha mẹ trên vùng đất kiều cư tận
vùng Bắc Mỹ. Tôi bâng khuâng nghĩ tới biết bao nhiêu gia đình trong
biết bao nhiêu quốc gia trên thế giới, cùng một bài ca đã hát đã
nghe... Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên. Như dòng
sông nước cuộn xa nguồn... Như người đi cách mặt xa lòng...(Nam
Lộc)
Thỉnh thoảng bác Xuân nài nỉ chồng hát chung với mình. Họa hiếm
hơn, một đôi khi, họ ôm nhau nhảy theo tiếng nhạc. Nhưng thường
thì bác Xương ngồi trước máy vi tính tìm tòi những trang cụ quân
đội bán đấu giá trên liên mạng. Ông cặm cụi suốt buổi tối sưu tìm
huy hiệu, nón lính, quân phục, huân chương... Một buổi chiều tôi
ở nhà lúc người phát bưu phẩm gõ cửa. Mặc dầu đã biết những thứ
gì bên trong, bác Xương vẫn nôn nao háo hức lúc mở thùng bưu kiện.
Ông trân trọng kéo ra chiếc áo trận bộ binh bốn túi thời những năm
sáu mươi bảy mươi, loại áo ngụy trang đặc biệt cho chiến tranh rừng
rậm. Tôi đã quen thuộc với hình ảnh người lính quân đội Miền Nam
trong phim ảnh tài liệu về chiến tranh Việt Nam, với những tấm áo
trận hằn xanh những bệt rằn ri đậm nhạt. Bác Xương nâng chiếc áo
lính ngang tầm mắt, gật gù vừa lòng với sự xác thật của nó. Mấy
cái áo này đã từng được tụi “mũ xanh” mặc lúc đánh đấm, ông trầm
trồ. Tôi nhìn chiếc áo khá rộng cho tầm kích của bác Xương, lòng
thầm lo ông sẽ thất vọng khi mặc thử vào người. Nhưng không, bác
Xương chỉ trải chiếc áo ngay ngắn lên bàn rồi bước lại tủ kéo ra
một cái thùng khá lớn. Khi mang chiếc áo trận biệt kích đến cho
ông, tôi thấy trong thùng đã xếp một chồng cao những áo lính màu
xanh tương tự và nhiều phù hiệu quân đội, nón beret, huy chương,
dây biểu chương đỏ vàng rực rỡ. Quỳ xuống bên cạnh những món quân
trang cũ kỹ, tôi chợt có cảm tưởng như đang nhìn xuống một chiến
địa hoang tàn, biến thể, nhỏ nhoi, nhưng chứa đựng hằng hà vô số
những người lính tử thương. Lòng mộ chí trống hoang, thi hài chỉ
còn lại mảnh chiến y từng bọc thây họ trước sự rã tan khai quật
cuối cùng.
Bác Xương ngồi im lặng thu xếp vuốt ve mớ kỷ vật sưu tập rồi chợt
thở dài khoác lên vai tấm áo lính rộng thùng thình, bước ra ngoài.
Buổi chiều sa xuống khu ngoại ô trải những vệt nắng muộn lên khoảnh
sân sau nhà. Tiếng người trong công viên nhỏ bên kia đường lãng
đãng gần xa, chen trong giọng kể trầm đều của người lính già, nghe
như tiếng thoảng vọng hắt hiu của đoàn quân thấm mệt trở về từ bãi
chiến trường xa. Không gian hiện tiền chợt mất hút rồi cuồng xoay
trong dải núi rừng thẩm xanh, bơ phờ hỗn mang bãi bờ sóng dậy, thấp
thoáng bóng quân đi. Tiếng hát khàn đục từ trong phòng khách vọng
ra lúc bác Xương ngửa cổ uống cạn ly rượu trong bóng tối hiên nhà.
Chiều trên Phá Tam Giang, anh chợt nhớ em, nhớ bất tận... Như
dòng lệ nào bất giác rơi tuôn. Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng
vô cùng của chiến tranh mà em không biết rõ...(Tô Thùy Yên)
Bác Xương bảo tôi giống cha tôi như khuôn đúc lúc hai người lần
cuối gặp nhau. Gần bốn mươi năm trước. Và cho đến chỉ vài tháng
trước đây, ông vẫn nghĩ cha tôi đã chết trong chiến tranh hoặc sau
đó trong trại cải tạo hay trên đường vượt biển. Số phần chung cho
lớp người như cha tôi hay bác Xương vẫn thường xảy ra như vậy. Bạn
bè cùng một thuở lớn lên. Rồi chiến tranh. Tuy mỗi người một ngả,
nhưng cả quê hương vẫn chỉ là bãi chiến trường, oan khiên gươm súng
vô tình. Chỉ cần không biết tin về nhau, có khi chỉ trong vài tháng,
là đã có người nằm xuống. Huống chi nhiều năm... Người còn sống
đành lòng với những đoán chừng thất thoát. Những cái chết không
tên. Những bóng ma thất thểu bước qua chiến hào trận cũ hằng khuya
rợn vầng trăng lặn. Hồn oan cất tiếng than van mà chẳng ai nghe
được ngôn ngữ kẻ đã chết về mối lòng thương quê nhớ mẹ, bầu bạn
gia đình.
Lần cuối từ biệt nhau, bác Xương và cha tôi khoảng cỡ tuổi tôi,
có lẽ còn trẻ hơn đôi chút. Bác Xương trở thành một sĩ quan Thủy
Quân Lục Chiến. Cha tôi, học hành đàng hoàng hơn - theo lời bác
Xương - tốt nghiệp trường Hải Quân ở Mỹ, trở về nước đi khắp cùng
sông biển miền Nam.
Lần đầu tiên gặp Bác Xương chờ đón tôi ở ga tàu điện từ Luân Đôn
qua. Ông thoạt nhìn tôi đăm đăm, ánh mắt sững sờ mà rạng tỏa niềm
vui. Tôi có cảm giác như ông đang nhìn một người từ cõi chết sống
lại trở về. Bác Xương ân cần hỏi han về chuyến đi rồi chuyện sưu
khảo học hành của tôi trong thời gian một năm ở Châu Âu đã giúp
tôi trút bỏ được sự e dè lo ngại phút đầu. Trong suốt quãng đường
về nhà, tôi ngồi lắng nghe chuyện đời hai người bạn cũ mà lòng thì
trào vui lẫn với bâng khuâng.
Giọng kể chuyện trầm đều của bác Xương, người mà không quá vài
giờ trước đó chỉ là một kẻ xa lạ trên đường phố Paris, khiến tôi
nhớ tới hình ảnh người cha trầm lặng quẩn quanh bên ngõ sau vườn
nhà với nỗi ân hận mơ hồ. Tôi lắng nghe những chuyện chưa hề biết
về cha mình rồi chợt mường tượng, hiểu ra. Ba mươi, bốn mươi năm
là thời gian rất dài cho một đời người để tâm hồn có thể được yên
ổn trong quên lãng. Tình cảm nào đã giúp bác Xương, giúp cha tôi,
giữ mãi được sự tươi tắn của kỷ niệm thời son trẻ trong lòng ? Như
mới hôm qua. Những giọt mồ hôi đượm trên mặt hai gã sinh viên nghèo
chở nhau trên chiếc xe đạp cũ qua nhiều dãy phố xa đến trường như
vẫn tươi ròng thấm mặn đầu môi. Những giọt cà-phê quánh đặc vẫn
biếng lười chưa kịp tan vào lớp sữa đọng đáy cốc, quyện thơm vào
lời buồn thánh (TCS), lơ đãng buổi chiều Duy Tân lá rắc cơn mưa.
Những giọt máu vẫn còn tươi từ vết thương chưa liền miệng, xót đau
dấu đạn trên thân thể lớp tuổi trẻ góp máu mình vào chinh chiến
điêu linh. Những giọt mưa nguồn vẫn rớt dài vào đêm tù thao thức
trở lăn, bồi hồi vuốt mặt. Và cuộc tình vẫn một đời rộ xanh qua
bao cuộc đá vàng cho thắm đượm nghĩa trăm năm.
Tuy mỗi người phải cheo leo khốn khó trên chiếc thuyền đời riêng,
họ đã có chung một thác ghềnh vận nước để chèo lái can qua. Bác
Xương và cha tôi đã có cùng một quê-hương-đã-mất để tiếc rẻ và để
nhớ nghĩ về nhau trong suốt quãng đời dài. Một Quê-Cha tôi chỉ học
hỏi qua sách vở với những phân tích lịch sử vô tình ở trường học.
Đâu rồi dòng lệ mẹ tôi, nước mắt bác Xuân, khóc cho đứa con đầu
lòng vắn số trong khi chồng vẫn biệt tăm trong cải tạo tù đày. Làm
sao tôi có thể thấu hiểu được nỗi xót xa về cánh gió trời bùi ngùi
kỷ niệm thoảng vọng chuỗi cười của đôi học trò nhỏ vô tư cùng sánh
nhịp đạp vòng xe, chẳng ngờ khu nghĩa trang đìu hiu hoang cát trắng
bên lối núi Phước Tường sẽ là nơi chôn cất đứa con đầu đời của họ
sau này...
Quê-Hương. Một quê-nhà-thương-vọng tôi chỉ biết qua nỗi buồn của
cha của mẹ.
Tôi ngồi quây quần trò chuyện với chị em Phước dưới mái hiên nhà
nhìn ra khoảng sân đã phủ bóng tối. Tiếng hát vợ chồng bác Xương-Xuân
vọng ra, ví đuổi nhau trầm bổng đong đưa... Giờ này có thể trời
đang mưa. Em đi nép hàng hiên sướt mướt...Nghĩ tới anh, nghĩ tới
anh...Nghĩ tới kiếp người đang lỡ độ đường, trên mịt mùng nghi hoặc.
Nghĩ tới thanh xuân mất tích tự đời nào...(Tô Thùy Yên)
Chúng tôi chợt ngưng nói rồi phá ra cười khi nhận ra bốn người
đã chuyện trò bằng cả ba thứ tiếng Việt Anh Pháp đề huề. Phước hỏi
tôi bằng tiếng Anh với thổ giọng Pháp duyên dáng về phá Tam Giang.
Tôi loay hoay giải thích chuyện “Dãy phố buồn thiu” với mớ tiếng
Việt nghèo nàn của mình nhưng rồi đành thất vọng trở về với ngôn
ngữ quen thuộc từ ngày mới chập chững biết đi... Quê hương chúng
ta đó, dải đất tang thương hoang phế bên vùng đầm phá mênh mang
trời nước dậy sóng biển Đông.
Tôi nghĩ đến ánh mắt xa xôi của cha và hình ảnh chiếc chiến đĩnh
chập chùng vùng biển tháng Chạp loáng ánh trăng khuya phía ngoài
phá Tam Giang.
Ba cô gái ngồi im lìm trong bóng đêm... Có dòng lệ nào bất giác
rơi tuôn.
Phan Thái Yên
Tháng Bảy, 2005
|