SỐ 26 - THÁNG 4 NĂM 2005

 

Thư Tòa Soạn

Thơ
Tháng tư tôi
NNguong
Dòng sông 30 năm
Nguyễn Xuân Vời
Mũi tên tình yêu
Hoàng Du Thụy
Hai con sóng
Tóc Tím
Em đã về với biển
Huỳnh Kim Khanh
Quẩn
Trần Việt Bắc
Đêm trừ tịch
Hoàng Mai Phi
Hẹn ngày mai
Tôn Thất Phú Sĩ
Tưởng nhớ nhà thơ say: Lý Bạch
Maihoado
Tháng tư, nhớ Nhatrang
Vũ Hoàng Thư

Truyện ngắn, Tâm bút
Câu chuyện ở đầu sông
Phan Thái Yên
Lẽ ra mùa mận
Nguyên Nhi
Đêm xuân trong trại tù Cao Lãnh
Phạm Hồng Ân
Khúc đoạn trường
Song Thao
Những cuộc tình 30 năm sầu xứ
Hải Yên
Gã hàng xóm tốt bụng
Tầm Xuân
Giữa dòng sóng đỏ
Cỏ Biển
Lá thư không gửi (9)
Trương Thanh Diễm Thùy
Tiếng hát bình yên trong thinh không
Phạm Hồng Ân
Tháng tư thứ 30
Vũ Hoàng Thư

Dịch thuật, biên khảo
Sống thiện chết lành
Ngô Văn Xuân
Nhà Trần khởi nghiệp (1)
Trần Việt Bắc
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 13
Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài
Thằng Nèm
Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 20
Huỳnh Kim Khanh


 

Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam (kỳ 13)

 

Hoàng Thiếu Khanh

Tam qui gồm có Phật, Pháp và Tăng tức qui y phật, qui y pháp và qui y tăng.
Ngũ giới gồm có dâm, tửu, vọng, đạo và sát tức không được tà dâm, không được uống rượu, không được vọng tưởng, không được trộm cắp và chẳng được giết mọi sinh vật.
Rồi Hoạn Thư cho hai đứa hầu là Xuân Hoa và Thu Nguyệt theo gót Kiều lo việc cúng kiếng, tụng niệm kệ kinh:

Sớm khuya tính đủ dầu đèn
Xuân, Thu cắt sẵn hai tên hương trà
Nàng từ lánh gót vườn hoa
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng

Trong Tây Du Ký có tả "Tử trúc lâm" tức rừng trúc màu tím là nơi trú ngụ của Quán Thế Âm Bồ Tát, chỉ cõi phật. Bụi hồng ám chỉ cõi trần gian nơi người đời trú ngụ.
Kiều ngày đọc kinh sánh đêm tụng niệm cố xa dần cõi tục, thấm thoát đã được ba tháng. Tuy bên ngoài nàng cười nói nhưng bên trong nàng cố ngăn dòng lệ thầm tuôn chày thâu đêm.

Phật tiền thảm lấp sầu vùi
Ngày pho thủ tự, đêm nhồi tâm hương
Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng tước tắt mọi đường trần duyên
Nâu sồng từ trở màu thuyền
Sân thu trăng đả vài phen đứng đầu

Theo kinh Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát dùng cành dương liễu nhúng vào nước cam lộ trong bình để rải khắp nhân gian cho tan niềm đau khổ. Màu thuyền hay màu thiền là màu của những người tu theo đạo Phật.
Thúc Sinh buồn bã, khổ đau nhưng nào dám hé môi. Đợi buổi Hoạn Thư có việc về thăm mẹ, chàng lẻn đến thăm Kiều, kể lể sự tình. Tự trách đã để Kiều bị vạ lây mà không làm gì được để cứu nàng khỏi tay sư tử Hà Đông.

Những là ngậm thở nuốt than
Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà
Thừa cơ sinh mới lẻn ra
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng
Sụt sùi dở nỗi đoạn trường
Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh

Trong Tì Bà Hành có câu "Giang Châu Tư Mã thanh sam thầp" có nghĩa là
"Quan Tư Mã châu Giang khóc ướt vạt áo xanh"
Chàng giãi bày tâm sự:

Đã cam chịu bạc với tình
Chúa xuân để tội một mình cho hoa
Thắp cơ thua trí đàn bà
Trông vào đau ruột nói ra ngại lời
Vì ta cho lụy đến người
Cát lầm ngọc trắng, thiệt thòi xuân xanh

Thúc Sinh xin Kiều hiểu cho tình cảnh chàng chưa có con trai nối dõi tong đường nên không thể chết vì tình:

Quản chi lên thác xuống ghềnh
Cũng toan xin thác với tình cho xong
Tông đường, chút chửa cam lòng
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai
Thẹn mình đá nát vàng phai
Trăm năm dễ chuộc một lời được sao

Kinh Thi có câu

Như khả thục hề
Nhân bách kỳ than
(Nếu mà chuộc được
VÍ mất trăm thân)

Kiều xem đời mình đã tả tơi như chiếc thuyền con giữa dòng thác lũ, phó mặc cho con tạo đẩy đưa:

Nàng rằng chiếc bách sóng đào
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may
Chút thân quằn quay vũng lầy
Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao

Thúc Sinh khuyên Kiều nên tìm cơ trốn thoát

Sinh rằng liên tưởng bấy lâu
Lòng người nham hiểm biết đầu mà lường
Nửa khi giông tố phũ phàng
Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đây
Liệu mà xa chạy cao bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi

Rồi chàng nhắn lời cuối cùng nguyện chẳng bao giờ quên người tình bạc mệnh

Dẫu rằng sông cạn đá mòn
Con tầm đến thác vẫn còn vương tơ

Cổ Thi có câu thơ của Lý Thương Ẩn đời Đường:

Xuân tàm đáo tử ti phương tận
(Tầm non đến chết tơ mới dứt )

Hai người đang tâm sự nỉ non trăm mối chưa kịp giải hết mọi lời thì có tiếng nô tì xôn xao báo hiệu "bà" sắp tới:

Mặt trông tay chẳng nỡ rời
Hoa tì đã động dến người nẻo xa
Nhận ngừng nuốt tủi đứng ra
Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào
Cười cười nói nói ngọt ngào
Hỏi chàng mới ở chốn nào lại chơi?

Nhận là đè nén xuống. Ngừng là nỗi thương xót.
Trúc Sinh mượn lời chối quanh:

Dối quanh sinh mới liệu lời
Tìm hoa quá bước xem người viết kinh

Hoạn Thư cũng thừa biết ý đồ của chồng nhưng cũng giả vờ khen Kiều khéo tay, viết chữ đẹp:

Khen rằng bút pháp đã tinh
So vào với thiếp Lan Đình nào thua

Lan Đình là thiếp của Dương Hi Chi có tiếng viết chữ đẹp.
Sau đó vợ chồng Hoạn Thư uống mỗi người tách trà rồi cùng nhau trở lại viện sách, lầu trang:

Thuyền trà cạn nước hồng mai
Thong dong nối gót thư trai cùng về

Kiều hỏi nhỏ đám hoa nô thì chúng cho biết Hoạn Thư đến đã lâu, núp nghe thấy hết mọi sự:

Nàng càng e lệ ủ ê
Rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau
Hoa rằng bà đến đã lâu
Rón chừng đứng núp độ đâu nửa giờ
Rành rành kẽ tóc chân tơ
Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường

Kiều kinh hãi cho tình cảnh của mình đang nằm trong tay một người đàn bà hiểm độc, bắt quả tang rành rành mà vẫn nói năng dịu dàng, cười đùa vui vẻ;

Người đâu sâu sắc nước trời
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay
Thực tang bắt được dường này
Máu ghen ai cũng châu mày nghiến răng
Thế mà chẳng nói chẳng rằng
Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng

( Còn tiếp)