Chương 4
Đồi TÀ BIÊN
Lúc gần năm giờ sáng, đoàn xe của phòng 5, có hai chiếc xe GMC,
và một chiếc xe jeep, bon bon trực chỉ về hướng Quảng Ngãi. Dọc
hai bờ quốc lộ, nhiều lũy tre cựa mình kêu kẽo kẹt. Lá tre reo
vui ca hát trong nắng sớm. Hàng tre lớp lớp nghiêng bóng sà xuống
soi mình trên mặt nước ven sông.
Càng thúc giục lòng Trúc dạt dào
niềm vui và nôn nóng xôn xao, mong sớm đặt chân lên đường quê thênh
thang, dõi bước rộn ràng theo mộng hải hồ vừa ươm.
Xe lên hướng
đồi Tà Biên gần huyện Minh Long nằm bên phía phải, nhìn từ xa đồi
Tà Biên giống chiếc đầu trọc khổng lồ úp lên mâm cỏ vàng to tướng.
Con đường đất đỏ độc nhất ngoằn ngoèo nổi bật trên lưng đồi quanh
co, như sợi gân xù xì dày cộm nhô cao, chia cả ngọn đồi ra làm
hai phần.
Sau cơn mưa chiều hôm trước, con đường cái đã vạch hẳn
ra hai lằn bánh xe in lún sâu xuống mặt đất nâu xám. Lổm chổm những
mảng da đất khô gồ ghề cạ quẹt trên lườn xe. Trông từ xa, lưng
đồi kinh dị như những cục máu bầm, nứt nẻ sau vết thương lở loét.
Dưới chân ngọn đồi, nhiều bãi cỏ hôi và bụi hoa mắc cỡ chằng chịt
gai mọc lúp xúp, chung quanh là công sự phòng thủ có giao thông
hào chu đáoHai cánh cửa cổng bằng gỗ khá lớn, sợi dây xích dài
và to móc từ bên trạm gác ở phía vào, giăng qua tít bên trạm gác
ở phía ra.
Sau sợi dây xích lại có thêm một vòng chắn bố phòng
cẩn mật, là những con bọ ngựa gỗ. Nhiều vòng kẽm gai khoanh tròn,
lòng thòng những lon sữa bò cột rải rác chung quanh doanh trại.
Tại cổng gác có hai anh lính đứng lúi húi làm việc trong trạm,
và hai anh khác bồng súng gác bên ngoài cổng trạm. Trạm gác có
hệ thống đường dây phone chôn ngầm dưới đất, máy điện thoại dã
chiến reo roóc roóc hoài. Trưởng trạm ấn ngón tay liên tục trên
máy truyền tin kêu tít tít tít, tè tè tè... hữu hiệu và nhanh chóng.
Đoàn xe của phòng 5 tạm ngừng bên hàng hàng lớp lớp kẽm gai bao
bọc, từng ụ tháp canh cao vút trên từng bậc thang lắt lẻo chênh
vênh. Đoàn xe đậu lại gần vạt đất trống, chờ xin lệnh từ Bộ Tổng
Chỉ Huy hành quân - Sư Đoàn 2, cho phép xe chở người vào khu phi
quân sự.
Sau khi hai anh lính tuần tự kiểm soát rất kỹ tám chiếc
xe đậu bên lề đường, trong đó có đoàn xe của phòng 5 (gồm ba chiếc)
được phép vào vùng cấm địa khá rộng. Con đường nhỏ độc nhất chạy
một chiều tấp nập đủ thứ loại xe chạy lên, chạy xuống ì ầm. Đường
gò đất đỏ cũng in nhiều lằn bánh xe loại nặng lún sâu xuống, như
con lươn đất uốn lượn nhô lên, giống đúc con đường cái dưới làng.
Dọc
theo bốn phía doanh trại là khu đất rộng độ chừng ba bốn hecta,
có rào kẽm gai chằng chịt, và những giao thông hào cao lút đầu
người. Nhiều gian hầm trú ẩn làm bằng bê tông chắn ghi sắt dày
và to. Chung quanh gian hầm bao bọc thêm nhiều hàng bao cát, dường
như muốn chôn cả những khu nhà hầm xuống đất sâu, chỉ nhô lên khỏi
mặt đất bốn lỗ châu mai trông ra tứ phía.
Bên mé phải là nơi đặt
bộ chỉ huy hành quân. Xạ trường của bộ chỉ huy hành quân nhìn xuống,
là một vạt đồng trống, nên dễ nhìn thấy mọi thứ dưới xa. Trên ngọn
đồi dựng đứng cao sừng sững, tứ phía làng mạc, là một vị trí khá
thuận lợi để đặt bộ chỉ huy, quan sát địa hình và bố trí điều quân,
thì không thể nào chê.
Bên mé trái ngọn đồi có cả bệnh viện dã
chiến nằm lún vào lòng đất ở lưng chừng đồi. Gần bộ tổng hành dinh
là một giàn trọng pháo, khi thì mấy anh lính đang nâng nòng súng
lên, khi thì hạ nòng đại liên xuống. Có kho bom xăng, bom nổ, và
bãi phi cơ dã chiến tốc hành. Có cả khu máy phát điện khổng lồ
chạy ầm ĩ suốt ngày, đêm.Những tiếng nổ lép tép, đì đùng, xì xèo
mùi mỡ khét, thịt cháy, bốc lên hừng hực, từ đám khói đen nghịt
xa xa ùa theo gió ào ạt bay về. Khiến Trúc muốn lộn mửa.
Loạt đại
bác đặt chênh chếch trên lưng đồi, chĩa thẳng mũi về hướng Tây
Bắc, giận dữ gào thét ùm ùm uỳnh uỵch, trút cả khối hung tàn đến
khu rừng già tận phía chân trời xa.
Nhiều loại súng ì oành ì ầm,
pằng pằng pằng rít rít xiu xít trong bầu trời, làm rung chuyển
bao căn hầm chắn ghi sắt, cửa hầm phủ bạc, tủ sắt giật rung kêu
ken két. Khu nhà tiền chế rung rinh, cả khu vách ván lợp tôn đồng
loạt nghiêng ngả dữ dội. Khung cửa kêu rè rè, đôi khi không chịu
nổi sức ép của tạc đạn bay quá gần, đã bể ra rào rạo, ngổn ngang,
có lẽ do bị bắn trực xạ dữ dội và gần lắm. Rung rinh, nghe thật
ớn lạnh.
Tiếng súng cối thị uy của phe ta bắn vào ngọn núi Ô Chai
xa xa, đạn gầm rú trong dãy trường sơn, vang vọng lại từ nơi phát
xuất từng hồi trầm thống gầm rú rền rền. Như những nhịp sấm dồn.
Phía chân trời, các đụn khói đen sì, cuồn cuộn bốc cao, bừng bừng
tỏa rộng ra. Đụn khói quyện lửa và khói đen giống một cây lọng
che khổng lồ, đùn đùn nối tiếp nhau vọt lên lưng trời đỏ rực. Cuộn
lửa và khói đen mù mịt, lại xoắn xuýt quấn lẫn vào nhau, quay lông
lốc, ùn ùn, xoay xoay, lảo đảo dưới bình minh xiên xiên, mờ mờ
sương lam muối vùng núi phủ chụp xuống ngọn đồi trọc, nom càng
xơ xác hơn.
Chiếc bà già Morance 500 cũ rích xập xệ, ì ạch bay
giữa cơn lốc cuốn caoTrúc sợ nó bị hụp xuống vùng trôn ốc, không
qua nỗi trận cuồng phong dữ dội xoáy vòng quá!
Phi cơ trinh sát
luôn bay lượn trên đầu, vòng bay mỗi lúc một tỏa rộng trông thật
ngoạn mục.
Chiến cuộc đang hoành hành trong lãnh thổ xứ Quảng Ngãi. Phi cơ
L 19 liên tục quần thảo trên trời, tiếng súng phe ta lẫn bên địch
nổ ran, rung động khung trời đỏ ầm ầm. Đạn 130 delay chui xuống
“dưới đất hỏa ngục trần thế” mới chịu nổ, kéo tung cào xới, xé
toang hết mọi thứ. Rồi, cuồng bạo vất ngược lên cao, lại lả tả
rơi xuống.
Chiếc phi cơ Skyraider thả napalm xuống mé núi hướng
tây bắc, viên phi công bay lượn vài vòng chào đồng đội, chào bãi,
ủy lạo chiến sĩ, rồi vút bay đi mất dạng.
Ngoài bản doanh, một xe hồng thập tự vừa hú còi chạy xộc vào khu
bệnh xá, để cấp cứu người ngoài ấp bị lạc đạn trọng thương. Ban
y tế lo cấp tốc cúi gầm đầu cứu thương. Vài xác chết chưa biết
là ai, chẳng rõ, sình thối căng phồng, do đoàn 5 vừa đi nhặt về.
Anh Vị để họ nằm trong poncho, bên trên mé hầm khu bệnh xá, như
con chó chết chưa kịp chôn, thúi hoắc.
Trúc vội chạy tới một hầm
lộ thiên khá sâu, nơi nầy dùng để nhốt tạm mấy tên (mà phe ta tình
nghi vừa tóm được). Ban đêm phòng nhì sẽ điều họ đi nơi khác. Cánh
tay bàn chân hắn ta tím bầm sưng húp, lở loét nặng mùi, chân cụt
thò ra run rẩy. Một tên mặt mày xanh méc, (do mất máu), hắn lúi
húi coi lại vết thương, cuộn băng vải cũ thấm từng chỗ trên đùi,
loang lổ máu tươi.
Khuôn mặt một người khác còn trẻ coi hớt hải,
da tái vàng bủng, tóc tai lởm chởm, thân hình gầy còm tiều tụy,
dưới lần vải đại cán có hai túi, cổ đứng, màu dưa úa thô thiển,
may vụng về, quần áo nhàu nát, luộm thuộm khác màu, chân đất, Hai
cánh tay hắn nổi ốc trâu xù xì, dựng đứng những sợi lông tơ, làm
xấu xí. Tuổi đời mới độ mười bốn mười lăm, lớp ghét bẩn thấm mồ
hôi đen, vừa rịn ra từ hàng ria mép nõn khiến Trúc cảm thấy phiền
phiền, đau đau. Quay nhìn quân nhân Cộng Hòa Việt Nam, Trúc nẩy
nở sự so sánh khó chịu, gớm ghiếc. Nhưng đầy lo sợ, nàng muốn đánh
bài chuồn. Không dám chạm trán với các bác. Gặp bác kể như... chào
thua. Kể như đi đứt. Kể như héo úa. Tàn phai nát đời. Chứ không
được hay ho, tuyệt vời như “Đêm tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước.
Chương 5
DƯỚI SỨC NẶNG KINH KHỦNG của
- GÁNH ĐỜI NGHIỆT NGÃ -
Đồi núi vùng Ba Tơ thâm u chập chùng nhấp nhô cao thấp tiếp tiếp.
Rừng đầy lá khô cọ nhau kêu xào xạc. Gió thoang thoảng mùi hoa
bưởi, hoa ngâu từ làng quê bay lên thơm thơm. Trong màn sương khói
mờ mờ, nhìn cảnh vật và khu ấp chiến lược dưới chân đồi thật buồn
bã, vô cùng đơn điệu khi nắng mới vừa ươm.
Lần đầu Hoài thấy địa
pháo tới tấp rót g vùng giao tranh ác liệt, nghe đạn rít bên mang
tai, tiếng đại bác rú rền trời long đất lở, mắt nhòa đi bởi nhiều
khối lửa rạch không khí, tiến nhanh vun vút về phía nội thù:
- Xi xi xì. Tạch tạch tạch... Pằng pằng pằng.... Uỳnh. Oằn. Ùm.
Đạch. Đạch...
Có lẽ đang bắn nhau trực xạ, gần khu nầy lắm hay sao,mà cả khu
đồi kêu ục ục và rung lên dữ dội. Trời gầm đất lỡ mất rồi!
Các
cô gái chân ướt chân ráo vừa đứng chưa vững,trên sân của bộ chỉ
huy hành quân, đã khiếp sợ tột cùng. Họ giật mình quýnh quáng hét
to, đồng loạt cúi cong người, họ hai tai vụt chạy vào căn hầm gần
nhất. Họ chui tọt xuống hầm trú sâu lút đầu người, chui nhanh vào
gầm bàn, gầm giường, gầm ghế. Hai tay bưng đầu, họ bò lê bò la,
nằm úp mặt xuống nền đất ẩm lạnh, miệng không ngớt kêu gào, thảng
thốt rên rỉ. Như ai vừa thọc con dao găm vô bụng.
Trái tim Hoài
đập điên loạn trong lồng ngực cuồng quay, đau nhói, co thắt từng
hồi muốn nghẹt thở. Dường như có bàn tay vô hình bóp chặt trái
tim, làm nghẹt thở, muốn bật máu đào. Mình tưởng đang mang trong
người cơn bệnh trầm kha thoái hóa thần kinh, tế bào thần kinh tiết
ra chất dopamine thành bệnh parkinson, làm thân thể co siết, run
lập cập, run rẩy kinh niên, thật đáng ghê sợ.
Họ chưa kịp hoàn
hồn, đã bị bồi thêm mấy vố kinh dị khác, nhiều đợt chấn động tột
cùng khủng khiếp. Mặt đất rung rinh chuyển động u u u ục ục, ở
trong cơn động thổ bảy tám chấm. Sau loạt đạn xé gió cỡ mươi quả
bay đi. Súng lớn giới hạn tầm bắn dường như bắn ngang đầu, xuyên
qua tường sắt chắn bao cát nứt nẻ, gạch vôi vữa, đá dăm, bụi hồ,
cùng mảnh bể trên mái hầm bị sụp một bên, rắc đầy lên đầu lên cổ
các cô. Cột sắt kêu lanh canh bị chạm điện, lửa vàng xẹt xẹt ra
nổ lốp bốp. Bóng đèn bể bụp, rơi loảng xoảng.
Họ la ó kêu gào từng
hồi thất thanh. Căn phòng bỗng dưng tối mờ. Gió lùa khói đen cay
cay khét lẹt mùi hỗn hợp cuốn thốc. Bụi đất lẫn lộn với tàn tro
mù bay tứ tung.
Trong bóng tối mờ mờ từ lỗ châu mai dọi xuống, họ
nhìn nhau, ánh mắt xao động hãi hùng, chua cay. Xen lẫn chút hào
khí, đầy phẫn nộ ở lưng tròng mắt nhau.
Vừa gù gù đáy thắt lưng
ong, nhấp nhô đầu nón sắt, mấy cô nhổm lên khỏi miệng hầm, tính
chạy đi tìm nơi an toàn khác, thì tràn đạn lại ria qua. Lạnh buốt
xương sống, họ thất thanh kêu rú, như con heo bị chọc tiết, họ
lại vội vàng cúi hụp xuống hầm sâu. Giống con nhái bén lặn kỹ dưới
đáy ao nước, mút mùa lệ thủy.
Cả khu đồi sục sôi kêu lục ục, lòng
đất nhấp nhô. Nhà cửa động thổ rung rinh, nghiêng bên nầy, xiêu
bên kia. Thật quá dễ sợ dưới đống mưa chì, bão lửa. Bao mái tóc
một sớm một chiều, đã bạc nhanh trong giờ phút đẫm máu, kinh hoàng
nầy!
Sau cuộc bị pháo kích và quân ta đã phản pháo khá lâu, Hoài
leo lên mấy bậc cấp làm bằng bao cát, lấm lét nhìn ra lỗ châu mai,
nàng thấy xa xa dưới chân hàng rào hầm lũy, là một cuộc tổng tấn
công rất quy mô của chiến sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ, phối hợp cùng Thủy
Quân Lục Chiến, Biệt Động QuânHọ mặc áo giáp, mang giày botte de
saut, nai nịt gọn gàng. Thân họ dắt đầy lá cây xanh, đầu đội mũ
lưới sắt, súng lăm le trong tay. Vài trái na dắt hai bên mạng sườn
thò ra. Từng hàng nịt da đầy băng đạn.
Lưng chiến sĩ cong cong,
ba lô nặng trĩu căng phồng hết cỡ. Một tuần lương khô, (cá nhân
phải cõng một lít gạo mỗi ngày), một vài bộ quân phục, chiếu mền,
vân vân...
Hay là dùng ba lô để chứa đạn dược?, Hoài không rõ,
và khẩu súng cổ lỗ sĩ. Thân hình họ cong còng xuống dưới sức nặng
kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã. Bổn phận làm trai: Phải trả
nợ non sông thật hết sẩy. Cho đến lúc tai tái người gây gây rét,
từng cơn ớn lạnh luồn vào tủy sống. Chính nhân quân tử đi trên
đường sạn đạo bao trùm cả... vùng chiến sử ca.
Trên trời luôn có
những chiếc phi cơ vun vút bay đi bay lại, ầm ầm hú động quái dị
điếc tai. Họ bay vào vùng thảm khốc điêu tàn đổ nát, không chút
ngại ngần. Dưới đất tiếng hét dũng sĩ kinh hoàng thống hận, sôi
bỏng căm thù cảnh chinh chiến.
Mắt họ bừng bừng đỏ từng đường gân
máu co giật tóe lửa. Cục xương yết hầu mắc họng oan gia suốt bao
kiếp, đưa lên đưa xuống, đâm vào cuống cổ, cho họ khát bỏng cổ
họng, trợn trừng con mắt. Hàm răng họ nghiến chặt, bắp thịt cuồn
cuộn, đôi chân dũng mãnh, vững chãi đạp trên đất phù sa, đạp lên
gai góc, cát đá. Cả nơi bì bõm đồng chua nước mặn, sình lầy. Họ
đang tiến về cuối làng tiếp cận dãy trường sơn, truy tìm địch.
Có điều gì linh thiêng, thần bí và cường diệu, thôi thúc họ từ
bỏ tất cả xa hoa quyến rũ phù phiếm? Khi người lính xông vào vùng
chiến địa tàn khốc điêu linh nầy! Không chút e ngại rụt rè, do
dự? Như là nghề của chàng mà! Thật cảm động đến bàng hoàng ngẩn
ngơ. Nếu không phải vì họ thiết tha yêu thân nhân, yêu đồng đội,
yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương mình đến thế?
Nhiều giờ sau
bình nguyên lắng dịu dần dần. Khi hết từng đợt xung kích ào ạt,
xua quân thù cùng màu da vàng mũi tẹt, chạy bán sống bán chết,
tan tác trong rừng sâu. Thỉnh thoảng dăm ba tiếng súng nổ lẻ tẻ
từ từ nhỏ dần, nhỏ dần, xa dần, xa dần và im bặt.
Khi tiếng súng
hoàn toàn im bặt, không gian còn bao trùm mùi khét nồng oi ả. Khói
lửa điêu linh trôi qua khá lâu. Các cô mới lóp ngóp bò dậy. Từng
người một rụt rè len lén bò lên khỏi miệng hầm, rồi ngồi phệt xuống
đất, thừ người ngẩn ngơ ra. Họ chẳng thể cử động trên nền đất khô
cứng nham nhở gạch đá bừa bộn, thủy tinh lộn xộn. Họ không kêu
la, không nói, không khóc. Vì sự khiếp sợ đã dâng đầy cổ họng khô
bỏng.
Mặt mày ai nấy đều tái xanh tái xám như nhuộm chàm. Mặc dù
trước đó cô nào cô nấy ỏn à ỏn ẻn thắt đáy lưng ong, mặt hoa da
phấn, môi trái tim thoa son tía, dồi má hồng tuyệt đẹp, lông mày
lá liễu, đôi mắt lá răm. Nụ cười rõ tươi làm mát lòng người. Giờ
phút thập tử nhất sinh, họ chà mặt xuống đất, trông lem luốt như
con mèo vá. Mà, không ai thèm cười nhạo nhau nửa lời. Mồ hôi, bụi
bặm, đất cát, khói khét, đã "trổ đồi mồi" màu da của
họ rồi.
Đại tá Phát cùng quý sĩ quan cao cấp tùy tùng, đi thị sát
một vòng quanh vùng cấm địaTuyết Ngọc Trúc nghe cậu nói trong phái
đoàn nầy, có mấy quân nhân vinh dự, đã theo học khóa Clandistine
Operations cuối năm 1960, do Combined Studies tổ chức, qua sự tài
trợ của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ.
Dù nhiều đêm thức trắng trong vùng giao
tranh không chợp mắt, trông ông có vẻ hơi mệt, do tấm bản đồ hành
quân địa phương chằng chịt dấu mực khoanh tròn xanh đỏ ghi trục
tọa độ và đóng quânMàu nâu ghi vùng cao độ. Điểm chuẩn của trục
trung độ và hoành độ được lấy bí số Phương Dung, Lệ Thu, để gọi
chấm trên bản đồ, lên, xuống, phải, trái.
Ông vẫn ra khẩu lệnh
gọn gàng. Tuy mệt thế, ông không mất đi nét rắn rỏi kiên cường,
oai nghiêm trên bộ treillis lá cây mầu xanh đậm, hồ ủi thẳng nếp.
Đôi giày botte de saut cao cổ bóng láng, ôm lấy hai ống quần gọn
gàng. Súng lục nhỏ nạm ngà voi xinh xinh, đeo xệ xệ bên hông. Miệng
ông ngậm ống pipe, đầu đội nón sắt, tay ông quay quay chiếc ba
ton gỗ cẩm lai bịt bạc hai đầu, làm gậy chỉ huy.
Dù trên cổ áo
ông không đeo bông hoa bạc, nhưng có mấy ai mà không biết về vị
chỉ huy Sư Đoàn nầy. Ông đậu thủ khoa khóa Sĩ quan Đông Dương,
mang tên Promotion Indochinoise Quân Đội Pháp. Ông giữ các chức
vụ quan trọng, như Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Thiết Giáp. Tổng
Giám Đốc Bảo An Dân Vệ. Bây giờ là Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh.
Đại
Tá Tư Lệnh khu Chỉ Huy Hành Quân, vừa đi thị sát địa hình, vừa
thảo luận về kế hoạch phòng chống, cách tiến hành trận chiến với
ông Rufus Phillips, làm giám đốc cơ quan Strategic Hamlets (Ấp
Chiến Lược, gọi nôm na là Nông-thôn-vụ).
Và ông Giám đốc cơ quan viện trợ Mỹ USAIDCùng tháp tùng có phái
bộ kinh tế gọi tắt là USOM, chuyên cung cấp sữa bột có đường, bột
mì, dầu bắp, đồ hộp, hàng ngàn bao bố áo quần Mỹ Quốc viện trợ,
thuốc lá Salem. Pallmall, vân vân...
Phái bộ chỉ huy yểm trợ quân
sự, gọi tắt là MACV, và Cố Vấn Mỹ là Trung Úy James Webb trẻ măng,
miệng tươi cười ngậm điếu xì gà SchimmelpennickHình như anh ta
mới tập sự viễn chinh. Có thể những người Mỹ đầu tiên đặt chân
lên đất Việt, còn ngỡ ngàng xa lạ về chiến tranh. "Du kích
chiến" chỉ là một khái niệm mơ
hồ. Ắt hẳn "anh chàng" chưa hiểu định chế ấy, chưa có
kinh nghiệm, và rút tỉa kinh nghiệm chiến thuật là bao. Không rành
hơn, không giỏi hơn quân nhân Việt Nam về chiến thuật, chiến lược
nầy. Dù rằng kỹ năng tác chiến, và khả năng toàn diện của Cộng
Hòa Việt Nam, dựa vào thuật ngữ của súng M-1, súng Garrand cổ lỗ
sĩ.
Vả chăng “anh chàng Mẽo” kéo mươi củ súng 105 ly qua Thái Bình
Dương, để “mớm mồi” Cộng Hòa Việt Nam “bắt tay với Mỹ Quốc viện
trợ“Trong tinh thần nhân chủng, “đề huề” hợp tác chặt chẽ việc
bang giao!?
Nhưng, ông Tá phe ta sẽ nhờ họ thực hiện tốt: Việc yểm trợ, tiếp
liệu quân viện, kinh viện là trọng yếu. Ông sẽ thảo luận về các
mối tương đồng, viện trợ kia: Thực tế nhất là xin vật liệu làm
nhà tiền chế, tráng những con đường nhựa. Xin cung cấp cho xi măng,
sắt chữ U, sắt chữ V, làm cầu, v.v... Cùng các giao hảo tốt đẹp
khác.
”Anh chàng ta” nói:
- “Sure”.
Mấy chuyện lẻ tẻ nầy, nước Mỹ không lo bankcruptcy.
OK!
Thấy phái đoàn dừng lại trước cửa hầm quá bất ngờ, các cô vội vàng
đứng dậy nghiêm chào. Đại Tá Phát nhìn thần sắc các cô nhợt nhạt,
tái xám, lem luốt, đầu bù tóc rối, như người bệnh thần kinh nặng.
Ông quay sang các sĩ quan thuộc quyền, nhích cặp lông mày lên một
chút. Ông lừ mắt nhìn mấy cô lính non đời, hơi nhếch mép mỉm cười.
Chao ôi! Thật thảm thương cho các "Nữ Tướng hào kiệt anh tài
như Hoa Mộc Lan" thuở xưa, lo dông chạy tuốt về Tàu mất tiêu.
Quê xệ hết sức ha.
Mấy ngày sau vẽ bình tĩnh, bàng quang của thôn,
xóm, có lẽ vãn hồi, nhưng còn đọng lại trong lòng người bao lo
âu, run sợ tai họa khác bất ngờ ập đến.
Các cô dần dần bình tĩnh đôi chút. Nhờ sự lân mẫn tự nhiên, giữa
các chàng quân nhân dạn dày sương gió, từng xông pha nơi vùng mũi
tên đầu đạn chiến trường. Nhờ sự lặng lẽ thờ ơ của người lính trẻ.
Nhờ nhiều nụ cười đầy bao dung, khoan thứ của các sĩ quan đã từng
trải.
Các cô nhận biết, nghe quen tai, khi tiếng súng bắn đi và
câu vào. Tuy đôi lúc bất thần họ còn run sợ, hai lỗ tai hầu như
ù ù, lùng bùng, điếc không nghe gì. Riết rồi điếc đặc không sợ
súng.
Riêng Hoài điếc thật rồi nhưng mắt còn thấy đầu đạn bay vun
vút. Nàng thập thò lấp ló đi ra, đi vào lều bạt, thấp thỏm run
run nhìn về mấy ụ súng. Khi nòng sắt đen lạnh khạc ra lằn lửa xi
xi xẹt xẹt, viên đạn nhọn hoắt bịt đồng sáng loáng, vút vút xoáy
tít vào không trung. Ùm... Oằng... Pằng... Pằng... Pằng. Tạch Tạch
Tạch... Bùm!Hoài sợ hãi kinh khủng nấp vào góc nhà, rụt cổ co người,
ngồi hụp xuống. Hai tay Hoài bưng lấy đầu, toàn thân run bần bật,
tim nhảy thình thịch trong lồng ngực, hơi thở nghẹn cứng đứt quãng
như muốn hụt hơi.
Cuộc sống mới dưới sức nặng tột độ kinh khủng
của - Gánh Đời nghiệt ngã - năm 1962 - đón chào Hoài, bằng những
“pha ngoạn mục” đến thế sao!?
Chương 6
KHÔNG . . . XA LẠ
Trực ghé đến nhà Hoài. Trực là thiếu úy biệt động quân làm ở Quảng.
Chàng có biệt danh là Trực Lai, hoặc Trực tóc vàng. Mà tóc chàng
ta vàng thật, vàng cháy như râu ngô già. Bỗng Hoài sực nhớ câu
chuyện thật xảy ra thế nầy:
Hôm đó, đoàn xe ngừng lại bên chợ, để anh chị em đi mua thức ăn.
Các bạn rủ nhau dạo chơi quanh phố chợ nhỏ. Riêng Hoài chán nản,
rầu rĩ ngồi một mình trước cabin xe GMC. Nàng học lại 350 bài giải
đề thi Toán Tú Tài Toàn. Sắp đến ngày thi rồi, không lo gạo cho
kỹ thì... rụng như chiếc lá vàng rơi trong gió.
Hoài giật mình nhìn
lên, nhìn qua bên kia hông cửa xe của tài xế, thấy mặt mày Trực
đỏ kè, lấm tấm nhiều tàn nhang. Mắt anh sắc như dao cau, món tóc
vàng ngã xuống vầng trán cao, gợn nếp phong trần.
Giật mạnh cửa
xe bung ra, anh đứng yên dưới đất, một tay vịn lên vô lăng, Trực
nhìn Hoài, mỉm cười:
- Hoài! Cho phép tôi nói chuyện với em, trong
tình thân ái. Được chứ em?
- Tôi không quen biết anh. Anh say rồi. Anh đi đi...
- Hà hà! Say hả? Được lắm. Tôi là Trực tóc vàng. Còn em là Hương
Hoài. Tôi biết em, từ ngày em đoạt ngôi vị cao sang “Hoa-hậu cây
mùa Xuân Chiến Sĩ” đó. Phải không em?
- Phải hay không, anh biết rồi. Nhưng việc anh thình lình đến đây.
Khiến tôi sợ quá. Anh đi đi, kẻo anh Đoàn-Trưởng thấy, lại khiển
trách tôi trước buổi họp bi giờ.- Tôi nói giữa ban ngày ban mặt,
chứ có núp lén xù xì gì. Mà nó không chịu. Nó tức à? Nó muốn gì?
Có phải nó ghen không thì bảo? Em là thư xịn, thì em sợ gì! Em
không phải là loài gián sợ ánh sáng, sợ ban ngày, phải chui rúc,
lẩn trốn vào khe vách, xó xỉnh. Cứ tự nhiên.
- Khỏi gay gắt như vậy. Nhưng anh hiểu cho, tôi không quen biết
anh. Vả lại, tôi là "xướng ca vô loài", anh không nên
đứng ngoài đường, ngoài ngõ, nói chuyện.
- Em nói sao? Xướng ca vô loại, có nghĩa là em chả xếp với hàng
phẩm trật nào? Ấy dza dzà. Em là siêu sao rồi. Em là hơi thở buông
ra từ hai buồng phổi, đầy ắp ân tình trìu mến. Là tiếng hát thì
thầm, vẫy gọi nhau nồng nhiệt. Là giọt mật ngọt ngào từ thinh không
rót xuống dòng thời gian miên viễn đỗ vào tim mọi người. Cớ sao
em nói ca sĩ là vô loài? A phải! Em tránh né. Tôi thì hổng nói,
nên làm sao em biết chứ. Tôi và em, chấp nhận đời sống nghệ sĩ,
là chấp nhận buồn nhiều vui ít. Chấp nhận thương đau, hơn hạnh
phúc. Chấp nhận “tình lính là tính liền liền”. Có gì mà em phải
tránh né tôi. Em né tránh né tôi, thì làm sao tôi có dịp bày tỏ
nỗi niềm của một người yêu... đơn phương.
- Đi chỗ khác đi!
Không đi đâu hết. Trực nhảy phóc lên xe, anh đóng
mạnh cánh cửa đánh rầm một cái. Đầu anh chàng gục lên hai cánh
tay khoanh tròn, đặt trước vô lăng, đôi vai rung lên theo từng
tiếng nấc. Trực khóc. Khóc thật hay chàng chỉ đóng kịch, để Hoài
ngây thơ tin vào mối tình nghệ sĩ sét đánh chớp nhoáng?
Hoài không
thỏa mãn lòng khao khát yêu thương của TrựcKhông thể làm chàng
vơi cạn “tình lính nghệ sĩ tính tiền liền”, như chàng đã nói. Nàng
vội vàng mở cửa nhảy xuống đất, bực bội và run run đứng lấp ló
bên hông xe. Hoài dáo dác nhìn quanh tìm kiếm các bạn trong phòng.
Sau
đó, Trực vẫn lai vãng đến gần, tìm dịp làm thân, anh bám riết,
cho đến lúc rã rời, rơi rụng lúc nào chả rõ. Hoài cay đắng với
niềm cay đắng đã quá đột ngột, chua xót bẽ bàng. Nhưng nước mắt
của chàng trai phong sương xa lạ nầy, không thể lay chuyển ý chí
sắt đá, và cõi lòng tê tái đắng cay trong lòng Hoài.
Bây giờ, không
ngờ chàng thiếu úy đó xuất hiện. Hoài đứng chắn ngang ở bậc thềm
nhà, hất hàm cộc lốc hỏi:
- Anh có việc gì cần...
đến đây vậy?
- Hoài còn giận tôi, về việc đường đột trước. Ha?
- Anh có biết là cô chủ café Nhạn Cúc rất đau khổ, khi bị anh phụ
tình không?
- Tôi không hứa hẹn yêu đương gì, với Cúc cả.
- Sự thân mật, dễ tạo cho Cúc niềm tin yêu chân thật. Nay, anh
muốn đến nhà anh chị của tôi, làm gì?
- Tôi không là kẻ thù của Hoài. Sao em như... muốn ăn tươi, nuốt
sống tôi vậy?
- Tôi và anh, vốn không ân không oán. Xin lỗi, nếu tôi đã làm phật
lòng anh.
- Không phải lỗi về phía em. Hôm nay tôi đến chào em. Tôi xin đổi
đi Khe Sanh. Không muốn ở đây nữa.
- Anh có đủ sáng suốt quyết định... Chúng ta biết nhau như là chuyện
bình thường. Chúc anh vui mạnh.
Trực quay gót với đôi mắt thấm buồn
trũng xuống. Nói chuyện, mà đứng chấn ngang ngưỡng cửa, xẵng giọng.
Thái độ của một cô gái con nhà đàng hoàng. Như thế là không gia
giáo, thật lố bịch, bất lịch sự hết sức. Điều đó khiến lòng Hoài
chùng hẳn lại.
Chị Huyền la, khi em vào hẳn trong nhà:
- Sao em ăn nói cộc lốc
quá? Đừng gieo gió, có ngày sẽ gặt bão đó. Em ơi!
- Khổ quá! Em không hề biết anh ta, là ai. Sao anh ta làm phiền
em quá vậy!
Chiều hôm sau, Thắng đến nhà ngồi nói chuyện phiếm.
Hoài nói:
- Tuần tới Hoài lại đi Minh Long, Nghĩa Phú, Minh Long
một tháng. Anh à.
- Làm quái gì ở đấy mà... đi lâu thế?
- Suỵt! Bí mật quân sự, mà anh
- Đúng. Nhưng, đi lâu thế. Anh lại solo trên phố quá!- Anh thiếu
gì bạn gái, em gái mà... anh phải solo!- Anh thiếu gì, chứ có...
thừa gì đâu.
- Hoài làm sao biết. Nếu biết, chả nhằm nhò gì.
- Hoài có quyền biết, với tư cách là người thân. Không xa lạ.
- Cũng tùy.
Thắng cười rất xinh, nhìn Hoài trìu mến. Anh đá lông
nheo mấy cái:
- Nhớ viết thư về cho anh. Nhé!
- Ơ! Viết thư à?
- Phải! Làm gì mà ngạc nhiên khiếp thế ? Em chưa từng viết thư
? Hở?
- Thú thật Hoài không nghĩ... có ngày... mình sẽ viết thư cho anh
kìa.
- Sao thế?
- Lại hỏi nữa rồi. Bây giờ thì... bí mật quốc phòng.
- Hậu sinh khả úy ha.
- Hôm nay, anh thua em hai không rồi. Nhé.
- Nguyễn Công Trứ nói câu nầy: "Tất do Thiên, âu phận ấy là
thường. Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ" Thì, việc anh
thua em hai ba không, là thường. Phải không Hoài?
- Anh nói tiếng Tàu, tiếng Miên hay Mã Lai, em cũng câm điếc. Huề
cả làng thôi.
- Cô bé thế mà... khôn thật.
Hai người nhìn nhau vui vẻ, cười hồn
nhiên. Thắng treo cây đàn trên tường, anh xuống nhà dưới chào chị
Sáu Huyền, lên solex về nhà.
Nắng vàng hanh yếu dần bên ô cửa đã
lên đèn, trộn lẫn màu hoàng hôn, và màu ven đêm quyện gió hiu hiu
thổi. Làm ửng hồng đôi má người thiếu nữ, đứng dưới tàng lá me
bay bay.
(còn tiếp)
Ưu Du
|