Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ việc giao tế hàng ngày cho đến chuyện
văn chương, thi phú, từ văn nói đến văn viết, từ ngữ ĂN luôn luôn
hiện diện, rất ư là thường xuyên. Động từ ăn nếu mang ý nghĩa thuần
túy, chỉ đơn giản là nhai, nuốt rồi tiêu hóa thực phẩm trong bụng.
Có vài từ ngữ cũng được dùng để diễn tả hành động ăn này, nhưng
mang tính chất không tốt, nếu không muốn nói là xấu như đớp ( đớp
hít ), chén ( đánh chén ).
Qua những câu tục ngữ như: “Dĩ thực vi tiên “,“ Có thực mới vực
được đạo “,“ Trời đánh còn tránh bữa ăn “ cho dẫu rằng: “ Miếng
ăn quá khẩu thành tàn “ hay “ Miếng ăn là miếng nhục” cho thấy
người Việt thẳng thắn, không quanh co, giấu diếm về nhận định việc
ăn có vai trò hàng đầu. Tổ tiên, ông bà chúng ta ngày xưa suy
tư chung quanh chữ ăn. Ăn là một quy luật sống, ăn là một cách
sống,ăn là một nghệ thuật sống, ăn là một đạo sống, đạo cư xử hay
nói rõ hơn là đạo làm người - Diễn tả lòng tôn kính tổ tiên: “
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây “; Chán ghét những kẻ “ Ăn cháo đá bát
“; Chê bai bọn: “ Ăn bẩn, ăn lường “; Không thích những kiểu “
Ăn trên ngồi trốc “; Khinh bỉ loại “ Ăn ở vô phép, vô tắc “à nói
lên tâm tình, bản chất của người Việt, phản ảnh qua mọi sinh hoạt.
Từ ngữ ăn không chỉ đơn thuần là động tác nhai rồi nuốt, nó nói
lên nhiều mục đích khác nhau: ăn để sống, ăn để mừng, ăn để xã
giao, ăn để quên buồn … nhất là ăn nói lên một lối hưởng thụ -
Vì nguyên lý vui chơi bao gồm cả nghệ thuật ăn uống và nghệ thuật
ăn chơi – Có ĂN thì phải có CHƠI. Trong khi chữ ăn bao hàm nhiều
ý nghĩa về vật chất, thì chữ chơi nghiêng về ý nghĩa tinh thần
nhiều hơn. Chơi là thú vui, là một mặt của đời sống con người,
là sự thể hiện tính cách, trình độ văn hóa, giáo dục và kinh tế
của cả xã hội đương thời nữa.
“ Ăn lấy đời, chơi lấy thời “
Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ trong đời từng con người, trong từng
xã hội, sẽ có những đồ chơi, những thú chơi, những cách chơi khác
nhau, bởi vì: “ Nghề chơi cũng lắm công phu “ - Trăm người, trăm
ý kia mà. Tùy theo sở thích, khả năng, điều kiện và đam mê khác
nhau, nên không dám lạm bàn thế nào là tốt hay xấu, thế nào là
thanh lịch, tao nhã hay hợm hĩnh, lố lăng à Từ chơi tem, chơi tranh,
chơi hoa đến chơi chim, chơi gà chọi, chơi cá ngựa; Từ đá banh,
nhảy dây đến chơi thuốc lắc, chơi hàng ngoại. Thú chơi nào cũng
cần có chút kiến thức, hiểu biết về thú chơi của mình. Cách chơi
nào cũng hao tổn , không tinh thần thì vật chất hay cả hai, chưa
kể vấn đề thời gian. Tựu trung “ Ăn chơi thì tốn kém “ !?
Thông thường, từ ngữ ăn được ghép với các từ ngữ khác để tạo thành
các từ ghép, từ ba chữ, từ bốn chữ... cụm từ, rồi dần dà trở thành
tục ngữ, thành ngữ, châm ngôn xử thế.
Từ ghép: Ăn mặc, ăn chia, ăn theo, ăn tiêu, ăn chặn …
Từ ba chữ: Ăn sơ sơ, ăn hối lộ, ăn bánh vẽ, ăn cơm nhà …
Từ bốn chữ: Ăn xổi ở thì, ăn vóc học hay, ăn gian nói dối …
Cụm từ: Ăn như tằm ăn rỗi; Ăn trông nồi, ngồi trông hướng; Ăn
cỗ đi trước. lội nước theo sau “…
Những từ ghép thông dụng thường nhật như ăn ở, ăn uống, ăn chơi
à thật ra bao gồm hai động tác: ăn/ở, ăn/uống, ăn/chơi... cho thấy
người Việt Nam luôn bắt đầu với động tác ăn, chứ không ngược lại
như ở ăn, uống ăn, chơi ăn à Những chữ này khi đứng một mình có
ý nghĩa riêng, nhưng khi được ghép lại với nhau như vậy thì đã
biến đổi, không dừng lại ở những động tác ăn và ở, ăn và uống,
ăn và chơi... mà trở thành một sinh hoạt mang tính chất toàn diện
hơn. Đó là cách thức, phép tắc, nghệ thuật để ăn và sống. Vì vậy,
từ ngữ “ ăn chơi “ được bàn đến không còn đơn thuần là ăn và
chơi, mà đã mang nhiều ý nghĩa khác nhau, được sử dụng và có vài
cách dùng khác nhau:
1-Ăn chơi được hiểu là mạnh khỏe, bình thường, ít đau yếu, như
trong câu chúc : “ Chúc cháu bé ăn chơi mau lớn “.
2- Ăn chơi là vui chơi, hưởng thụ, để nghỉ “ xả hơi “ sau những
ngày làm việc mệt nhọc, vất vả: rất cần thiết và hợp lý. Có bài
ca dao:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm
Sớm ngày đem lúa ra ngâm
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra
Gánh đi ta ném ruộng ta
Đến khi lên mạ thì ta nhổ về
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi
Nước ruộng vơi mười còn lại một hai
Ruộng thấp đóng một gầu dai
Ruộng cao thì phải đóng hai gầu song
Chờ cho lúa có đòng đòng
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người
Bao giờ cho đến tháng mười
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta
Gặt xong ta hái về nhà
Phơi khô, quạt sạch thế là xong công .
Bài ca dao này nói về lịch trình sinh hoạt trong xã hội nông
nghiệp Việt Nam xưa nay. Xả hơi tất nhiên phải vui chơi- Chẳng
những thích chơi mà người Việt mình còn “ tranh thủ “ chơi – Trò
chơi lành mạnh cổ truyền rất phong phú như: kéo co, đua thuyền,
đánh đu, bình thơ,hát đối đáp, thi nấu ăn … Tuy nhiên, cờ bạc vẫn
là môn chơi lôi cuốn nhất. Thua, thắng chút đỉnh thì không đáng
kể, nhưng bên cạnh đó có những tay chuyên nghiệp lợi dụng để trổ
ngón, để sát phạt thì trò chơi cờ bạc trở thành xấu đi.
Dần dần, từ ngữ ăn chơi mang ý nghĩa xấu theo thời gian: ăn chơi
lêu lổng, ăn chơi phè phỡn, ăn chơi đàng điếm, khánh tận vì ăn
chơi...
3- Ăn chơi trái nghĩa với ăn thiệt - Có thể được diễn giải thành
nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy theo sự suy nghĩ, tùy theo cách sử
dụng để thành ra:
-Món ăn chơi: Là món ăn khai vị trước khi vào tiệc chính, khi
dùng tiệc theo thể thức Tây phương, tiếng Pháp gọi là hors d'oeuvres,
tiếng Anh gọi là assorted appetizers. Thường những mâm cỗ cổ truyền
Việt Nam không có phân chia món ăn chơi, món ăn chính, món tráng
miệng... mà tất cả đều được dọn ra một lúc.
-Phong cách ăn chơi: Là cả một nghệ thuật – Ăn thủng thẳng, chậm
rãi để tận hưởng cái ngon của món ăn. Chuyện ăn chơi ở đây đòi
hỏi tinh thần thư thái, hành động ung dung. Ăn chơi để thưởng thức
hương vị, mùi vị.
-Ăn chơi là ăn nhấm nháp chút đỉnh, ăn không cốt cho no; Có thể
là no rồi mà ráng ăn thêm một chút cho vui lòng người mời ; Hay
là chỉ ăn lấy thảo hay ăn lịch sự khi được mời mọc.
-Ăn chơi là ăn bất cứ lúc nào muốn ăn hay ăn cho đỡ buồn miệng,
ăn thêm ngoài ba bữa ăn chính trong ngày . Ăn chơi ở đây được hiểu
như ăn hàng, ăn quà.
” Đích thị quà là món ăn thêm ngoài bữa chính, ăn cho vui, ăn
cho đỡ nhớ một điều gì, ăn cho đỡ thèm một cái đã qua, ăn để thay
đổi cảm giác, kể cả ăn để giết thì giờ. Quà sáng, quà trưa, quà
chiều, quà tối... mỗi thứ mang một khuôn mặt khác nhau. Quà ngày
mưa, quà lúc nắng, quà mùa đông, quà mùa hè ... Nếu ví von một
chút, cơm là văn xuôi, quà là những vần thơ của thi sỹ tài hoa,
không chỉ mang lại khoan khoái, quà còn mang lại xúc cảm cho người
ăn, không kém gì đọc một bài thơ hay.
Những thành phố càng lớn thì càng có nhiều hàng quà. Những nơi
càng thanh lịch thì càng có nhiều món quà ngon, đầy hấp dẫn, có
khi vượt qua cả một địa phương mà trở thành nổi tiếng trong cả
nước, tượng trưng cho cả một vùng “- Băng Sơn
“Không phải là bữa chính trong ngày, bữa phụ là nghĩa của bữa
lỡ. Ăn bữa lỡ còn gọi là ăn hàng. Có lẽ vì hay và thích ăn hàng
cho nên con gái Huế rất nhạy cảm với chuyện nội trợ, thích thú
với việc bếp núc, nấu nướng và do vậy mà họ nấu ăn ngon.”- Tiểu
Kiều
“ Với người Huế, nấu món ăn là để thể hiện sự đam mê nghệ thuật
nấu ăn, cũng như người Huế đam mê thơ vậy. Nghệ thuật là “ sự chơi
“ ở đời. Chơi nấu món ăn ở Huế có lẽ là sự chơi hơn cả .”- Ngô
Minh
Qua ý tưởng, tinh thần của ba đoạn văn trên, ta thử khảo sát
một món ăn chơi - ăn hàng, ăn quà - rất bình dân, phổ biến của
xứ Huế là món BÁNH BÈO HUẾ vậy. Ăn đấy mà như chơi, chơi đấy mà
như không.
Bánh bèo Huế thường được dùng vào bữa lỡ ( bữa xế chiều ), là
một món ăn chơi, để thưởng thức là chính – Ăn bánh bèo đâu ai nghĩ
đến chuyện ăn cho no bụng ? - Bên cạnh những loại bánh khác của
xứ Huế như: bánh bột lọc, bánh lá, bánh nậm, bánh ít ram, bánh
ướt thịt nướng, bánh khoái à Bánh bèo có thể tìm thấy bất kỳ nơi
nào ở Huế: trên vỉa hè đến trong những khách sạn; Bánh bèo có mặt
trong những bữa ăn từ dân dã đến yến tiệc cung đình, từ những gánh
hàng rong hay trong ngày lễ hội.
Bánh bèo Huế được làm từ nguyên liệu đơn giản như bột gạo mịn,
tôm tươi … nên mang tính chất nhẹ bụng, dễ tiêu: trẻ em, người
yếu đều dùng được; Giá tiền cũng rất nhẹ nhàng như bánh, nên ở
Huế người ta thường rủ nhau đi ăn bánh bèo:
Hai ta ngồi quán bên đường
Bánh bèo kết mối tơ vương đôi lòng – Võ Quê
Bánh bèo Huế là cái bánh nhỏ tròn trịa, lớn hơn đồng xu một chút.
Ngày nay ở Việt Nam thịnh hành chữ “ giá bèo “ để chỉ giá rẻ mạt.
Bánh làm bằng gạo ngâm nước, xay thành bột mịn, trộn ít muối, mỡ
hay dầu, để vài giờ cho đủ độ dẻo, rồi múc từng muỗng bột đổ vào
chén “ bông cỏ “ ( là loại chén rất nhỏ làm bằng đất nung, đường
kính miệng chén chừng 5cm, dày chưa tới 1cm ). Đổ bột vào chén
phải nhẹ nhàng, khéo léo để bánh thật mỏng. Sắp những chén nhỏ
này vào mê ( giá đỡ ) trong nồi hấp cách thủy lớn.Từ lúc hấp đến
lúc lấy bánh ra chỉ được mở nắp một lần, để giữ hơi nóng cho mẻ
bánh chín đều, chín đủ thì bánh mới mượt mà . Bánh khéo là sau
khi chín sẽ có hình xoáy tròn ở giữa.
Con quạ hắn đậu chuồng heo
Hắn kêu ớ mạ bánh bèo chín chưa ?
Hiện nay,ở các cửa hàng tạp hóa Việt Nam có bán một loại mâm nhômcó
nhiều khuôn trũng, nông hơn những khuôn làm bánh muffin ở Mỹ, có
thể đổ và hấp khoảng 20 cái bánh bèo một lúc, không cần phải dùng
nhiều chén nhỏ để hấp như trước đây.
Bánh chín rồi được dọn ăn liền để bảo đảm hương vị. Người ta xoay
lấy bánh ra khỏi chén hấp, rồi xếp vào dĩa, hay có thể không lấy
bánh ra khỏi chén, mà dọn luôn cả chục chén như vậy ra đọi ( mâm
). Trên mặt bánh bèo rải đều tôm chấy, hành lá phi và tóp mỡ chiên
giòn:
Tôm chấy hồng thắm cánh bèo
Dẻo thơm hạt gạo quê nghèo nên thương – Võ Quê
Xứ Huế có nhiều sông ngòi, đầm phá nên tôm tươi nước ngọt và nước
lợ luôn luôn đầy ắp. Tháng 2, tháng 10 là mùa tôm đất ( là loại
tôm nhỏ, rất ngọt, kích thước từ ngón tay út dến ngón tay cái ).
Tháng 3, 4, 5 có tôm sú, tôm rằn ( con tôm rằn to hơn ngón chân
cái, vỏ mềm, thịt nở tung như bông khi chấy ).
Tôm chấy: Tôm tươi lột vỏ, hấp chín, giã nhuyễn, rang trên chảo
mỡ nóng hay dầu nhỏ lửa cho chín vàng, nêm nếm tiêu, muối làn lạt
để không mất vị ngọt của tôm. Hành lá xắt nhỏ, phi dầu mỡ lẹ tay,
nhắc xuống cho còn xanh màu. Mỡ thắng làm tóp mỡ, cỡ hột lựu.
Có nơi thay tóp mỡ bằng bánh mì chiên vàng giòn (giống như crouton)
hay da heo khô chiên phồng.
Bánh ngon nước mắm cay nhiều
Mời anh dùng tạm bữa chiều cùng em – Quỳ Lê
Bánh bèo đổ khéo mà không có nước mắm pha ngon thì cũng uổng công
!? Nước mắm pha ở đây phải sao cho vừa: không mặn, không lạt, hơi
ngọt một chút, dầm ớt thật cay. Ăn bánh bèo không chỉ chấm nước
mắm, mà chan và húp mới thấm thía. Thông thường, người ta dùng
nước hấp tôm để pha nước mắm chấm bánh bèo.
Ngày xưa, khi ăn bánh bèo, người ta không dùng đũa mà dùng những
que tre nhỏ vót mỏng, giống như hình lưỡi dao hay mái chèo mà lách
vào miếng bánh bèo, xiên lên ăn. Ngày nay dùng muỗng để thay thế.
Dù chỉ qua những cái bánh bèo nhỏ nhoi, mỏng manh, ta cũng thấy
rõ sự trình bày hài hòa về màu sắc của xứ Huế: màu hồng gạch của
tôm chấy làm nhân, điểm thêm sắc xanh lục tươi của hành lá phi
bám quanh những tóp mỡ vàng tươi, trải đều trên mặt bánh bèo trắng
ngà, chan thêm nước mắm pha màu cánh gián – Một hình ảnh đẹp mắt,
mà cái đẹp luôn làm cho thực khách thêm thích thú lúc thưởng thức
món ăn. Đó là một phong cách của nghệ thuật ẩm thực Huế: các món
ăn đều được chăm chút kỹ lưỡng để giữ được vẻ đẹp đặc trưng. “
Ăn như thế nào ? “ chứ không phải “ Ăn cái gì ? “:
Gạo thơm xay khuấy dẻo, bột trắng ngần
Con tôm hồng ngọt thịt chấy làm nhân
Hành xanh đưa hương cho ước mơ thành thật
Tiêu cay nồng hóa hồn nhập xác – Thái Kim Lan
Những dĩa bánh Huế luôn bày biện chút một để gây cảm giác nhấm
nháp cho thực khách, ăn no mà không chán, còn muốn ăn nữa. Người
chưa quen lối “ ăn lấy hương lấy hoa “ của Huế sẽ cảm thấy lơ
lửng, chưa thấm đâu vào đâu.
Ngày trước Huế có ba nơi bán bánh bèo ngon là ở Tây Thượng, ở
chùa Thiên Mụ và ở núi Ngự Bình. Bánh bèo ở Ngự Bình là đắt khách
nhất nhờ phong cảnh đẹp đẽ, hữu tình bên cạnh bánh ngon, nổi tiếng
nhất là quán Hương Ngự. Ngày nay, có một xóm bánh bèo, có chừng
3, 4 quán, nằm theo một hẻm nhỏ ở bên hông khuôn viên cung An Định,
nguyên là hý viện hoàng gia, đường Nguyễn Hoàng, nằm giữa khoảng
từ nhà thờ mới đến đường Hùng Vương, thêm quán bánh bèo Bà Đỏ
ở đường Nguyền Bỉnh Khiêm.
Dài dòng về bánh bèo Huế như vậy, nhưng nếu muốn tìm hiểu về xuất
xứ của bánh bèo như tác giả là ai thì quả là nhiêu khê, không
thể nào tìm ra chính xác được vì không có” bản quyền “, chỉ đành
chịu thua mà thôi. Cũng không hiểu vì sao bánh bèo được gọi là
bánh bèo: Nhỏ bé như tai bèo? Mỏng như phận bèo? Trôi giạt như
bèo ? Càng không thể nào biết nỗi bánh bèo hiện diện vào thời
điểm nào của cái xứ Huế đà tròn 700 năm, từ ngày công chúa Huyền
Trân rời đất Bắc vào phương Nam, làm dâu xứ Chiêm Thành.
Ngày “ Nước non ngàn dặm ra đi. Mượn màu son phấn, đền nợ Ô, Ri
“, công chúa Huyền Trân khoảng 16 tuổi, mùa hè 1306: Là cột mốc
khởi đầu cho hành trình bảy thế kỷ Nam tiến của người Việt Nam.
Năm tê trong lúc sang xuân
Tôi theo công chúa Huyền Trân tôi lên đường
Đường máu xương đã lắm oán thương
Đổi sắc hương lấy cõi giang san - PD
Theo dấu chân của nàng công chúa nhà Trần, đã có bao nhiêu sự
kiện lịch sử của người Việt tiếp tục đi về phương Nam. Chẳng biết
cái bánh bèo Huế nhỏ nhoi, mỏng manh như số phận Huyền Trân khởi
thủy từ hồi nào, cũng đi vào lòng dân gian theo bước đường Nam
tiến dài dằng dặc 700 năm đó !
“ Mỗi món ăn thường chỉ được sủng ái ở một vùng, hoặc rộng hoặc
hẹp … Giữa món ăn với người ăn phải có sự tương đắc. Khi đã tương
đắc, đã cảm thông sâu xa với nhau: người Nam ăn ba khía, ô môi;
người Huế ăn cơm hến; người Bình Định ăn mắm cua chan bún thấy
thấm thía, nồng nàn. Cái mùi vị nồng nàn ấy, kẻ khác không chịu
được “ hay là “ Cái việc chấp nhận một món ăn mới xưa nay vẫn
là một sự khó khăn. Thật vậy, ngay ở trong xứ Việt Nam chúng ta,
có nhiều người Nam không chịu được món Bắc, có nhiều người Bắc
không chịu được món Huế …”- Võ Phiến.
Vậy xin hỏi ai là người Việt Nam mà chưa từng ăn qua bánh bèo?
Có người ưa nhiều, có kẻ ít thích, nhưng ai là người không chịu
nổi món bánh bèo? Vì vậy, bánh bèo hiện diện ở khắp mọi nơi: từ
thôn quê đến thành thị; Ở khắp mọi vùng: từ Trung đến Nam và cả
Bắc.
“ Một vài canh cải cho thích hợp với khí hậu địa phương: Người
Huế ăn cay, một phần hình như cũng vì khí trời ẩm ướt của những
mùa mưa dai dẳng. Người miền Nam thích giá sống vì nó giải nhiệt
? Tùy thuộc sản phẩm sẵn có của địa phương; Phản ảnh những đặc
điểm sinh lý con người địa phương: Nước mắm pha chế rất dịu ở Thừa
Thiên gợi nhớ đến nét dịu dàng trong giọng nói và trong tánh tình
người Huế với nước mắm thường dùng giữa khoảng đèo Hải Vân cho
đến đèo Đại Lãnh, người ta không khỏi nghĩ đến cái tâm lý xẳng
xớm, bộc trực của người dân Việt từ Quảng Nam, Quảng Ngãi trở vào
“ - Võ Phiến
Món bánh bèo Huế cũng thế - Qua “ một vài canh cải “ để phù hợp
với mọi miền đất nước đã cho những địa danh, những đặc tính mới
xuất hiện sau hai chữ bánh bèo như là bánh bèo Đồng Hới, bánh bèo
Quảng Nam, bánh bèo Bình Định à bánh bèo tai, bánh bèo chén, bánh
bèo bì hay là bánh bèo mặn, bánh bèo ngọt, bánh bèo chay.
Bánh bèo miền Bắc
“ Ở Hà Nội có bánh bèo chùa Vua, ở phố Thịnh Yên của ông già
họ Trịnh đời Lê, xưa nổi tiếng bánh bèo, nhưng ông cũng chỉ là
thế hệ thứ tư. Bánh bèo chùa Vua gói ba lần lá chuối tây để giữ
bột khi chín vẫn còn nguyên màu ngọc thạch. Lá bánh uốn khum khum
như chiếc thuyền tam bản vừa để gói, vừa làm dĩa đựng nên mặt trên
để hở, không bao kín buộc lạt như mọi thứ bánh khác.
Tiếc thay, bánh bèo chùa Vua không còn nữa, con cháu hậu duệ của
ông già họ Trịnh khi xưa đã bỏ nghề đi đâu từ vài chục năm nay
rồi.Hiện nay, ở miền Bắc, bánh bèo chỉ còn lác đác ở một vài chợ,
nhưng không có gì thật xuất sắc. “- Mai Khôi
Bánh bèo miền Trung
Các loại bánh bèo miền Trung mang dáng vẻ dân dã, theo “ trường
phái no và đậm “, chứ không thanh mảnh như bánh bèo Huế. Người
ta cho thêm bột năng vào bột gạo để bánh dẻo và cứng hơn. Kích
thước cũng có khác, chia làm hai loại: bánh bèo tai và bánh bèo
chén. Bánh bèo tai là bánh bèo nhỏ, nhưng cũng lớn hơn bánh bèo
Huế, còn bánh bèo chén thì to bằng lòng chén ăn cơm, chỉ cần ăn
vài cái là no rồi.
Bánh bèo Đồng Hới (Quảng Bình) là loại bánh bèo tai, mỗi cái
bánh bèo có bày một con tôm đất nhỏ đỏ rực nằm trên,vài lá hành
xanh xắt nhỏ, nước mắm pha chế với độ đậm đặc cao.
Bánh bèo Quảng Nam cổ truyền là bánh bèo chén đổ dày, nhai sừng
sựt, phết dầu phọng khử hành tươi, nhân là tôm thịt bằm nhỏ, xào
khô, rắc lá hẹ thái thật nhỏ, ăn với nước mắm nguyên chất.
Bánh bèo Bình Định cũng là bánh bèo chén đổ dày, chỉ trét hành
lá khử dầu phọng, không nhân, ăn với nước mắm nhỉ nguyên chất.
Ngày nay, miền Trung có một loại bánh bèo nhân ướt, không rõ xuất
xứ từ vùng nào, gọi là bánh bèo Quảng - Là bánh bèo tai, nhân là
tôm tươi lột vỏ, ráy gạch tôm để riêng, nạc tôm bằm nhuyễn xào
với tỏi, xong đổ gạch tôm vào, hòa thêm chút bột năng khuấy chín
để thành một thứ nước xốt sền sệt, nêm nếm cho mặn mòi, đổ lên
mặt bánh bèo. Nước xốt khi chan phải kéo chỉ và luôn được giữ nóng.
Trên mặt bánh bèo nhân ướt, rắc lên hành lá phi, tóp mỡ chiên và
có khi tôm chấy làm bằng tôm khô. Nước mắm chan là nước mắm ngọt
dầm ớt xanh, tỏi sống.
Khi ăn bánh bèo chén, người miền Trung dung “ que chèo”, là những
thanh tre già, dài chừng một tấc, rạch chén bánh thành hình một
chữ thập hay hai tùy ý, tách thành 4, 8 miếng. Dùng mép thanh tre
kê sát bên trong vành chén, xoáy một vòng tròn giáp mí để các miếng
bánh không còn dính chén, rồi dùng mũi nhọn của thanh tre để xiên
từng miếng bánh mà ăn. Chỉ chan nước mắm nếu nhân không đủ mặn,
vì chấm nước mắm sẽ làm cho lớp nhân của bánh bèo tuột cả vào chén
nước mắm.
Bánh bèo miền Nam
Bánh bèo “hành phương Nam “ có thể chia làm hai loại, dựa theo
khẩu vị là bánh bèo mặn và bánh bèo ngọt. Hầu hết các loại bánh
bèo mặn đều có hình dáng, kích thước giống nhau: lớn và dày hơn
bánh bèo Huế, nhỏ và mỏng hơn bánh bèo chén, cỡ bánh bèo tai của
miền Trung. Bột đổ bánh bèo là bột gạo pha chút bột năng để dẻo
và dai hơn. Bánh bèo miền Nam cũng đổ cho có xoáy tròn ở giữa.
Nhân bánh bèo là một lớp đậu xanh, hành lá phi, tóp mỡ, trên mặt
rải một lớp tôm chấy làm bằng tôm khô. Nước mắm pha ngọt và loãng.
Đặc biệt của bánh bèo mặn miền Nam là bánh bèo bì. Bánh bèo bì,
bì cuốn và bún bì là ba món ăn nổi tiếng của vùng chợ Búng – Địa
danh của xã An Thạnh, nằm giữa quận Lái Thiêu và tỉnh Thủ Dầu Một;
Nay Búng là thị trấn An Thạnh, còn tỉnh Thủ Dầu Một gọi là tỉnh
Bình Dương. Tại đây có hai quán lâu năm nhất là Mỹ Liên và Ngọc
Hương.
Anh về chợ Búng nhớ em
Bánh bèo, bì cuốn nhớ đem quà về - ATVN
Bánh bèo bì ngoài một lớp đậu xanh, hành lá phi và tóp mỡ bỏ
trên mặt, người ta còn bỏ lên trên một lớp bì dày. Bì là hỗn hợp
của da heo xắt mỏng từng sợi, dài chừng 4, 5cm, trộn đều với thịt
đùi heo ram vàng xắt sợi từng lát dài, thính ( gạo rang xay nhuyễn
), tỏi bằm nhuyễn, muối. Bên đây mình xài da heo phơi khô ngâm
nước cho nở, rồi vắt ráo. Nước mắm bánh bèo bì chan như chan
canh, là nước mắm ngọt pha loãng, có thêm củ kiệu, đồ chua sắt
sợi.
Vì người miền Nam thấm ý, thấm tình với nước cốt dừa, nên có khi
cũng ăn bánh bèo bì như ăn bánh tằm bì, có nghĩa là ăn với rau
sống xắt nhỏ, chan thêm nước cốt dừa.
Bánh bèo ngọt của miền Nam nhỏ và dày, cỡ bằng lóng tay cái,
cũng chế biến bằng bột gạo pha bột năng, nhưng bỏ thêm đường mía
để bánh có màu vàng ươm và ngọt. Khi ăn, trét một lớp đậu xanh,
chan một lớp nước cốt dừa dày, rắc mè rang lên trên. Bánh bèo ngọt
thường được bán chung với bánh chuối hấp, chuối xào dừa …
Ngoài ra, ta có thể kể thêm món bánh bèo cắc chú - Đó là tên
gọi hồi xưa của bánh ổ mặn ( bánh mặn ). Người ta dùng bột gạo
pha nước cốt dừa đổ làm nhiều lớp bánh, mỗi lớp dày chừng 5 mm,
hấp chín lớp này, đổ tiếp lớp kia, tùy ý thích mà độ dày của bánh
được thay đổi khác nhau. Nhân của bánh mặn này gồm thịt heo bằm,
tôm khô, củ sắn ( củ đậu ) xắt hột lựu xào khô với hành lá. Chan
nước mắm tỏi ớt.
“Quà là một món ăn mang đầy tính chất văn hóa, vậy thì nó cũng
không là gì bất biến trầm trọng. Nó luôn thay đổi: có thứ mất đi,
có thứ sinh ra, có thứ thụt lùi, có thứ tiến bộ … Một vài món đã
có mặt từ lâu, vượt qua năm tháng, vượt qua phạm vi địa phương,
như một bài thơ được thời gian sàng lọc “- Băng Sơn
Cái bánh bèo nhỏ bé kia, mỗi ngày một chút, được thay đổi về cách
chế biến, cách ăn … Nó không dừng lại ở chất lượng quen thuộc,
ở nguyên liệu chừng mực, mà nó đã tiến xa tùy theo đặc điểm, tình
hình của địa phương để nêu lên được bản sắc, đặc trưng cụ thể của
vùng, miền ấy. Trong cuộc hành trình đi về phương Nam hay ngược
ra phương Bắc, chỉ là một món ăn chơi ( nghĩa là ăn cho ngon mắt,
ngon miệng chứ không phải ăn cốt cho no bụng ), mà bánh bèo đã
được thêm thắt, canh cải … để phù hợp với khẩu vị, phong cách ăn
uống của từng địa phương khác nhau, để đi vào đến tận ngõ ngách
của khắp phố phường Việt Nam từ thành thị đến nông thôn.
Như những món ăn, thực phẩm khác, bánh bèo cũng đã gắn liền với
hoàn cảnh đất nước, dung hòa giữa cái cũ và mới để có một giá trị
và vị trí nhất định - Nghệ thuật chế biến ẩm thực Việt Nam trước
hết đi từ sự tìm tòi, khám phá rồi tích lũy, trải qua thời gian
để chọn lọc, để lưu truyền, để kế thừa, để bảo tồn và để phát huy
bên cạnh sự sáng tạo không ngừng, phát triển thêm để hoàn thiện.
Xin dùng một đoạn viết trong cuốn “ Hà Nội 36 phố phường “ của
nhà văn Thạch Lam để làm kết luận cho bài sưu tầm về “ Ăn Chơi
“ này:
” Muốn biết rõ một thành phố, không cần phải biết những lâu đài
mỹ thuật, những nhà bảo tàng, những tờ báo hay những nhà văn...
nhưng cần phải biết những chốn mà dân thành phố ấy ăn chơi. Ăn
và chơi, phải, đó là hai điều hành động mà trong ấy người ta tỏ
rõ cái tâm tình, cái linh hồn mình một cách chân thực nhất . “
Xuân Phương
Tài liệu tham khảo:
- Triết lý Việt trong văn hóa ẩm thực - Trần Văn Đoàn .
- Ăn … Mùi – Võ Phiến
- Thú ăn chơi người Hà Nội – Băng Sơn
|