4- Quân Tần mang quân đi đánh Bách Việt từ lúc nào?
Sau khi gồm thâu sáu nước để thống nhất Trung Hoa năm 221BC, Tần
Thủy hoàng muốn mở rộng đế quốc. Về hướng nam Trung Hoa, Thủy hoàng
đã ra lệnh cho Đồ Thư mang quân đi chinh phục Lĩnh Nam.
Như đã trích dẫn trong ĐVSKTT trong phần trên cùng với sách Sử
Ký của Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ, dịch giả Nhữ Thành :
“Năm thứ 33 (214TCN),Thủy Hoàng đưa những người thường trốn
tránh,những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục
Lương,lập thành Quế Lâm,Tượng Quận,Nam Hải cho những người bị đi
đày đến đấy canh giữ”(1).
Qua
đoạn sử liệu trên chúng ta chỉ biết là năm 214 TCN, nhà Tần coi
như đã chiếm được một vùng đất ở Lĩnh Nam, đặt làm 3 quận. Tuy
nhiên sử liệu này đã không nói là quân Tần bắt đầu mang quân vào
Lĩnh Nam từ lúc nào.
Để biết lúc nào quân Tần bắt đầu xâm lăng, “Nam Việt
Úy Đà liệt truyện" (Sử Ký) viết:
“...Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người
huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả
thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam
Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người
Việt. Như thế đã mười ba năm. Thời
Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải”.
Câu
dịch “Như thế đã mười ba năm" rất khó hiểu,
vì câu viết có tính cách tương đối, 13 năm so với thời điểm nào?
Vì việc này, người viết xin trích dẫn sách Sử Ký với tam gia chú-
quyển 113- Nam Việt Uý Đà liệt truyện: “Tập giải Từ Quảng viết :“Tần
tịnh thiên hạ, chí Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) thập tam niên.
Tịnh thiên hạ bát tuế (8 năm), nãi bình Việt địa, chí Nhị Thế nguyên
niên lục niên (214 TCN) nhĩ".
Qua lời chú này, chúng
ta thấy là khi nhà Tần chiếm xong 6 nước kể từ năm Nhị Thế nguyên
niên (209 TCN) là 13 năm: 209 +(13-1)(2) =
221 TCN. Phù hợp với việc "biên niên" trong chính sử
Trung Quốc.
Nhà Tần “bình Việt địa" trong 8 năm, tới năm thứ
sáu thời Nhị Thế là năm 214 TCN. Vậy nhà Tần bắt đầu chuẩn bị
sự bành trường đế quốc nhà Tần là : 214 + (8 -1) = 221 TCN. Tuy
nhiên người viết nhận thấy là khi vừa chiếm xong sáu nước, Thủy
Hoàng đế phải có một thời gian để chuẩn bị quân đội, như việc "bắt
lính" từ các nước vừa chiếm như “đưa những người thường
trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn" (ĐVSKTT)
cũng như lương thực cho đạo quân nam chinh này.
Vì thế, người viết
nghĩ là một năm sau, đó là năm 220
TCN , thời điểm này quân Tần mới có đủ thời gian để
mang quân đi xâm lăng Bách Việt
5- Địa điểm đóng quân của quân Tần
Quân Tần đóng
quân ở chỗ nào?
Không thấy các bộ chính sử nói rõ về việc này, chỉ viết vắn tắt
là Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang 500 ngàn quân vượt Ngũ Lĩnh (?)
để xâm chiếm Lĩnh Nam (?).
ĐVSKTT: “Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm
thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người
ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư
đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào
đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương…
...đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng
đồn ở Ngũ Lĩnh”.
a. Sách Hoài Nam Tử (3)
Tuy nhiên có một tài liệu khá lý thú đã nói về nơi chốn quân Tần
đồn trú, cũng như những biến cố trong chiến dịch này, dù rất sơ
lược, nhưng rất là quý giá. Đó là sách Hoài Nam Tử của Lưu An,
quyển 18, chương "Nhân Gian Huấn", có đoạn đã viết về
việc này như sau (4):
Kiến kỳ truyện viết: "Vong Tần giả, hồ dã ". Nhân
phát tốt ngũ thập vạn, sử Mông công - Tương ông tử tướng, trúc
tu thành, tây thuộc Lưu Sa, bắc kích Liêu thuỷ, đông kết Triều
Tiên, Trung quốc nội quận vãn xa nhi hướng chi. Hựu lợi Việt
chi tê giác - tượng xỉ -phỉ thuý - châu cơ, nãi sử uý Đồ Tuy
(Nôm: Thư) phát tốt ngũ thập vạn, vi ngũ quân, nhất quân tái Đàm
Thành chi lĩnh, nhất quân thủ Cửu Nghi chi
tái, nhất quân xử (xứ) Phiên Ngu (Phiên Ngung) chi
đô, nhất quân thủ Nam Dã chi giới, nhất quân
kết Dư Can chi thuỷ, tam niên bất giải giáp
trì nỗ. Sử Giám Lộc vô dĩ chuyển hướng, hựu dĩ tốt tạc cừ nhi
thông lương đạo, dĩ dữ Việt nhân chiến, sát Tây Ẩu (Nôm:
Âu) quân Dịch Hu Tống. Nhi Việt nhân giai nhập tùng
bạc trung, dữ cầm thú xứ, mạc khẳng vi Tần lỗ. Tương trí kiệt
tuấn dĩ vi tướng, nhi dạ công Tần nhân, đại phá chi, sát uý Đồ
Tuy (Nôm: Thư), phục thi lưu huyết số thập vạn.
Tạm dịch (5):
...
Truyện xưa viết: "Nhà Tần vong, tại sao vậy". Nguyên nhân là
sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường thành. Phía
tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì liên kết với Triều
Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi chinh chiến.
Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu,
nên sai quan úy là Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (Bách
Việt). Một đạo đóng ở Đàm Thành, một đạo phòng thủ ở Cửu
Nghi là chỗ hiểm yếu, một đạo đóng ở Phiên Ngung làm
đô thành, một đạo đóng ở Nam Dã là nơi biên giới, một đạo
đóng ỡ sông Dư Can. Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng
phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc (6) không
tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương
đánh người (Bách) Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người (Bách)
Việt vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm
tù binh. Ho kén chọn ngưòi tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn
công quân Tần, đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết
cả chục vạn.
Địa danh và sự việc đã được sách Hoài Nam Tử nói qua, những điều
này, người viết xin lần lượt trình bày qua những tham khảo, suy
luận cùng những phỏng đoán của cá nhân trong phần sau.
Trước khi tìm hiểu về những địa danh và sự kiện được nêu lên trong
tài liệu này, người viết xin nói sơ lược về tiểu sử tác giả sách
Hoài Nam Tử, hầu chúng ta có thể biết thêm về thời điểm lúc quyển
sách này ra đời.
Tác giả sách Hoài Nam Tử là Hoài Nam Vương Lưu An, ông là cháu
của Hán Cao Tổ Lưu Bang (gọi Lưu Bang bằng ông), con của Lưu Trường,
em họ (?) của Hán Cảnh Đế Lưu Khải (156 TCN – 141 TCN) và là chú
họ (?) của Hán Vũ Đế Lưu Triệt (140 TCN – 87 TCN). Được phong làm
Hoài Nam Vương ở vùng sông Hoài (7) (tỉnh
An Huy ngày nay). Ông sinh năm 179 TCN, ông tự sát năm 122 TCN
(hay 123 TCN?) vì có ý định mưu phản Hán Vũ đế, nhưng sự việc bị
tiết lộ. Lưu An là người đã dâng biểu can Hán Vũ đế về việc nhà
Hán định đánh Mân Việt khi Triệu Văn Vương của nước Nam Việt là
Triệu Hồ (con Trọng Thủy, cháu Triệu Đà) trình cho Hán Vũ đế biết
việc Mân Việt mang quân đánh Nam Việt (135 TCN).
Sách Hoài Nam Tử là bộ sách của Đạo gia, được viết bởi tám học
giả ở vùng Hoài Nam gọi là Hoài Nam bát tiên, dưới sự chỉ đạo của
Hoài Nam Vương Lưu An. Sách này được trình cho Hán Vũ Đế
xem năm 139 TCN. Sách này ra đời trước cả bộ Sử Ký của
Tư Mã Thiên (145 TCN - 93 TCN, đây là bộ chính sử sớm nhất của
Trung quốc, hoàn tất năm 97 TCN). Nhà Tần đặt Lĩnh Nam thành quận
huyện năm 214 TCN, sách Hoài Nam Tử hoàn tất năm 139 TCN, được
viết sau biến cố này 75 năm, tương đối khá ngắn so với chiều dài
của lịch sử, nên người viết nhận thấy sự khả tín khá cao, hơn nữa
có lẽ đây là sách duy nhất nói về việc này còn lưu truyền. Vì thế
sự tìm hiểu về việc tiến quân của quân Tần được đặt căn bản theo
đoạn văn đã trích dẫn ở trên của sách Hoài Nam Tử.
Qua sử liệu, chúng ta biết quân Tần vượt Ngũ Lĩnh để xâm chiếm
Lĩnh Nam. Câu hỏi được đặt ra là Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam ở đâu so
với địa danh ngày nay.
b. Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam
Bản đồ số 1 - Ngũ Lĩnh (ngày nay là Nam Lĩnh)
Bản đồ số 2- Ngũ Lĩnh-chi tiết
Ngũ Lĩnh
Là rặng Nam Lĩnh ngày nay, gồm 5 rặng núi nằm kế nhau theo hướng
đông bắc, từ phía tây qua đông theo thứ tự như sau:
Việt Thành
lĩnh (Yuechengling )
Đô Bàng lĩnh (Dupangling )
Minh Chử lĩnh (Mengzhuling )
Kỵ Điền lĩnh (Qitianling )
Đại Du (Dữu) lĩnh (Dayuling )
Rặng Ngũ Lĩnh kéo dài từ phía bắc
tỉnh Quảng Tây sang đến một phần phía bắc tỉnh Quảng Đông. Ngũ
Lĩnh phân chia ranh giới các tỉnh Hồ Nam - Quảng Tây, Hồ Nam -
Giang Tây - Quảng Đông, thành hai vùng địa lý khác biệt.
Phía bắc Ngũ Lĩnh, tỉnh Hồ Nam có sông Tương theo hướng nam- bắc
chảy vào hồ Động Đình và sông Dương Tử. Sông Cám (hay Cống giang)
cũng theo hướng nam - bắc chảy vào hồ Bá Dương.
Phía nam, ở tỉnh Quảng Tây có sông Li theo hướng bắc - nam chảy
vào sông Chu. Quảng Đông có sông Bắc cũng theo hướng bắc – nam
chảy vào sông Tây (Tây giang).
Rặng Ngũ lĩnh không cao, trung bình từ 1000 tới 1500 mét (khoảng
3300 tới 5000 feet). Tuy nhiên rất hiểm trở và khó vượt qua bằng
đường bộ.
Những quan ải tại Ngũ Lĩnh:
Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện: " (Nhâm) Ngao chết,
Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng
Khê rằng: Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân
sĩ để tự bảo vệ".
Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày
nay (Meiguan) (8).
Đây là một cửa ải quan trọng bậc nhất trên rặng Ngũ Lĩnh từ Hoa
hạ đến Lĩnh Nam. Ngày nay tại đây vẫn còn một thị xã nhỏ sát ranh
giới Giang Tây và Quảng Đông mang tên này. Từ Mai quan tới thị
xã Nam Hùng tỉnh Quảng Đông khoảng 30 km ( 19 dặm). Thời Tần có
tên là Hoành Phổ quan, cửa quan
này nằm trên Đại Du (Dữu) lĩnh là một trong Ngũ Lĩnh, rất hiểm
trở khó qua lại. Thời Đường gọi là Tần quan. Năm 716, Tể tướng
Trương Cửu Linh (9) mở
rộng thêm bằng cách đục đá xuyên qua núi bên dưới lối đi cũ để
bớt độ dốc và lát gạch cho dễ qua lại. Phía bắc cửa ải có khắc
hàng chữ "Nam Việt Hùng
quan", phía nam có khắc hàng chữ "Lĩnh Nam Đệ Nhất quan".
Dương Sơn quan (10)
ở phía đông nam Kỵ Điền lĩnh, gần Liên giang ( Lian jiang). Ngày
nay thuộc huyện Dương Sơn (Yangshan), Thanh Viễn thị, góc tây bắc
tỉnh Quảng Đông.
Hoàng Khê quan ở phía nam Kỵ Điền
lĩnh, gần núi Hoạt Thạch, chỗ 3 con sông hợp lại là Bắc Giang
(Beijiang), Liên giang ( Lianjiang) và Ống giang (Wengjiang) .
Ngày nay thuộc huyện Anh Đức (Yingde), Thanh Viễn thị (Qingyuan),
phía bắc đô thị Quảng Châu.
Ngoài những ải trên được ghi lại trong Sử Ký, còn có Ly
Thủy quan là chỗ Sử Lộc đào kinh Linh Cừ thông thủy
đạo từ Tương giang nối với Ly giang để chuyển lương trong chiến
dịch xâm chiếm Lĩnh Nam.
Lĩnh Nam.
Địa thế: Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của
rặng Ngũ Lĩnh. Tuỳ theo sự giải đoán của từng người
hay nói chung là tùy theo quan niệm của từng dân tộc.
Người Trung Quốc gọi vùng Lĩnh Nam là đất của người
Bách Việt gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến và phía
nam của Chiết Giang (vùng đất của các nước cổ thời
là Mân Việt và Đông Việt). Người Việt Nam gọi Lĩnh
Nam là vùng đất gồm Quảng Tây, Quảng Đông và Cổ Việt
là Bắc Việt ngày nay, vì trong cổ sử của nước Việt
nói về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng như sau: ĐVSKTT:" Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói:... Cho nên Trưng Nữ Vương tuy đánh lấy
được đất Lĩnh Nam, nhưng không giữ được nơi hiểm yếu
ở Ngũ Lĩnh, rốt cuộc đến bại vong" cũng
như truyện "Lĩnh Nam Chích Quái"của Trần Thế Pháp. Trong
khi đó học giả Tây Phương (11) nói
Lĩnh Nam chỉ gồm có hai tỉnh là Quảng Tây và Quảng Đông. Tuy nhiên,
nếu hiểu một cách phổ quát thì Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của
Ngũ Lĩnh, gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, đảo Hải nam, phía
nam Chiết Giang và Bắc Việt Nam ngày nay. Vùng đất có các sắc dân
không thuộc Hán tộc, khác hẳn về ngôn ngữ, phong tục và văn hoá
với dân vùng Hoa Bắc và Hoa Nam thời cổ.
Phía tây Lĩnh Nam là vùng
cao nguyên của hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu, cũng là phía tây của
tỉnh Quảng Tây với rặng Ô Mông sơn (Wumeng shan) và Lục Chiếu sơn
(Liuzhao shan (sát với biên giới Việt Nam- Vân Nam và Quảng Tây).
Đây là những rặng núi tương đối khá cao để có thể phân biệt về
ranh giới thời cổ. Phía đông bắc Lĩnh Nam là các rặng núi Vũ Di
sơn, Tải Vân Sơn và Liên Hoa Sơn, phân chia hai vùng Lĩnh Nam và
Dương Việt (huyện Mân Trung thời Tần). Phía đông và phía nam của
Lĩnh Nam giáp biển Nam Hải.
Vùng Lĩnh Nam có sông lớn thứ 3 của
Trung Quốc là Tây Giang sau Hoàng Hà và Dương Tử (Trường giang),
Đây là thủy đạo chính của vùng Lĩnh Nam. Sông này tùy từng đoạn
đã được đặt bằng những tên khác nhau. Các đoạn sông này nối tiếp
với nhau từ tây qua đông theo thứ tự sau: Nam Bàn giang (tên cổ
thời là sông Tường Kha) - Hồng Thủy hà, Tây giang và Chu giang
là đoạn nối với biển Nam Hải.
Sông Tây giang có những chi lưu chính
ở phía bắc như Bắc Bàn giang, Liêu giang, Li giang, Bắc giang và
Đông giang. Những chi lưu ở phía nam như Hữu giang và Tả giang
(phát nguyện từ bắc Việt Nam) hợp lại là Uất giang, chảy vào Tây
giang.
Khí hậu Lĩnh Nam khác hẳn với khí hậu Hoa
hạ. Phía bắc Ngũ Lĩnh lạnh và khô, nhiều khi mùa đông có
tuyết, nhưng phía nam Ngũ Lĩnh – Lĩnh Nam- thì ấm áp
quanh năm, đây là vùng khí hậu nhiệt đới. Nhiệt độ
thay đổi từ 10°C (tháng 11, 12, 1, 2) đến 30°C (tháng
5, 6, 7, 8). Thời gian trồng cấy từ 250 đến 320 ngày trong một
năm ( nhiệt độ tối thiểu để có thể cấy lúa là 10°C). Lĩnh Nam có
nhiều mưa, tháng 5, 6, 7, 8 là mùa mưa, cao điểm là tháng 6, vũ
lượng lên tới 25cm (10 inches). Vũ lượng cho cả năm khá cao, 170
cm (67 inches) tại Quảng Châu, 200 cm (80 inches) tại Hồng Kông,
180 cm (71 inches) tại Hà Nội.
Lịch sử: Trước khi quân Tần theo lệnh của
Tần Thủy Hoàng đi mở rộng đế quốc nhà Tần về phía nam,
Lĩnh Nam không có những liên hệ nào đáng kể với vùng
Hoa Hạ, ngoại trừ những việc giao thương rất lẻ tẻ
qua những vùng có thể đi bằng đường bộ (12).
Sự qua lại cực kỳ chật vật vì phải vượt qua những đường
đèo hiểm trở tại rặng Ngũ Lĩnh. Văn hoá của Trung Quốc
chưa xâm nhập vào vùng Lĩnh Nam. Về phía đông bắc,
sau khi nước Sở và Tề xâu xé nước Việt của Câu Tiễn (13) năm
333 TCN, hậu duệ của vua Việt và một số dân Việt chạy
về phía nam là hai tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến. Tại
đây hai nước nhỏ được lập nên là Đông Việt và Mân Việt,
vùng này được gọi chung là Dương Việt. Phía tây bắc
của Lĩnh Nam có nước Dạ Lang thuộc tỉnh Quý Châu, phía
tây Lĩnh Nam có nước Điền ở vùng hồ Điền Trì sát đô
thị Côn Minh, tỉnh Vân Nam ngày nay. Mới đây các nhà
khảo cổ đã khai quật được 118 di chỉ của nước Điền,
từ những di chỉ này, chúng ta biết dân nước Điền rất
điêu luyện về cách đúc đồng thau (bronze) (14) lúc
cổ thời. Tại trung tâm của Lĩnh Nam có nước Tây Âu là một nước
khá lớn, nước này đã chống trả lại đội quân nam chinh
của Tần Thủy Hoàng một cách kịch liệt. Phía cực nam
của Ngũ Lĩnh là nước Âu Lạc tức là Giao Chỉ hay nước
Việt Nam thời cổ.
Các sắc tộc: Lĩnh Nam (Quảng Đông, Quảng
Tây và cổ Việt) gồm nhiều sắc tộc, người Hán gọi chung
là người Bách Việt, gồm nhiều bộ tộc đã định cư ở đây
từ lâu đời. Cổ thời, trước khi nhà Tần mang quân xâm
chiếm, Lĩnh Nam có hai sắc tộc chính thuộc chủng tộc
Thái là Tráng (15) (Zhuang)
ở vùng Quảng Tây và Quảng Đông, Lê (16)
(Li) ở vùng bán đảo Lôi Châu (Leizhou) và ven đảo Hải Nam (17).
Xa về phía nam là chủng tộc Lạc Việt tại vùng Âu Lạc. Sau này
lại có các sắc tộc thiểu số khác di dân đến đây sinh sống như người
H’Mông(18),
người Dư (19), Di
tộc (Lô Lô) (20),
người Dao (21) v.v…
Dân số Lĩnh Nam:
Theo như Hán Thư, Điạ Lý chí của Ban Cố thì các quận Nam Hải, Uất
Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, cộng
lại được 215,448 nhà, và số nhân khẩu là 1,272,390 (22) người.
Đây là dân số Lĩnh Nam theo thống kê thời Tiền Hán (206 TCN – 9
).
Nước cổ Việt (Âu Lạc) gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
tổng cộng là 143643 nhà và 981,835 người.
Vùng Quảng Tây và Quảng Đông gồm 4 quận Nam Hải, Hợp Phố, Thương
Ngô và Uất Lâm là 71,805 nhà và 390,555 người.
Tỷ lệ dân số cổ Việt nhiều hơn 2.5 lần so với dân số hai tỉnh Quảng
Đông và Quảng Tây
Tuy nhiên, không phải tất cả dân chúng tham gia kiểm kê, nên người
viết phỏng đoán là dân số Lĩnh Nam ở đầu thế kỷ thứ nhất
có khoảng 2 triệu người. Ngược lại 2 thế kỷ, trước khi nhà Tần
sang xâm chiếm, người viết phỏng đoán dân số tại Lĩnh Nam
có khoảng 1.5 triệu người: 500 ngàn tại vùng Quảng Tây và Quảng
Đông (23), 1 triệu
người tại cổ Việt.
c. Những địa điểm đóng quân
Sau vài nét đại cương về Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam, người viết xin trình
bày từng địa điểm đồn trú của quân Tần, mà sách Hoài Nam Tử đã
viết. Những vị trí này được truy tầm qua các tài liệu cổ của Trung
Quốc như: Sử Ký, (Tiền) Hán thư, Hậu Hán thư, Tấn thư, Thủy Kinh
chú, Thủy Kinh chú sớ, cùng với bản đồ của Trung Quốc và các phương
tiện truyền thông tinh vi ngày nay như "Internet và ""Google
Earth". Sau đó sẽ phỏng đoán đường hành quân
đặt căn bản qua các tài liệu trên, để chúng ta có một khái niệm
tổng quát về chiến dịch xâm lăng Bách Việt của quân Tần.
Đàm Thành
Theo Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ
thập nhị", "Quận quốc tứ" (24) thì
Đàm Thành là một huyện của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm
Trung thời Tần). Thời Hậu Hán, Hán Quang Vũ chia quận
này ra làm 6 huyện. Đàm Thành là một trong 6 huyện, tọa lạc tại
phía tây nam của quận Vũ Lăng.
Sách Thủy Kinh chú (bản
dịch trong "Thủy
Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 37, trang 483): "Sông
Ngân Thủy ra từ khe Nguyên Thủy ở biên giới phía bắc huyện Tầm
Thành (25) (nv: Đàm
Thành, xin coi ghi chú) quận Vũ Lăng".
Quận
Vũ Lăng, theo Hán Thư của Ban Cố, "Địa
lý chí", quyển 28 hạ (26),
thì Vũ Lăng là một trong các quận của nước Sở ngày trước.
Theo như
bản đồ ngày nay thì quận lỵ của Vũ Lăng là Hoài Hoá thị ở phía
tây tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, phía nam rặng núi Vũ Lăng. Hoài
Hoá thị có sông khá lớn là Nguyên giang (27) chảy
qua. Sông này bắt nguồn từ ranh giới Quý Châu, Quảng Tây và Hồ
Nam, chảy về hướng đông-bắc đổ nước vào vùng hồ Động Đình.
Đàm Thành toạ lạc tại Tịnh huyện (Tịnh
châu Miêu tộc đồng tộc tự trị huyện), thuộc Hoài Hóa
thị (Huaihua), phía tây nam tỉnh Hồ Nam, là một trong
12 thành của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trung
thời Tần).
Người viết phỏng đoán thành này nằm trên bờ sông Nguyên,
là thị trấn Tịnh Châu (Jing Zhou) của tỉnh Hồ Nam ngày
nay. Vì đây là một vùng phẳng duy nhất để có thể đủ
chỗ cho 100 ngàn quân trú đóng và tiện việc vận chuyển
quân lương bằng đường thủy.
Bản đồ số 3 - 3 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Đàm Thành,
Cửu Nghi, Nam Dã
Cửu Nghi
Theo
Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận
quốc tứ" (28) thì
Cửu Nghi là một vùng núi ở quận Linh Lăng.
Sách Thủy Kinh chú (bản
dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của
ông Nguyễn Bá Mão, quyển 38, trang 519) (29):
“… Lại chảy về phía đông bắc, qua phía tây huyện Tuyền Lăng.Sông
Doanh Thủy ra từ núi Lưu Sơn ở phía nam huyện Linh Đạo quận Doang
Dương, chảy về phía tây đi qua dưới núi Cửu Nghi,
chân núi uốn khúc khắp đồng Thương Ngô, ngọn núi mọc cao vút
trong khoảng mấy quận. Núi bày ra chín ngọn, một ngọn dẫn một
con suối, núi khe hiểm trở, núi tuy khác nhau, nhưng hình thế
giống nhau, làm cho du khách nghi hoặc, cho nên gọi là núi
Cửu Nghi ”.
Cửu Nghi Sơn: địa danh này ngày
nay vẫn còn. Tọa lạc Vĩnh Châu thị (Yongzhou), cách huyện
Ninh Viễn (Ningyuan) khoảng 15 km (chừng 10 miles)
về phía nam, nằm gần cực nam tỉnh Hồ Nam, một trong
những núi thuộc Minh Chử lĩnh (sát ranh giới Hồ Nam
- Quảng Đông). Đỉnh cao nhất là núi Phấn Cơ (Fenji
-1959m). Phía bắc chân núi này vẫn còn một thị xã nhỏ
có tên là Cửu Nghi.
Phía đông núi Cửu Nghi có sông Xuân Lăng, sông này
thông với Tương giang ở phía bắc tại thị trấn Hành
Dương (Hengyang-tỉnh lớn thứ nhì của tỉnh Hồ Nam sau
Trường Sa).
Bên bờ sông Xuân Lăng ngày nay có thị trấn Lam Sơn (Lanshan) tương
đối khá phẳng Người viết phỏng đoán là một đạo quân Tần đã đóng
ở đây để tìm cách vượt Ngũ Lĩnh.
Phiên Ngung
Bản đồ số 4 - 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Phiên
Ngung
Điạ danh này đã được nói tới trong Sử Ký của
Tư Mã Thiên - "NamViệt
Úy Đà liệt truyện" ba lần. Đây là kinh đô của nưóc
Nam Việt thời Triệu Đà. Khi quân nhà Hán mang quân sang đánh
Nam Việt (thời Triệu Ai vương là vua chót của nhà Triệu -112
TCN). Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành : " Sau quân Việt
mở thẳng đường, mang lương thực người Việt đem quân đánh bọn
Thiên Thu, diệt được họ cách Phiên Ngung bốn
mươi dặm,...Năm thứ năm niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 112 trước
Công nguyên.....đưa quân từ đất Dạ Lang xuống đường sông Tường
Kha. Các quân ấy đều gặp nhau ở Phiên Ngung.....Năm
thứ sáu niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 111 trước Công nguyên), mùa
đông..... Phục Ba cùng quân của Lâu thuyền họp lại mới có được
hơn nghìn người, bèn cùng tiến. Quân của Lâu thuyền đi trước
đến Phiên Ngung,
Kiến Đức cùng Gia đều giữ thành.
Tuy nhiên, trong các cổ sử của Trung Quốc, nếu phiên dịch ra
Hán Nôm thì đều gọi là Phiên Ngu. Như đã trích dẫn trong sách
Sử Ký, quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận được thành lập thời
Tần. Sau khi Hán Vũ đế chiếm Nam Việt (111 TCN), đặt Nam Hải
là một quận của Giao châu.
Hán thư của Ban Cố viết: Nam Hải
là một trong 7 quận thời Tiền Hán (30) thuộc
Giao châu, đất của Triệu Đà, Phiên Ngung là thủ đô.
Giao châu gồm các quận: Thương Ngô - Uất lâm - Hợp Phố - Giao Chỉ
- Cửu Chân - Nam Hải - Nhật Nam. Nam Hải là đất của người (Bách)Việt.
Sau đó (cũng năm 111 TCN) đã đặt thêm hai quận là Đam Nhĩ và Chu
Nhai (31) ở
đảo Hải Nam.
Hậu Hán thư của Phạm Việp viết là Phiên
Ngung thuộc
quận Nam Hải (32),
là một trong những quận thuộc Giao châu thời Hán
Theo Tấn
thư, Phiên Ngung (Ngu) là một trong 6
huyện của quận Nam Hải. Quận Nam Hải gồm có Phiên Ngung,
Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, Long Xuyên và Bình
Di (33).
Qua những
trích dẫn trên, chúng ta biết là Phiên Ngung nằm ở thị trấn Quảng
Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay, tại đây đã tìm được mộ phần
của Nam Việt Văn Vương Triệu Hồ (137 TCN -125 TCN).
Phiên Ngung
(Ngu) ngày nay vẫn còn tên và là một chi khu trong đô thị Quảng
Châu. Nếu tra cứu trong bản đồ thì Phiên Ngung ( Panyu) là một
trong 12 đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Châu, phía đông nam,
kế cận với xa lộ vòng quanh đô thị này.
Một trong 5 đạo quân Tần
(mà người viết phỏng đoán là dưới sự lãnh đạo của Nhâm
Ngao) đã vượt Ngũ Lĩnh đến đây chiếm
đóng. Đạo quân không gặp sức kháng cự nào đáng kể của dân Bách
Việt.
Nam Dã
Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập
nhị", "Quận
quốc tứ" viết (34): Nam
Dã là một huyện của quận Dự Chương. Huyện này được đặt
ra từ thời Cao đế nhà Tiền Hán (Hán Cao Tổ Lưu Bang, 206 TCN
- 195 TCN).
Quận Dự Chương có những huyện : Nam Xương, Kiến Thành, Tân can,
Nghi Xuân, Lư Lăng, Cám (hay Cống), Vu Đô, Nam Dã,
Nam Thành, Bá Dương, Lịch Lăng, Dư Hãn, Bành Trạch,
Bành Lãi, Thạch Dương, Lâm Nhữ, Kiến Xương, Sài Tang, Ngải, Hải
Hôn hầu quốc, Bình Đô hầu quốc.
Tấn thư viết Nam Dã là
một huyện của quận Lư Lăng. Quận này do nhà Ngô dựng
lên thời Tam Quốc (35) (220
- 280)
Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong "Thủy
Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 39, trang 655) (36): " Sông
Cống (Cám ) Thũy ra từ phía tây huyện Nam Dã quận
Dự Chương, chảy về phía bắc qua phía đông huyện Cống.
Ban Cố gọi là huyện Nam Dã, nơi sông
Bành Thủy chảy ra, chảy vào phía đông vào sông Hồ Hán.....Lưu Trừng Chi nói:...
Sông Dự Chương dẫn nguồn chảy về phía đông bắc, đi qua phía bắc huyện Nam
Dã".
Sông Dự Chương mà Ban Cố viết là Cám (Cống) giang ngày nay.
Huyện
Nam Dã quận Dự Chương thời Tần ở về phía cực nam tỉnh Giang Tây,
thuộc Tráng (Cám) Châu thị ( Ganzhou shi), thị trấn Tráng (Cám)
Châu, phía đông bắc của Mai quan (thời Tần là Hoành Phổ quan)
thuộc Dại Du lĩnh, tọa lạc trên bờ đông nam của Cám (Cống) giang.
Sông này là thủy lộ chính theo hướng bắc-nam của tỉnh Giang Tây.
Một
đạo quân khác đến đồn trú tại Nam Dã, sau khi đạo quân trước đã
tiến vào Lĩnh Nam và chiếm đóng Phiên Ngung.
Dư Can
Bản đồ số 5 - 1 trong 5 địa điểm đồn trú của
quân Tần: Dư Can
Trước
khi tìm hiểu về vị trí của địa danh này, người viết xin trình
bày một vấn đề về từ ngữ có liên quan đến chữ "can",
vì chữ này đã gây trở ngại rất nhiều cho người viết trong việc
tra cứu.
餘干 phiên
dịch là "Dư Can", bản sao lại
là chữ Hán phồn thể, nên chỉ có thể dịch là "Dư Can".
Nếu chữ 干 là
giản thể thì có thể dịch là "Dư Can" hay "Dư Hãn".
Nếu chữ 干 thêm bộ "thủy" thành chữ 汗 thì
có thể phiên dịch chữ Hán phồn thể là "can" hay "hãn"
Các
bộ cổ sử như Hậu Hán thư, Tấn thư viết là : 餘 汗, có
thể phiên dịch là "Dư Can" hay "Dư Hãn". Dù
cổ sử được viết như thế, nhưng người viết không thể phỏng đoán
một cách vô căn cứ là sách Hoài Nam Tử viết chữ "can" thiếu
bộ "thủy", để có thể đọc là "hãn" cho phù
hợp với cổ sử. Trở ngại này do khả năng Hán học của người viết
quá thô thiển.
Sự tra cứu tưởng như phải ngưng ở đây vì chữ "can",
vì người viết nghi ngờ chữ "can" có thể phiên dịch là "can,
hãn", vì nghĩ là đã bị ghi sai khi chuyển lên ấn bản điện
tử. May mắn thay! Sự việc đã không như thế, sách "Thủy Kinh
Chú sớ" của hai học giả Dương Thủ Kính và Hùng Hội Trinh (37) đã giải thích về chữ “can” và “hãn” khá rõ ràng như sau:
Bản dịch : Nguyễn Bá Mão dịch từ "Thủy Kinh Chú Sớ",
(quyển 33 đến quyển 40).
Trang 684: "Sông Cống
Thủy lại chảy về phía bắc, đi qua huyện Nghiêu Dương (38),
Thủ Kính chú: thời Hán, huyện thuộc quận Dự Chương, thời Hậu
Hán y theo, thời Ngô thuộc quận Bà Dương, thời Tấn y theo, thời
Tống bớt. Huyện ở phía tây bắc huyện Bà Dương ngày nay 120 dặm(39), là
huyện Dự Chương thời Vương Mãng. Có sông Dư Thủy chảy vào.
Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn, thời Vương Mãng gọi
là Trị Can. Sông Dư Thủy chảy về phía bắc đến huyện Nghiêu Dương
chảy vào sông Cống Thủy. Thủ Kính chú: "Hán chí", "Tấn
chí" viết chữ "hãn" là "mồ hôi", "Tống
chí" và "Tề chí" viết chữ "can" là "liên
can". Thời Hán, huyện Dư Hãn thuộc quận Dự Chương, thời
Hậu Hán y theo, thời Ngô thuộc là quận Bà Dương, các thời Tấn,
Tống, Tề, Lương y theo. Huyện ở phía đông bắc huyện Dư Can
ngày nay".
Vậy nếu theo như giải thích của học giả Dương Thủ Kính thì
chữ "Dư
Hãn" trong "Hán Chí" (Hậu Hán thư, Chí) và "Tấn
chí" (Tấn thư, Chí) cũng là chữ "Dư Can" như trong
sách Hoài Nam Tử, nhưng đã bị thay đổi theo thời gian. Vậy cũng
có thể hiểu "Dư Can" thời Tần cũng là "Dư
Hãn" thời Hán; như đã viết trong sách Hoài Nam
Tử.
Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận
quốc tứ" viết Dư Hãn là một huyện của quân Dự Chương (xin
đọc trong trích dẫn nói về huyện Nam Dã).
Tấn Thư viết Dư Hãn là một huyện
của quận Bá (Bà) Dương (Poyang) thời Ngô (40)
Qua những trích dẫn trên, ta có thể biết được là “Dư Can” trong
sách Hoài Nam Tử tọa lại tại huyện Dư Can tỉnh Giang Tây ngày
nay. Huyện lỵ là thị xã Dư Can ở sát phía bắc của sông Tín (Xin
jiang ).
Dư Can thủy
Địa danh Dư Can đã được biết qua dẫn chứng trên, tuy nhiên vị trí
sông Dư Can vẫn chưa biết rõ. Qua câu phiên dịch sách “Thủy Kinh
Chú sớ” : “Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn” (Thuỷ
đông xuất Dư Hãn huyện). Ta có thể biết rằng sông Dư Thủy
nói ở đây là sông Dư Hãn, cũng là Tín giang (Xin jiang ) ngày
nay. Sông này bắt nguồn từ rặng Vũ Di sơn (Wuyi shan) chảy về phía
tây, hợp với một nhánh của sông Cám đổ vào hệ thống sông ngòi phức
tạp quanh vùng hồ Bá Dương.
Một đạo quân Tần đã dùng thủy đạo đến đóng tại thượng lưu Dư Hãn
thủy (Tín giang), gần ranh giới phía đông bắc tỉnh Giang Tây và
tây bắc tỉnh Phúc Kiến, để chuẩn bị vượt Vũ Di Sơn tiến vào Mân
Việt. Người viết phỏng đoán quân Tần đã đóng gần thị xã Ưng Đàm
( Yingtan) ngày nay, vì tại đây có đường xe lửa cũng như xa lộ
băng qua Vũ Di Sơn tới Nam Bình (Nanping) và Phúc Châu ( Fuzhou)
tỉnh Phúc Kiến (Mân Việt thời Tần) là hai thị trấn lớn. Điều này
ám chỉ là ngày xưa có thể có đường bộ băng qua vùng núi này. Hơn
nữa khi vừa băng qua Vũ Di sơn là có sông Phú Đồn ( nối với sông
Mân. Đây là thủy lộ thuận tiện nối Nam Bình với Phú Châu).
Vậy là chúng ta đã biết được 5 địa điểm đóng quân của 500 ngàn
quân Tần trong chiến dịch xâm lăng Bách Việt. Những địa điểm này
được ghi lại trong bản đồ đính kèm dưới đây:
Bản đồ số 6 - 5 địa điểm đồn trú của quân Tần (tổng quát)
Bản đồ số 7 - 5 địa điểm đồn trú của quân Tần
(1) Phiên âm Hán
Nôm: “Tam thập tam niên , phát chư thường bô vong nhân, chuế
tế, cổ (giả) nhân lược thủ Lục Lương địa , vi Quế Lâm,Tượng
quận, Nam Hải , dĩ thích khiển thú”.
(2)" 209
+(13-1) = 221 TCN" : năm thứ 1là 209 TCN, đếm thêm 12
(thứ 13) là 221 TCN
(4) Nguyên bản:
(5) Đương nhiên
là người viết có thể có những thiếu sót và sai lầm trong đoạn
phiên dịch này, xin các bậc tinh thông Hán học chỉ bảo.
(6) Người viết
dùng tên Sử Lộc như trong sách "Việt Sử Toàn Thư ",
của sử gia Phạm Văn Sơn, trang 56
(7) Lưu An được
phong Hoài Nam Vương (164BC) . Ông không nhập bọn theo "loạn
7 nước năm 154 TCN" thời Hán Cảnh Đế, nên được triệu về
Trường An để tham chính . Nguồn: Hán Thư của Ban Cố quyển 44, " Hoài
Nam Hành Sơn Tế Bắc vương liệt truyện"
(9) Trương Cửu
Linh (Zhang Jiuling 678-740,
thời Đường Huyền Tông 712-756). Ông này quê ở Thiều Quan (Shaoguan),
phiá tây nam Mai quan, nên hăng hái mở đường thông thương giũa
Hoa Hạ và Lĩnh nam
(10)Sử Ký: Tam gia chú
Dương Sơn, Linh Tác ẩn diêu thị án :Địa Lý chí
vân Yết Dương hữu Dương Sơn huyện . Kim thử huyện thượng
lưu bách dư lý hữu Kỵ Điền lĩnh , đương
thị Dương Sơn quan .
(11) Robert
B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment
and Economy in Late Imperial South China", Cambridge
University Press, 1998
(12) Hidden Trade
Routes of The South : http://www.uglychinese.org/vietnamese.htm
(13)Lúc này vua nước Việt là Việt Vương Vô Cương 337 TCN-333
TCN
(14) Độc giả
có thể xem những di chỉ này tại: http://news.gov.hk/en/citylife/041109/html/041109en20004.htm#
(15) Ngày nay,
Quảng Tây là Tráng tộc tự trị khu (Guangxi Zhuang Autonomous
Region). Tổng số dân tộc Tráng khoảng 18 triệu người.
(16) Lê tộc ngày
nay có khoảng 1.3 triệu người, hầu hết định cư tại đảo Hải
nam
(17) Robert B.
Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment
and Economy in Late Imperial South China", Cambridge
University Press, 1998, trang 54.
(18) H’Mong (
Miao), tên cũ để gọi dân tộc thời xưa là Miêu tộc, tiếng
Việt gọi là người Mèo. Đây là một sắc tộc rất lớn, dân số lên
tới 7.5 triệu người. Dân tộc H’Mông định cư tại các tỉnh của
Trung Quốc như Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Hồ Nam, Tứ Xuyên,
Hải Nam. Tại Việt Nam có khoảng có khoảng 800 ngàn người. Tại
Hoa Kỳ có khoảng 275 ngàn người.
(19) Dư tộc (She)
khoảng trên 600 ngàn người, định cư tại các tỉnh Phúc Kiến,
Chiết Giang, Giang Tây và Quảng Đông
(20) Di tộc
( Yi ) tiếng Việt gọi sắc tộc này là Lô Lô. Đây là sắc tộc
lớn khoảng 6.5 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên,
Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc. Việt Nam có khoảng
hơn 3 ngàn người Lô Lô tại các tỉnh Hà Giang, Lào Cai và
Cao Bằng.
(21) Người Dao
(Yao) khoảng tr ên 2 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên,
Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc.
Vi ệt Nam có khoảng nửa triệu người Dao.
(22) Quận Nam
Hải: 19613 nhà, 94253 người. Quận Uất Lâm: 12415 nhà, 71162
người. Quận Thương Ngô: 24379 nhà, 146160 người. Quận Hợp Phố:
15398 nhà, 78980 người. Quận Giao Chỉ: 92440 nhà, 746237 người.
Quận Cửu Chân: 35743 nhà, 166113 người. Quận Nhật Nam: 15460
nhà, 69458 người .
(23) Theo tác
giả Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt-
Environment and Economy in Late Imperial South China",
Cambridge University Press, 1998, trang 55, Lĩnh Nam gồm Quảng
Đông và Quảng Tây (năm 206 TCN đến 200 TCN) có khoảng 72,000
nhà và từ 350,000 tới 400,000 người
(24) Hậu Hán
thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", phiên dịch
Hán Nôm: "Vũ Lăng quận Tần Chiêu Vương trí, danh Kiềm
Trung quận, Cao Đế ngũ niên cánh danh. Lạc Dương nam nhị thiên
nhất bách lý. Thập nhị thành, hộ tứ vạn lục
thiên lục bách thất thập nhị (46672), khẩu nhị thập ngũ vạn
cửu bách nhất thập tam (250913)...... Lâm Nguyên Hán thọ cố
tác, Dương gia tam niên cánh danh, thứ sử trị. Sàn
(sán) Lăng, Linh Dương, Sung, Nguyên Lăng tiên hữu Hồ Đầu sơn. Thần
Dương, Dậu Dương, Thiên Lăng, Đàm Thành,
Nguyên Nam, Kiến Vũ nhị thập lục niên (36AD) trí.
(25) Thuỷ Kinh
Chú quyển tam thập thất : "Ngân Thuỷ xuất Vũ Lăng Đàm
Thành huyện bắc giới Nguyên thuỷ cốc".
(26) Phiên dịch
Hán Nôm: "Sở địa, dực - chẩn chi phân dã. Kim chi
Nam quận - Giang Hạ - Linh Lăng - Quế Dương - Vũ
Lăng - Trường Sa cập Hán trung - Nhữ Nam quận,
tận Sở phân dã".
(27) Nguyên giang
chảy qua Hồ Nam khác với Nguyên giang tại Vân Nam. Nguyên giang
ở Vân Nam là thượng nguồn sông Hồng của Việt Nam.
(28)Linh
Lăng quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam tam thiên tam bách lý.
Thập tam thành, hộ nhị thập nhất vạn nhị thiên nhị bách bát
thập tứ (21,284), khẩu bách vạn nhất thiên ngũ bách thất
thập bát (1,001,578). Tuyền Lăng, Linh Lăng, Dương Sóc sơn
Tương thuỷ xuất. Doanh đạo nam hữu Cửu Nghi sơn.
Doanh Phổ linh đạo, Thao Dương, Đô Lương hữu Lộ sơn., Phù
Di hầu quốc ( cố thuộc Trường Sa ) . Thuỷ An hầu quốc. Trọng
An hầu quốc, cố Chung Vũ, Vĩnh Kiến tam niên (422AD) cánh
danh. Tương hương, Chiêu (Thiệu) Dương hầu quốc . Chưng Dương
hầu quốc, cố thuộc Trường Sa.
(29) Nguyên bản:
Phiên âm Hán Nôm: “…Hựu đông bắc quá Tuyền Lăng huyện tây
. Doanh Thuỷ xuất Doanh Dương linh đạo huyện nam lưu xuất .
Tây lưu kính Cửu Nghi sơn hạ , bàn cơ Thương
Ngô chi dã , phong tú số quận chi dản (gian, nhàn) . La nham
cửu cử , các đạo nhất khê , tụ hác phụ trở , dị lĩnh đồng thế
, du giả nghi yên , cố viết Cửu Nghi sơn”.
(30) Phiên âm
Hán Nôm : Hán thư, Địa lý chí, quyển 28:
" Nam Hải quận , Tần trí Tần bại , Uý
Đà vương thử địa . Vũ đế Nguyên Đỉnh lục niên (111BC)
khai . Thuộc Giao Châu . Hộ vạn cửu thiên lục bách nhất thập
tam (19613) , khẩu cửu vạn tứ thiên nhị bách ngũ thập tam (94253)
. Hữu Bổ (Phố) Tu quan. Huyện lục : Phiên
Ngu, Uý Đà đô. Hữu Diêm quan. Bác La, Trung
Túc, hữu Khuông Phổ quan. Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương
Việt địa, khiên ngưu - vụ nhữ (nữ) chi phân dã. Kim chi
Thương Ngô - Uất lâm - Hợp Phố - Giao Chỉ - Cửu Chân - Nam
Hải - Nhật Nam, giai Việt phân dã".
(31) Phiên âm
Hán Nôm :Hán thư, Địa lý chí, quyển 28: "Vũ Đế nguyên
phong nguyên niên (111BC) lược dĩ vi Đạm nhĩ - Châu Nhai quận".
(32) Phiên âm
Hán Nôm: Hậu Hán thư , Chí đệ nhị thập nhị, quận quốc tứ : "Nam Hải
quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam thất thiên nhất bách lý. Thất
thành, hộ thất vạn nhất thiên tứ bách thất thập thất (71,477),
khẩu nhị thập ngũ vạn nhị bách bát thập nhị (250,282). Phiên
Ngung (Ngu), Bác La, Trung Túc, Long Xuyên, Tứ Hội,
Yết Dương, Tăng Thành hữu Lao Linh sơn".
(33) Phiên âm
Hán Nôm :Tấn thư, quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: " Giao
Châu: .... Nam Hải quận Tần trí. Thống huyện
lục, hộ cửu thiên ngũ bách. Phiên Ngung (Ngu),
Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, Long Xuyên, Bình Di".
(34) Phiên
âm Hán Nôm :
"Dự Chương quận Cao Đế trí.
Lạc Dương nam nhị thiên thất bách lý. Nhị thập nhất thành,
hộ tứ thập vạn lục thiên tứ bách cửu thập lục (406,496), khẩu
bách lục thập lục vạn bát thiên cửu bách lục (1,668,906).
Nam Xương, Kiến Thành, Tân Cam, Nghi Xuân, Lư Lăng, Cám
(Cống) hữu Dự Chương thuỷ. Vu Đô, Nam Dã hữu đài Linh (Lãnh)
sơn., Nam Thành, Bá Dương hữu Bá thuỷ. Hoàng kim thái (thải).
Lịch Lăng hữu Phó Dương sơn. Dư Hãn, Bá Dương, Bành Trạch,
Bành Lãi trạch tại tây. Sài Tang, Ngải Hải Hôn hầu quốc. Bình
Đô hầu quốc, cố An Bình., Thạch Dương, Lâm Nhữ, Vĩnh Nguyên
bát niên (97) trí., Kiến Xương, Vĩnh Nguyên thập lục niên (105)
phân Hải Hôn trí".
(35) Phiên âm
Hán Nôm: Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ : "Lư
Lăng quận Ngô trí. Thống huyện thập, hộ nhất
vạn nhị thiên nhị bách (12200). Tây Xương, Cao Xương, Thạch
Dương, Ba Khâu, Nam Dã, Đông
Xương, Toại Hưng, Cát Dương, Hưng Bình, Dương Phong".
(36) Phiên âm
Hán Nôm :
Thuỷ Kinh chú quyển tam thập cửu (39) : "Cám (Cống
) thuỷ xuất Dự Chương Nam Dã huyện tây , bắc quá Cám (Cống)
huyện đông . ...
Ban Cố xưng Nam Dã huyện , Bành thuỷ
sở phát , đông nhập Hồ Hán thuỷ .
Lưu Trừng Chi viết :.... Dự
Chương thuỷ đạo nguyên đông bắc lưu , kính Nam Dã huyện bắc" .
(37) Nguyễn Bá
Mão, người biên dịch sách “Thủy Kinh Chú sớ: “ Đến thời
cận đại, vào đầu thế kỷ 20, hai nhà học gỉa gồm thầy là Dương
Thủ Kính (1839-1915) và trò là Hùng Hội Trinh (?-1936), trên
cơ sở sách "Thủy kinh chú" của Lịch Đạo Nguyên,
đã bỏ ra toàn lực trong mấy chục năm trời, thu thập rộng rãi
trong các thư tịch, gom góp lại lời của nhiều học giả, để sớ,
nghĩa là chú thích kỹ hơn sách "Thủy kinh chú" hợp
lại sạn thành bộ sách "thủy kinh chú sớ" cũng gồm
40 quyển, với hơn 1, 510, 000 chữ, nhiều gấp 5 lần sách "Thủy
kinh chú", và gấp 100 lần sách gốc "Thủy kinh".
(38) Những chữ
in đậm là phiên dịch từ "Thủy Kinh chú" của Lịch
Đạo Nguyên.
Phiên dịch Hán Nôm: " Cám (Cống) thuỷ hựu bắc kính
Nghiêu Dương huyện , Vương Mãng chi Dự Chương huyện dã . Dư
Thuỷ chú chi . Thuỷ đông xuất Dư Hãn huyện , Vương Mãng danh
chi viết Trị Can dã. Dư Thuỷ bắc chí Nghiêu Dương huyện chú
Cám (Cống) thuỷ".
(39) Đây là dặm
của Trung Quốc, một dặm = 0.56 Km, không phải dặm Anh (1.6
km)
(40) Phiên âm
Hán Nôm :
“Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: Bá Dương quận Ngô
trí. Thống huyện bát, hộ lục thiên nhất bách (6100).
Quảng Tấn, Bá Dương, Lạc (Nhạc) An, Dư Hãn Nghiêu Dương,
Lịch Lăng, Cát Dương, Tấn Hưng”.
|