Chúng ta là ai ?
Lần đầu tiên tới Hoa kỳ tôi do dự khi nói về sự tái sinh bởi vì
tôi nghĩ mọi người không thích thú gì về điều ấy hoặc có thể chưa
thể hiểu đựơc điều ấy. Tôi e ngại họ nghĩ rằng đó là các câu chuyện
thần tiên hoặc là một loại tẩy não tôn giáo. Nhưng khi tôi nói điều
này, tôi ngạc nhiên thấy nhiều người gật đầu tán đồng, như thể họ
chấp nhận và thích thú với điều ấy. Tại sao họ chấp nhận nó một
cách dễ dàng như thế trong khi một người như tôi, một lạtma tái
sinh đã từng bỏ cả một đời cố gắng tìm hiểu điều ấy, mà có lúc rất
khó khăn để chấp nhận nó? Tại sao một số người Hoa kỳ ngồi xuống
để lắng nghe một người lạ từ Tây tạng thuyết giảng về sự tái sinh
lại tìm thấy điều ấy đơn giản và dễ dàng chấp nhận?
Đó là một câu hỏi lớn đối với tôi. Tôi suy ngẫm về điều này và
trao đổi với một số người. Tôi được biết họ thích thú điều này bởi
vì đó là một cái gì “bí hiểm“. Có thể họ nghĩ rằng qua sự tái sinh
họ có thể trở lại nhân thế trong cùng con người cũ với đầy đủ sự
hiểu biết cuả kiếp trứơc. Tôi ngờ rằng đó là lý do nhiều người chấp
nhận nó mà chẳng hề biết nó là cái gì. Một hệ lụy cuả ý tưởng ấy
là sự tiếp tục tồn tại cuả kiếp người làm cho người ta dễ dàng chấp
nhận nó, ít nhất là trên ngôn từ, nếu chưa có sự thông hiểu.
Vậy mấu chốt là gì? Như tôi am hiểu, có một bất ngờ lớn. Bất ngờ
là sự tồn tục cuả một cá nhân rất tinh tế. Ký ức thì không. Đời
sống con người không tồn tục như thế. Sự tái sinh cuả chúng ta có
thể là một cơn lốc xoáy cuồng điên không thể kiểm soát đựơc mà trong
đó chúng ta bị thổi tung lên giống như những chiếc lá vàng mùa thu
không biết sẽ rơi vào nơi đâu.
Một trong những đại đệ tử cuả Đức Phật là ngài Mahakatyayana, khi
đi ngang qua một khu rừng với một đám đệ tử. Khi ho tới một cái
hồ, một người đàn ông, một ngừơi đàn bà, và đứa con nhỏ cuả họ đang
ăn một con cá vừa bắt đựơc. Trong lúc con chó cuả họ cũng đang sủa
đòi ăn.
Khi thấy cảnh này, Mahakatyayana dừng lại và bật cười. Mọi người
muốn biết lý do. Ngài giải thích: “ Kiếp trứơc, đứa trẻ nhỏ mà bà
mẹ đang ẵm cho bú là người đàn ông bị chồng cuả bà ta giết hại vì
đã tấn công bà ta. Con cá họ đang ăn chính là ông cuả đứa bé và
con chó đòi ăn chính là bà cuả vợ ông ta “.
Sự tương tục
Chúng thắc mắc chúng ta là ai, từ đâu đến, sẽ đi vè đâu, và đến
đó bằng cách nào. Đây không phải là những câu hỏi mới. Hai ngàn
năm trăm năm trước đây, Phật đã đựơc hỏi chúng ta ở đâu và khi nào
bắt đầu cuộc sống và có hay không sự chấm dứt tái sinh. Câu trả
lời cuả Phật là sự im lặng, bởi vì sự khởi đầu là không thể xác
định đựơc.
Không có một thần thức mới đựơc sinh ra, và cũng không từng có thần
thức nào bị đoạn diệt. Mọi thần thức đều nổi lên trên mặt theo cách
nào đấy. Đó là lý do chúng ta tiếp tục đi từ kiếp này sang kiếp
khác. Tất cả chúng ta vẫn là cùng một con người, trong vô lượng
thời gian. Đó chính là điều cơ bản giáo lý cuả Phật cho rằng mọi
giống hữu tình từng là mẹ cuả ta. Đây có thể là một câu nói mâu
thuẫn, và tôi chẳng thể chứng minh đựơc một cách khoa học. Thực
ra, rất khó để minh chứng sự tái sinh. Nhưng đó là tiền đề cuả sự
tái sinh : không có thức mới sinh ra; mọi người trôi lăn trong vòng
luân hồi miên viễn từ sinh tới tử, rồi từ sinh tới tử.
Mọi thần thức hiện có sẽ luôn tồn tại. Và mọi thần thức có tiềm
năng trở thành trí huệ, có đầy đủ tự do để từ những cảm tính tiêu
cực cùng dấu ấn cuả nó-- để trở nên có phẩm chất vô cấu nhiễm và
trí huệ.
Thần thức thay đổi hình dạng liên tục. Vì thế để xác định ai là
ai là điều rất khó bởi vì sự thay đổi từ kiếp này sang kiếp khác
rất đột biến.
Nhận thức mọi người là sự tái sinh là nhận thức cuả Phật. Trong
nền văn hóa Tây tạng cuả chúng tôi, thời tiền Cộng Sản, chúng tôi
có phát triển một hệ thống để nhận dạng những sự sống như thế, một
Lạt Ma hiện thân là người tiếp tục trở lại cho một mục tiêu đặc
thù nào đó. Họ đựơc gọi là Tulkus--”Tul” có nghiã là thể hiện và
“ku” là hình thức, hình dáng. Tulkus là những người đã giải thoát
khỏi những xúc động tiêu cực (u minh) và có thể giúp đỡ người khác
giải thoát.
Hệ thống Tulkul --hay những người tái sinh được nhận diện-- bắt
đầu là Karmapa, khoảng năm thế kỷ sau khi Phật giáo vào Tây tạng.
Đến lần tái sinh thứ 16, người đã nhập diệt năm khoảng đầu thập
niên 1980, mỗi lần tái sinh như thế Karmapa để lại 1 bức thư cho
biết người tái sinh kế tiếp là ai. Không lâu sau đó là Đạt Lai Lạt
Ma Panchen Lama, và hàng ngàn những vị khác đựoc xác nhận. Và trong
một vài trường hợp sự tái sinh gấp bội cuả cùng một Tulku cũng đựơc
xác nhận. Ở mức độ giác ngộ, khả năng thể hiện là không giới hạn.
Đối với các vị Lạt Ma phát triển cao, đời sống cuả dĩ vãng và tương
lai cũng bình thường như hôm qua và ngày mai vậy. Đôi khi họ nói
chuyện với nhau về đời sống sắp tới như thể họ đã sắp đặt sẵn cả
rồi. Tôi đã đựơc nghe kể về một Lạt Ma nổi tiếng bị bịnh liệt rung
(Parkinson). Một ngày nọ, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 thấy một người
co giật rất mạnh, ngài bảo người đó, “Tôi sẽ không nói cho ông nghe
những chuyện thông thường, như được sống lâu, như tiếp tục giúp
đỡ chúng sinh, nhưng tôi nói rằng khi tôi thấy một em bé bảo tôi
rằng “tôi là người có chiếc mũi lớn“ tôi sẽ hân hoan vì đã gặp lại
ông tái sinh“. Vị Lạt Ma trở về nhà trong lòng thảnh thơi với cuộc
đối thoại ấy, và chỉ ít lâu sau, ông ta chết.
Có nhiều cách để nhận ra các Tulkus. Một trong các cách đó là Tulku
tự xác định được hình tích cuả mình, một Tulku có thể khám phá ra
mình ngay từ giai đoạn sơ sinh. Ngay sau khi vị Đạt Lai Lạt Ma đựơc
sinh ra trong thế kỷ 16, ông mở to mắt, quay nhìn về hướng Tashi
Lunpo, tu viện cuả Đạt Lai thứ nhất và bắt đầu cầu nguyện. Ông đọc
thuộc lòng các câu mật chú ngay khi mới biết nói, được 3 tuổi, khi
bị bà mẹ la rầy, ông hát bài hát nói với bà rằng “Con sẽ không
ở lại nơi đây; con có một căn nhà đẹp hơn với nhiều phòng ốc ở Tashi
Lunpo“. Mẹ ông tò mò hỏi “Con từ đâu lại đây ?“ ngài trả lời “Khi
con chết, trong lúc người ta bó xác con bằng dây thừng mang con
tới chỗ thiên táng, con thấy có vị hộ pháp Mahacala mặc áo giáp
đi giầy sắt, mang mặt nạ dữ tợn đưa con tới đây”. Ông kể tên người
đã buộc nhục thể ông. Khi lên 7 ông nhận ra vị hộ giáo già giúp
việc cho ông khi còn ở tu viện và ông cầu chúc sức khoẻ cho vị này.
Vị này bật khóc.
Một hệ thống chung để nhận biết các vị Phật tái sinh, mà ngay
cả Đức Đạt lai lạt ma thứ 14 đã đựơc nhận diện là nhận xét xem vị
tái sinh đó có nhận biết được một số những trang dụng cá nhân trước
đây cuả mình hay không, chẳng hạn như sâu chuỗi, kiếng đeo mắt,
Rồi thời gian đựơc sinh ra cũng là một yếu tố. Vì còn có thể có
những điềm triệu siêu nhiên đặc biệt mà nhiều người chúng kiến khi
xẩy ra sự tái sinh đó nữa, chẳng hạnh như cầu vòng xuất hiện trên
mái nhà cuả đứa trẻ vừa được sinh ra hoặc một bông hoa nở giữa mùa
đông, có trường hợp một con quạ đậu trên ngọn phướn để canh gác
ngày đêm cho đứa trẻ suốt 2 năm. Những giấc mơ tiên tri và linh
thị là những điều thường thấy, đặc biệt nếu có nhiều em bé cùng
được xác nhận bởi một điềm triệu thì sự chọn lựa sau đó đựơc xác
định bởi một Lạt Ma tôn kính có khả năng linh thị. Tôi biết điều
này nói ra nghe có vẻ kỳ quái nhưng ở Tây tạng đó là những điều
bình thường như ở đây quí vị nghe tiên đoán thời tiết hàng ngày
vậy.
Sự tái sinh cuả một vài đại sư trước đây không đựơc công nhận
một cách chính thức mặc dầu một số người biết rõ họ là ai. Đại sư
Tashi Namgyal tái sinh là tôi là một ví dụ. Trước khi điều ấy xẩy
ra, tôi đã lấn cấn nghĩ là mình có thể là Panchen Lạt Ma tái sinh
hoặc một ai khác. Nhiều toán tìm kiếm tới nhà tôi để xem tôi có
phải là đứa trẻ họ muốn tìm kiếm hay không. Để xác định xem tôi
có phải là Panchen Lạt Ma, một phái đòan lớn đi bằng hai ba chục
con ngựa đến gặp tôi. Khi đó tôi mới lên 3, và tôi nhớ lại đám đông
đó nhiều người quá. Tôi mong muốn đựơc xác minh là Panchen Lạt
Ma , vì nếu đựơc như vậy tôi sẽ có một địa vị trọng vọng như cha
tôi, là người không những chỉ là Lạt Ma tái sinh mà còn đựơc sinh
vào gia đình cuả Lạt Ma thứ 13. Sự kiện ông là một Lạt Ma được trọng
vọng đã đưa tôi vào nhiều danh sách điều tra tái sinh khác nhau.
Khi Tashi Namgyal chết, những người trong viện cuả ông và các vị
hộ pháp đã đem phát tán hầu hết cuả cải và vật dụng cuả ông vì
họ không mong đợi ông tái sinh. Họ chỉ còn giữ lại một tấm thảm
và một chiếc hộp nhỏ lúc họ đi kiếm tìm sự tái sinh cuả ông. Họ
mệt mỏi kiếm tìm và hi vọng sự việc sẽ qua đi. Cha tôi cũng không
ít cơ hội nói rằng ông chẳng tin tôi là một Lạt Ma tái sinh, tuy
ông cũng tin rằng bằng phương cách nào đó tôi có thể giác ngộ theo
Phật. Ông nghi ngờ về toàn bộ hệ thống Tulku; ông cho rằng hệ thống
có quá nhiều điểm xung yếu cho các hoạt động chính trị lợi dụng.
Một vị Rimpoche đựơc tôn kính nói rằng sự tái sinh cuả Tashi Namgyal
chắc hẳn là con trai cuả một vị lạt ma tiếng tăm ở tại Lhasa, điều
ấy có vẻ ám chỉ đến tôi. Cha tôi đã tìm mọi cách để ngăn cản quá
trình xác nhận này, tới mức độ ông chỉ đồng ý nếu tôi được nâng
lên một cấp độ cao hơn, ông hi vọng đoàn khảo tra sẽ từ chối yêu
cầu ấy mà cho tôi yên. Nhưng vị được trao phó cho việc xác nhận
tái sinh cuả vị tiền thân cuả tôi lại trở thành quan nhiếp chính
Tây tạng và ông đã nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ cuả mình. Một sự
thực bất ngờ đối với cha tôi là tôi được phong tước và được xác
nhận lúc tôi lên 4.
Tôi được gởi tới nơi tu tập gần nhà với vị thầy đầu tiên, rồi sau
đó vào tu viện Drepung khi lên 5. Trong buổi lễ tiếp nhận tôi ở
tu viện, thầy tôi bảo “ Ta hi vọng con sẽ hoàn tất những bài học
ở tu viện này càng nhanh càng tốt và ở lại Lhasa đễ giảng dạy cho
hàng trăm ngàn người khác. “ Rằng tôi thực sự là hiện thân tái sinh
cuả vị cao tăng có tên là Tashi Namgyal. Nếu không phải vậy, chắc
hẳn họ đã không nói tôi là đứa trẻ ngoan và mong ước một đứa trẻ
như tôi sau này hướng dẫn hàng trăm ngàn người. Yêu cầu này cho
tôi thấy rõ ràng trách nhiệm cuả tôi với tha nhân, cũng như những
mong đợi cuả người khác vào tôi vậy. Nó tạo nên trong tôi một định
hướng chắc chắn, một chương trình cho cuộc đời tôi.
Tôi ở lại Drepong tới năm tôi 19, khi tôi trốn thoát qua Ấn độ,
nơi tôi còn tiếp tục tu hành thêm một ít năm nữa.
Khi tôi 20, có một cuộc nổi loạn tuổi trẻ trong tôi, nghi ngờ rằng
có lẽ tôi đã là trò giải trí trong tuổi trưởng thành qua vụ việc
tái sinh, nỗi hoài nghi ấy nổi lên mạnh mẽ hơn bao giờ. Tôi đã đọc
tự truyện cuả các vị lạtma tái sinh khác nhau. Rất nhiều người trong
truyện hồi tưởng lại tiền kiếp cuả họ. Nhưng khi tôi cố gắng nhớ
lại bất kỳ điều gì có kiên quan đến tiền kiếp cuả mình như bạn bè,
những sự kiện đáng nhớ thì hoàn toàn là số không. Tôi hoang mang,
Tôi là ai đây? Một kẻ khật khùng?
Thời gian sinh sống tại Delhi trong thời gian 60-70, tôi đau khổ
vô vàn. Khi một người bạn cuả gia đình tôi, cô ta lập gia đình với
1 gia đình dòng dõi hoàng gia ở Ladakh, bị chết ở Delhi. Cha cô
nhờ tôi làm phép siêu chuyển thần thức cho cô, một phép tôi đã từ
lâu không làm và tôi cũng chẳng có đủ công cụ để thực hiện phép
này, chẳng hạn như hợp chất phải đặt vào chiếc miện đội vào đầu
người chết. Thêm vào đó là nỗi nghi ngờ cuả tôi không biết phép
này có kết quả hay không.
Tôi đến gia đình người chết lúc 6 giờ chiều. Tôi ngồi một mình
với thi hài người đàn bà đã chết và đọc một bài kinh rất chậm rãi
với tất cả sự chú tâm cuả tôi. Khi tôi niệm chú chuyển thần thức,
tôi tập trung toàn bộ trí lực vào công việc đang làm. Một trong
những vị thầy cuả người chết là Bakula Rimpoche, là một thành viên
trong quốc hội Ấn lúc bấy giờ. Ngay ngày hôm sau, ông ta bảo với
tôi rằng người quá cố đã đến viếng ông vào khoảng 7 giờ chiều, đúng
là khoảng thời gian tôi làm phép chuyển thần thức cho cô hợp nhất
với trí huệ giác ngộ.
Điều ấy càng làm cho tôi bối rối phân vân, nhưng đồng thời nó cũng
đánh động sự hồ nghi cuả tôi. Nó chỉ ra rằng một điều gì đó đã xẩy
ra, dù rằng tôi không thể khẳng định một cách trọn vẹn. Dĩ nhiên,
tôi không phải là người duy nhất ở đó-- cũng có những Lạt Ma khác
hiện diện--nhưng duy nhất có tôi với người chết trong lúc làm phép,
và thời gian xẩy ra sự việc chứng tỏ có một việc làm nào đó có kết
qúa. Tôi nhớ lại buổi thảo luận về sự hồ nghi cuả tôi với các thầy
Ling và Trijang Rimpoche. Các vị đã chăm chú lắng nghe tôi .
Những hiểu biết về sự tái sinh đến với tôi một cách tiệm tiến qua
một qúa trình tu học những lời dậy cuả Phật tổ. Qua Kinh sách. Qua
các cuộc thảo luận, qua các cuộc thực hành thiền định. Đến nay tôi
có thể nói một cách khẳng định rằng tôi tin vào sự tái sinh.
Điều ấy đến từ trong cõi tâm thức thẳm sâu, một loại toàn tri.
Không có lời nói, một sự hiểu biết đến từ bên trong. Đó là lý do
tôi tin vào sự tái sinh-- không những chỉ bởi Phật tổ đã nói như
thế.
Một số bạn bè bảo tôi rằng điều này chỉ xẩy ra với điều kiện ở
Tây tạng, nhưng cũng có thể nói rằng vì phương Tây thiếu lòng tin
vào điều ấy. Ở Tây tạng, chúng ta có thể nghe hoặc biết về những
đứa trẻ tiếp nối câu chuyện dang dở với người lớn tuổi ngay ỡ nơi
họ đã ra đi trong kiếp trước, thực hành các lễ nghi tôn giáo mà
họ không thể biết đựơc, hoặc nhất định cho rằng họ đã sinh sống
tại những căn nhà thuộc các thành phố mà họ chưa từng tới đó bao
giờ, quen biết những người họ chưa hề gặp trong đời. Nếu tôi không
tin vào sự tái sinh, dĩ nhiên những điều này là phi lý.
Nhân và duyên (causes and condition)
Điều tin tưởng của tôi đến từ sự chiêm nghiệm nhân và duyên, nhân
và qủa. Khi nhìn vào thực tại, chúng ta có thể thấy rằng mọi việc
không xẩy ra một cách tình cờ. Luôn có một nguyên nhân, và luôn
có một cơ duyên. Có những nhân và duyên cho sự sinh, cho sự chết,
cho đau ốm, cho mạnh khỏe, cho hạnh phúc, vui thú. Có những nhân
và duyên cho tôi được nuôi day và tái sinh ỡ Tây tạng, cho tôi bị
bắt buộc rời xa quê hương và cuối cùng đến Hoa kỳ. Phật tổ đã nhìn
sâu vào nhân và duyên cuả mọi nguồn cội khó khăn và đã tìm ra lý
do. Nhưng ngài đã phân biệt rạch ròi giữa nhân và duyên. Khi một
người bị chết bất đắc kỳ tử, chẳng hạn như vì sự xụp đổ cuả một
cây cầu, Đức Phật đã hỏi tại sao ngưiời đó lại bị chết, ngài đưa
ra 2 câu trả lời khác nhau. Có một nhân cơ bản và có nhiều duyên
tác hợp. Nhân căn bản là người chết đó đã gây tổn thương cho những
người khác trong khoảng thời gian nào đó, bất kể vô tình hay cố
ý. Câu trả lời thứ hai là trong một điều kiện nào đó đã làm cho
cây cầu bị xập-- chẳng hạn một dòng nước chẩy xiết, một đà cầu bị
gẫy, một chân cầu bị cuốn trôi. Phật gọi những điều kiện này là
duyên.Từ nhãn quan tinh thần, khi bạn thắc mắc tại sao con người
đau khổ, bạn sẽ thấy hai lý do khác nhau, một nhân cơ bản và những
duyên tác động.
Trong đời sống hàng ngày cuả chúng ta, chúng ta luôn gặp những
hoàn cảnh khó khăn không mong đợi, ngay cả khi chúng ta chẳng công
kích gây hấn với ai. Chúng ta bị tai nạn. Hoặc về tinh thần hoặc
vật chất, chúng ta vật lộn với nó và cố gắng tìm ra lý do tại sao
những điều ấy lại xẩy ra. Chúng ta cố tìm ra một câu trả lời bằng
mọi cách. Chúng ta làm công việc khám nghiệm tử thi để tìm ra nguyên
do cuả một cái chết. Hoặc khi 1 chiếc phi cơ ngộ nạn, chúng ta cố
tìm ra điều gì sai sót đã xẩy ra, bằng cách tiêu những món tiền
lớn và một khối lượng thời gian để tìm kiếm chiếc hộp đen. Chúng
ta bị cuốn hút bởi các duyên. Nguyên nhân cơ bản thì chẳng bao giờ
được lưu tâm có thể vì do khoa học chưa chấp nhận nó hoặc cho nó
nói lên một lời giải thích.
Ở Tây tạng, chúng tôi có lẽ thích tìm hiểu sâu vào nguyên nhân
cơ bản-- đắm chìm như thể chúng tôi đang ở trong các viễn cảnh tâm
linh--và không tìm đủ những duyên tác hợp. Nhân dân Tây tạng có
thể đã quá bận tâm về đời sống tương lai cuả họ trong giai đoạn
Trung cộng xâm chiếm. Còn những người cộng sản thì họ chắc chẳng
bao giờ suy nghĩ đến nguyên nhân cơ bản khi họ đến xâm lăng đất
nước chúng tôi.
Là một người Mỹ gốc Tây tạng, tôi đã có cơ hội duy nhất để nhìn
vào cả hai nền văn hóa. Sự bất lợi trong việc tiêu phí quá nhiều
thời gian và tiền bạc trong việc tìm kiếm những cơ duyên kết hợp
mà chẳng lưu ý tới nguyên nhân cơ bản, nguồn gốc cuả vấn đề. Bạn
có thể có câu trả lời tạm bợ cho một tại họa đã xẩy ra, nhưng chừng
nào nguyên nhân cơ bản chưa đựơc phát hiện thì bạn cũng chẳng thể
nào ngăn chặn điều ấy không tái diễn.
Không tìm ra nhân, ngay cả các duyên là đúng, sự việc vẫn chưa
hiện thực. Như đất ẩm và mầu mỡ cũng chẳng thể nở hoa nếu không
có hạt giống, tương tự như có hạt mà không có những điều kiện cây
trồng thích ứng vậy. Vì là những người thực dụng, chúng ta thiết
lập những nguyên tắc và những điều kiện an toàn--Rất nhiều điều
che chở chúng ta khỏi những bất hạnh. Tất cả những điều này đựơc
thực hiện để mong tránh cho chúng ta những khổ đau, và chẳng có
vấn đề chúng ta có nên tiếp tục phòng ngừa những khổ đau trong những
phương tiện chúng ta đang có. Tuy nhiên nên có những cuộc tìm kiếm
sâu xa nguyên nhân cuả sự đau khổ, cuả sự sinh, lão, bịnh, tử trong
đời sống mà chúng ta phải chấp nhận không có chọn lựa.
Những nhà tâm lý điều tra nguyên nhân cuả sự đau khổ nhưng chỉ
đạt được từ những nguyên nhân vật chất-- nhửng cơ duyên tác hợp.
Những cố gắng đi đến phần thâm sâu cuả vấn đề, chúng ta khảo sát
về thời thơ ấu, có đôi khi còn đi ngược tới giai đọan còn nằm trong
bào thai cuả bà mẹ. Điều này có vẻ hữu ích, tái lập sự bình an
tinh thần, một ý nghiã cuả sự an toàn, và lòng tự tin, vì nó có
thể dẫn đến lớp sâu nhất trong nguyên nhân, và đôi khi nó còn tạo
nên những vấn nạn sâu xa hơn.
Nhìn lại cách đây hai ba chục năm, ngay cho cả quãng thời gian
gần hơn mươi mười năm lại đây, thật là khó hồi tưởng lại chính xác
những điều chúng ta đã trải qua. Thật khó mà hình dung lại điều
gì đã xẩy ra mới hôm qua, thậm chí mới giờ trước đây thôi. Cố gắng
hồi tưởng thường đưa tới những ước đoán. Một hồi niệm mơ hồ về sợ
hãi có thể trở nên một đề tài để truy tìm. Do vậy, một người cha
có bộ râu quai nón hoặc một ông chú có thể trở thành một tiêu điểm
để điều tra về nguyên nhân cuả nỗi sợ hãi. Người ta bắt đầu tự hỏi
“Ông ấy đã làm gì mình ? Tại sao tôi sợ? Có phải ông ấy đã từng
đánh đập tôi? Có phải ông ấy từng sách nhiễu tình dục tôi? “Một
vài mảnh vụn hồi ức nổi lên và chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta
đã tìm ra kết qủa. Nhưng chẳng có cách nào xác định đựơc một điều
gì đó có xẩy ra hay không. Một số người bị lạm dụng, hành hạ, một
số người khác không. Điều ấy tạo thêm những nỗi khổ đau cho gia
đình nói chung và đặc biệt giữa “ người có bộ râu quai nón” và người
bị đau khổ.
Như vậy chúng ta không nên điều tra các vấn đề cuả chúng ta hay
sao? Đó không phải là câu trà lời. Nhưng nhất định đó không thể
là cuộc điều tra tốt. Chỉ có một cuộc khảo sát thông suốt toàn bộ
hơn. Đi tới tận cùng sự việc có nghiã là đi xa hơn điều gì đã xẩy
ra từ thời thơ ấu. Nghiã là cần thiết phải tìm ra nguyên nhân cơ
bản.
Chúng ta đưa rất nhiều nỗ lực vào việc hoàn thành mục tiêu cuả
chúng ta, nhưng chúng ta mới chỉ thực hiện được một nửa. Nếu chúng
ta hoàn thành được hơn thế, chúng ta tự coi là đã may mắn lắm rồi.
Trong thực tế, ngay cả khi chúng ta không thể làm được một nửa
điều chúng ta muốn làm chính là dấu hiệu cuả sự thiếu tự do.
Không những chúng ta thiếu tự do để hoàn thành mục tiêu do mình
đặt ra, mà chúng ta thiếu cả tự do trong đau ốm, tuổi già và sự
chết. Đó là chân lý cuả đau khổ, là điều Đức Phật đã nhìn thấy.
Cái gì gây ra sự khổ đau ? Những thói quen cảm tính tiêu cực cuả
chúng ta tạo ra sự khổ đau và ngăn chặn sự tự do cuả chúng ta. Tự
do có thể là cuả chúng ta nhưng chúng ta đã không tạo ra những cơ
duyên cần thiết để có thể đạt đựơc lợi ích cuả nó. Khi Đức Phật
nói rằng ngài đã tìm ra con đường giải thoát khỏi khổ đau, chúng
ta coi như ngài đã khám phá ra con đường đi tới tự do. Loại tự do
nào? Tự do trong việc hình thành đời sống và cách sống cuả chúng
ta.
Những đạo sư truyền thống chỉ ta rằng mỗi người trong chúng ta
đều thực hiện những hành động xấu và tốt trong kiếp này hay kiếp
khác. Những hành động xấu đưa tới thêm những khổ đau và sự mất tự
do, và đó là lý do tại sao chúng ta phải sửa chữa những thói quen
cảm tính tiêu cực là điều quan trọng. Hành động tốt dẫn tới tự do
và đời sống tốt đẹp. Đó là lý do tại sao chúng ta phải cấp thiết
phát huy đạo đức, bởi vì chúng ta là các chuyên gia về sự tinh ranh,
bịp bợm. Họ cũng chỉ cho chúng ta biết rằng sở dĩ chúng ta có cuộc
sống phúc lạc hiện tại cũng là do những việc làm tốt chúng ta đã
làm, và vì chúng ta nhẫn nhục, khoan dung, đạo đức trong kiếp trước.
Đó là lý do tốt nhất cho chúng ta phát triển những đức tính ấy.
Tôi đến đây không phải để thuyết phục các bạn về sự tái sinh. Đó
là nền văn hóa cuả chúng tôi, hệ thống tín ngưỡng cuả chúng tôi--
không phải cuả các bạn. Tôi thực sự đơn giản là yêu cầu các bạn
hãy tìm sự thích thú trong ý tưởng này trong đôi chút thời gian--cho
ý tưởng ấy đôi chút hồ nghi rằng điều ấy có thể có hoặc không có
và tìm xem nó sẽ thay đổi viễn quan cuả bạn về đời sống và cái chết
ra sao. Các bạn có thể chẳng tìm ra một sự khẳng định nào trọn vẹn
về sự tái sinh, nhưng chắc các bạn cũng chẳng thể nào loại trừ nó
đựơc. Chưa có ai từng chứng minh rằng nó chưa hề xẩy ra.
Nếu bạn cho phép một chút ít hồ nghi về sự tái sinh, câu hỏi ta
là ai và ta từ đâu tới sẽ trở thành câu hỏi “Điều gì đã xẩy ra giữa
kiếp trước và kiếp này?” Hoặc trong những tiền kiếp cuả chúng ta,
khoảnh khắc chúng ta suy tư về điều ấy, viễn quan cuả chúng ta đã
thay đổi.
Các vị thầy giác ngộ đã tìm ra nguyên nhân chân thực cuả sự khổ
đau, cuả những rắc rối, những ngăn trở tự do cuả chúng ta. Họ nhấn
mạnh tới những cảm tính tiêu cực-- sự giận dữ, ràng buộc, ghét bỏ,
và ganh tị-- “Đó là nguyên nhân cơ bản trói buộc chúng ta trong
vòng luân hồi sống và chết. Từ những cảm tính tiêu cực đưa tới những
hành động tiêu cực, từ hành động tiêu cực dẫn tới nghiệp xấu, và
từ nghiệp xấu đưa tới luân hồi”.
Khởi đầu cuả tự do trong chu kỳ cuả sự khổ đau là cách thừa nhận
rằng, chúng ta đang có sự giận dữ, ràng buộc, ghét bỏ, và ganh tị.
Chúng ta có trách nhiệm về hành động cuả mình. Đó là điều đúng đắn
phải làm. Vì có nhìn thẳng vào các cảm tích tiêu cực, chúng ta mới
gạt bỏ được chúng. Khi chúng ta nhìn thấy có rắc rối chúng ta có
thể sửa chữa. Nếu không chúng ta sẽ phải trả giá các hành động tiêu
cực cuả mình bằng thân thể và tâm linh cuả mình trong hiện tại hay
trong hậu kiếp
Điều này chẳng có gì mới-- hậu qủa xấu cho những hành động xấu.
Rất nhiều nền văn hóa đã dùng sự sợ hãi đễ kiểm soát con người.
Tôn giáo thường dùng địa ngục để răn đe như là một phương cách kỷ
luật.Trong thế giới Tây tạng cổ xưa, ngay cả trộm cướp cũng do dự
khi giết người bởi vì họ tin rằng sẽ phải trả giá bằng sự đau đớn
với chính da thịt thể xác cuả họ. Nhưng các bạn cũng đừng cho rằng
tôn giáo chỉ dùng đe dọa để khuất phục con người.
Các bạn hãy dùng chút ít thời gian để phân tích xem các cảm tính
tiêu cực có thể làm cho chúng ta khổ đau và duy trì sự khổ đau từ
kiếp này tới kiếp khác như thế nào. Hãy suy ngẫm về khả năng cuả
các bạn. Nếu không suy ngẫm về các điều ấy, sẽ là một sự lãng phí
qúa lớn, bởi vì là một con người chúng ta có một bộ não rất kỳ diệu.
Điều chúng ta có thể làm là vô biên. Chúng ta có cùng khả năng như
tất cả các vĩ nhân khác đã từng sống. Chỉ có sự khác biệt là họ
biết tận dụng những cơ hội. Vậy hãy suy nghiệm về điều ấy và hãy
để cho tâm trí ta thay đổi. Hãy sử dụng tốt nhất những khả năng
cuả mình, đặc biệt là tâm trí. Chúng ta có thể đổi thay cách sống
một lần cho mãi mãi.
Vị thầy đầu tiên cuả tôi bảo rằng đời này giống như nơi ngã tư
đường. Nó có thể đi theo nhiều hướng khác nhau, một trong những
hướng đó đưa ta tới sự giác ngộ kỳ diệu. Tại sao chúng ta không
sử dụng ? Không có thời điểm nào thuận lợi hơn lúc này.
Huyền thọai Phật giáo Ấn độ có nói về một loại hoa có tên là Utamuwara,
là loại hoa chỉ xuất hiện khi có một vị Phật sắp ra đời, và chỉ
nở khi vị Phật này giác ngộ, rồi sau đó kéo dài theo thời gian cuả
các bài giảng cuả Phật. Các Phật tử nói rằng chúng ta vẫn còn trong
khoảng thời gian hoa nở. Khả năng cho mỗi chúng ta đạt tới toàn
năng và giác ngộ vẫn còn. Ngay cả khi chúng ta không thể hoàn thành
trong kiếp này thì chúng ta vẫn còn có thể tiếp tục trong kiếp kế
tiếp.
Ngô văn xuân - chuyển ngữ
|