SỐ 35 - THÁNG 7 NĂM 2007

 

Giới thiệu sách mới

Thơ

Dẫu ngày mai anh trở lại
24
Lê Miên Khương
Định nghĩa

24 Phạm Hồng Ân
Yêu em tàn mấy mùa trăng
24
Huỳnh Kim Khanh
Hoài vọng

23
Trần Việt Bắc
Nhớ tháng năm xưa
21Ngọc Trân
Chia tay người
18
Tôn Thất Phú Sĩ
Giọt tình sầu
18
Kim Thành
Thư em gửi chị

21
Trần Hoan Trinh


Truyện ngắn, Tâm bút

Về xưa
14Phan Thái Yên
Chiếc kẹp tóc bài thơ
14
Phạm Hồng Ân
Bảng tên đầu tiên
13
Nguyễn Hồng Quang
Như hạt mưa sa
14
Cỏ Biển
Chuyện tình màu tím
15
Trương Thanh Diễm Thùy-Bảo Lộc
Me Sàigòn
8Xuân Phương
Tình đời và tự do
8Ưu Du
Mẹ Âu cơ
8Võ Thị Đồng Minh
Mặn bờ môi
8Song Thao
32 năm nhìn lại
8Vũ Hoàng Thư


Văn học, biên khảo

Giao Chỉ và Tượng Quận (2)
4Trần Việt Bắc
Sống thiện chết lành (9)
4Ngô Văn Xuân
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 22
3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài

Giữa hai lằn đạn
1Ưu Du
Thằng Nèm
1Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 29
1 Huỳnh Kim Khanh


 

32 năm nhìn lại

 

Vũ Hoàng Thư

 

 

hương xưa mộng vẫn xoay vần
nhớ người ta đợi tần ngần cõi xa

Nắng đầy lên lòng mắt. Nắng vỡ xuống rừng tùng. Ve râm ran dài suốt một vùng đồi. Tiếng hát diệu kỳ lâu lắm chưa được nghe, người hẫng trong dãy phượng đỏ chói chan những ngày mới lớn. Thơ ấu đi và thơ ấu trở về giữa không gian quê nhà. Khoảng đời ở giữa là nỗi trống lưu vong. Những chuyến về Đông phương nói theo anh Thi Vũ là những lần “recharge our batteries”. Những thỏi pin cạn dần chất điện, hao hớt nguồn năng nơi những vật lộn xứ người.

Người khô héo miền đất khách như cây quít Hương Cần đem trồng nơi xứ tuyết. Cho đến sáng hôm nay tôi được tắm lại khung trời của nắng, gió và hơi hám người phương đông. Bây giờ hương quê là hít thở thật gần, trầm trầm khí quản. Mọi lời nói ngưng và không cần thiết khi buồng phổi căng gió, những cơn nồm của biển xa một thời và ngọn gió bấc mùa tháng chạp thuở trước quay về làm nổi ụ làn da vừa se lên trong cơn nắng.

Trên kia Yên Tử rừng xanh mây trắng. Mây rất trắng và trôi nhanh rồi bất ngờ mây đen kéo đến. Haiku của Issa trở về nhảy múa trên núi đồi Yên Tử,

khi làm ngạ quỷ
lúc hóa Phật đà
những chòm mây hạ

(becoming demons
becoming Buddhas...
the midsummer clouds
Issa)

Vô thường đùa với phù vân. Ma và Phật thấy từ một góc nhìn, quay đầu lại huyễn hoặc mây bay, không còn ma hay Phật. Trong thơ có họa. Thi sĩ cầm cọ vẽ mây. Mây bay thành thơ đượm hương Bát Nhã.

Ngày lên cao, càng lúc càng oi, lỗ chân lông mở rộng dần theo từng luồng chảy rịn quanh lưng. Cơn giông ập đến bất ngờ hấp nóng, người đổ gập trong nước. Tôi leo lên bảo tháp chùa Hoa Yên thắp một nén nhang lễ bái vị thiền tổ Trúc Lâm giữa trời mưa. Đỉnh Yên Tử mờ trong màn trắng. Phía dưới mây sà xuống rừng tùng rồi bay đi. Tôi đứng lặng, gởi gió một lời thơ,

Yên Tử trắng mây ngàn
Phau phau cô đỉnh lặng
Người, những chuyến đò ngang
Yên Tử trắng mây ngàn

 

 

oOo

Những chuyến đò ngang và mây bay. Những cụm mây rụng xuống lòng sông theo dòng về lại biển. Về Nhatrang, thành phố biển - thành phố một thời. Thuở liễu xanh, biển xanh và tóc còn xanh. Thuở có nắng có gió và Em. Chỉ có ở Nhatrang mới hiểu thế nào là ánh mắt sâu thẳm của một đại dương. Chỉ trên bãi cát dài Nhatrang người ta mới thấy lồng lộng một ngõ hồn. Đại dương thâu gọn vào đôi mắt ai đó và đôi mắt nọ mở trùng cho ta một lòng xanh của biển. 
Khi tôi đến, Nhatrang đang bận rộn chuẩn bị cho Biển Festival 2007. Nhìn ra mặt vịnh, có một cái gì vương vướng tầm nhìn. Cuối cùng mới nhận ra chiếc cầu cáp treo quái ác nối ra đảo Hòn Tre đã giết mất đi nét thoáng và thơ mộng của vịnh Nhatrang ngày xưa. Có một cái gì không ổn khiến ta không khỏi mường tượng một cô gái Việt thướt tha trong chiếc áo dài mà chân của cô lại mang giày Nike!

Trở lại Nhatrang, ngôi nhà cũ đã mất, trước mắt tôi một bãi đất trống chìm thỏm vào những cao ốc xa lạ chung quanh. Mái nhà xưa đã không còn. Bây giờ chỉ còn tôi, nắng sớm và tiếng hát vỡ òa. Nhớ giọng hát Lệ Thu buồn nấc nghẹn, "Chờ mong nắng cho tươi đời xuân xanh/ Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn." Trở Về Mái Nhà Xưa - Torna A Surriento. Bài hát lay dậy một nostalgie của phố xưa. Phố có tên gọi Nhatrang, có đường Độc Lập, có đường Duy Tân tha thướt biển. Có đường Bá Đa Lộc nằm dưới vòm lá bàng chạy ngang ngôi trường thân yêu. Có người em Nữ Trung Học thấp thoáng vạt trắng bay trong chiều Đinh Tiên Hoàng... Nhatrang chính là Surriento của tôi. Tôi đâm ước phải chi bài “Nhatrang Ngày Về” của Phạm Duy cũng nổi tiếng như bài “Trở về mái nhà xưa” của De Curtis, để cho nhiều thế hệ trên thế giới sẽ ngâm nga Torna A Nhatrang... Nơi chắc chắn có rất nhiều nàng Mona Lisa đẹp hơn ở Florence, những Cầm Nương tóc thả dài theo biển cát và miệng cười phiếu diễu Nhatrang.
Con đường biển bây giờ sầm uất, khách sạn chọc trời bắt đầu nối đuôi mọc lên, rập khuôn Waikiki ở Hawaii. Những thành phố biển ở Việt Nam như Nhatrang, Mũi Né, Phú Quốc, Hạ Long, Đồ Sơn... cũng như những kỳ tích khác đang đánh đĩ tâm hồn và thể xác của mình cho kỹ nghệ du lịch. Phải có một quốc sách phát triển du lịch, nếu không, giang sơn cẩm tú hay nói gần hơn, môi sinh của chúng ta một ngày kia sẽ bị giẫm nát dưới gót chân những đại tài phiệt quốc tế và đám cường quyền xôi thịt địa phương. Nhatrang thơ ấu của tôi đang biến mất dần. Ôi buồn ! Buồn như tên đường đã mất. Trần Phú ?! Ông là ai, ông xa lạ như một vẫn thạch vô danh bay ngoài không gian không chút liên hệ nào với tôi. Hãy trả lại cho tôi Duy Tân và những hàng phi lao thơ dại...

oOo

Như thế, tôi đã trở về sau 32 năm. Nhớ quay quắt đưa chân tôi đi. 32 năm, thời gian đủ dài cho một thế hệ mới sinh ra và trưởng thành trong bầu khí hậu mới. Lòng không khỏi kích động khi máy bay hạ dần cao độ chuẩn bị đáp xuống Tân Sơn Nhất. Chiều Saigon mờ nhạt dưới cánh bay. Ngoài kia trời bao la xanh, mây trắng gần lại, vỡ dần vào khung kính phi cơ. Tôi tan loãng trên tầng mây. Những đám mây như không có thật. Những đám mây bay qua trong ba mươi hai năm từ một chiều tháng tư. Những đám mây trắng lọn chỉ có ở quê nhà hôm nay, không hiện hữu ở một nơi nào khác trên mặt trái đất. Tôi đã chào đám mây một lần cuối mấy mươi năm trước tưởng không bao giờ gặp lại. Và bây giờ Saigon lồ lộ bên dưới, tôi muốn dang tay ôm hết một khung trời. Những hangar cũ kĩ đen đúa bên phi đạo chạy vụt qua trước mắt dẫn tôi về những tiếng phản lực gầm rống trên bầu trời quê hương một thời. Nhanh như chớp điện, tôi bắt gặp cảm giác một cái gì đã xa lắm và cũng rất gần. Quê hương. Chiến tranh. Tuổi trẻ. Thế hệ của tôi đã mất đi rất nhiều trong cuộc chiến vừa qua, tuổi trẻ và sự trong trắng.

Đêm đầu tiên ở Saigon tôi chìm trong cơn giông sũng nước, mát rần cảm giác. Đánh một vòng phố, phố như lạ. La Pagode không còn. Brodard đổi dạng thành một coffee chain của Mỹ, Gloria Jean's. Thôi không buồn xem Givral hư hao như thế nào nữa. Đi tìm quán Nhị Kiều, Hân Dakao, Làng Văn, Thu Hương... Tất cả chỉ là quá khứ nhạt nhòa. Tôi tự bật cười về sự vô lý của chính mình, làm thế nào những nơi chốn ấy tồn tại được qua những thăng trầm quá lớn trong mấy mươi năm biển dâu. Gặp lại Phiệt sau mấy chục năm, thằng bạn thiết thời trung học, thời hai đứa chia đôi một điếu thuốc. Ghé café Phúc Âm, ngẫu nhiên cùng nghe những bản nhạc một thời quán Gió xa xưa, hai đứa ôn lại những cái đã không còn, triết lý vụn Heraclitus, ta không thể ghé lại hai lần trên cùng một dòng sông.

Rời Saigon tấp nập tôi tìm gặp một Hà nội cổ vẫn còn giữ nét của Việt Nam xưa. 36 phố phường nhỏ nhắn hoa tím bằng lăng. Đồ đạc bán trong phố cổ không còn liên hệ gì đến tên phố nhưng cần gì, vẫn bắt được cái hồn Thăng Long phảng phất đó đây trên khắp lối đi và sinh hoạt. Tô phở Bát Đàn sáng sớm chen chân sắp hàng gây ấn tượng. Cọng hành xanh nằm vắt ngang tô nước ngọt và trong, hương phở bốc nhè nhẹ lên mũi không ngậy mùi bò như ở Saigon hay ở Mỹ. Cắn miếng ớt, thanh thoát húp lấy chỉ vài lần tô phở đã cạn lúc nào không hay. Mồ hôi rịn ra từ trán, lau vội và nhìn ngày bắt đầu tưng bừng lên ở mọi góc phố. Đánh một vòng quanh phố cổ gặp đủ loại hàng xén. Chiếc nón cối, biểu tượng gây nhiều ác cảm trong quá khứ, che sụp hẳn gần hết khuôn mặt hiền lành của một cậu trẻ tuổi bán bánh giò, bánh chưng, đạp xe tảo tần kiếm sống qua ngày, 3 ngàn một chiếc bánh. Dạo một lúc, mùi chiên từ phố Hàng Mành kích thích khứu giác làm bụng cồn cào. Ghé vào quán bún chả Đắc Kim nghe cái nóng tan dần theo cốc bia Hà nội. Cọng bún tươi trắng nõn thơm mùi gạo vừa xay trong cối đá tối qua trôi tuột lẹ vào thực quản cùng với miếng chả vừa miệng. Đĩa rau sống xanh mát làm tăng thêm vị ngon của nem Hà nội thơm lựng mùi thịt heo nhà. Ở giây phút này mọi thứ có thêm tĩnh từ "nhà" đi kèm đều tuyệt diệu. Tiếng "nhà" nghe êm ái làm sao. Rau nhà, heo nhà, gà nhà, cơm nhà... Nhớ nhà. Về nhà. Tôi đã nhớ và tôi về.

Một điều ghi nhận đáng được nhắc đến trên chuyến đi từ nam ra bắc, đó là mọi cổng vào phường xóm đều treo bảng đề tên "Khu phố văn hóa …." Sao bỗng nhiên người ta đề cao văn hóa ở khắp nơi như vậy nhỉ. Sự thiếu vắng văn hóa ở mọi tầng lớp quá trầm trọng nên bây giờ người ta phải nhấn mạnh, phải đề cao ? Che lấp một tự ti ? Hay họ nghĩ rằng chỉ cần nhắc đến hai chữ văn hóa lập tức mình có văn hóa ? Văn hóa không thể là mì ăn liền. Văn hóa thể hiện trong lối sống từ những điểm thông thường nhất, nhỏ nhặt nhất đến những phạm trù rộng lớn như chính trị, xã hội. Ví dụ người dân phải đóng tiên hối lộ để giấy tờ có chữ ký của chủ tịch ủy ban nhân dân khu phố, của công an khu vực là chưa có văn hóa. Nạn tham nhũng làm đường sá, cầu cống hư hỏng ngay vừa khi hoàn tất vì chính quyền ngó lơ cho “đối tác” xây cất làm việc thiếu tiêu chuẩn, đến nỗi phải cấm bảng “Cầu chờ lún”, “Đường chờ lún” là thiếu văn hóa. Những sự việc này tôi nghe được ngay từ miệng của “nhân dân”, những tài xế taxi, người chạy xe thồ, xích lô, tài xế xe chở mướn, người hướng dẫn du lịch tức là những thành phần lao động vật lộn với đời sống hàng ngày ở trong nước chứ không phải từ những Việt kiều “xấu mồm, tiêu cực, chống phá cách mạng” ở nước ngoài.  Nhìn lên cao, đảng độc quyền yêu nước, khống chế phê bình đối lập. Không chấp nhận ai nói khác đảng là chưa có văn hóa. Khổ thật, văn hóa không phải là sự hiện hữu của hai chữ văn hóa ở trên biểu ngữ treo đầu khu phố. Hãy mời văn-hóa-banderole bước xuống cuộc đời để đi vào mọi ngõ ngách đời sống bằng hành động.

Việt Nam có nhiều thay đổi về kinh tế, tấp nập mấy lần hơn trước. Tuy nhiên sự phồn thịnh ở bề mặt không che dấu được sự khó khăn mà người dân đời thường phải khắc phục hàng ngày. Hãy tạm quên vẻ hào nhoáng của Saigon để nhìn sự nghèo đói ở miền Nam, miền Trung và miền Bắc, những nơi tôi có dịp ghé qua hay ngay cả ở những thành phố chính như Saigon, Hà nội, Đà Nẵng, v.v... Sức sống của một dân tộc đầy khí thế tiếc thay chỉ mới được cho phép vươn lên gần đây. Sức sống ấy nếu được nuôi dưỡng và vun trồng trong tự do từ 1975 thì nhất định Việt Nam bây giờ phải là một Tiểu Long ở châu Á. Ba mươi năm đen tối u muội, ba mươi năm đất nước trễ tràng so với các nước láng giềng châu Á. Trên thế giới hiện nay có hơn 190 quốc gia, chỉ còn bốn nước vẫn đeo đuổi chủ nghĩa Marx. Liên sô, quốc gia sáng lập chủ nghĩa cộng sản đã từ bỏ chế độ này gần 20 năm nay. Việt nam 32 năm nhìn lại khiến tôi không thể không liên tưởng đến một câu nói vừa khôi hài vừa đầy đủ sự thật của một chính khách Tây phương : “chủ nghĩa cộng sản là con đường dài nhất đi từ chủ nghĩa tư bản đến... chủ nghĩa tư bản.”

Vũ Hoàng Thư
Tháng 6, 2007