Tùy bút Hải Yên
Trước hết, tôi có đôi lới phi lộ. Bút hiệu Hải Yên đã được dùng
cách đây cũng gần 30 năm khi tôi muốn viết về những đề tài có tính
cách văn nghệ trên một nguyệt san phát hành ở Montreal. Bút hiệu
khác là Hải Âu được dùng cho những đề tài chính trị và quân sự hoặc
nhũng loạt bài có tính cánh nghiên cứu, cần nhiều research hơn.
Những điều tôi sắp viết ra chỉ là những cảm nghĩ cá nhân hạn hẹp.
Viết để chia xẻ với những người bạn vì định mệnh lịch sử, đã từng
chia xẻ phần nào vận mệnh quốc gia trong hai thập niên 60 và 70.
Đa số chúng ta là những người phải xa lìa xứ sở ba mươi năm về trước,
hoặc phải ở lại để chịu những đắng cay của những người bại trận,
giao số mệnh mình cho chế độ mới, một chế độ xa lạ, ngoại lai mà
mình đã từng bỏ một phần tuổi trẻ để chống lại. Trong chúng ta có
thể có những người ôm lý tưởng khác nhau, nhưng đa số chỉ là những
nạn nhân của cuộc đới, của lịch sử. Chúng ta chỉ là những chiếc
lá trôi theo dòng lịch sử vô tình. Xin mời các bạn hãy cùng tồi
quay về những chuỗi ngày ngây thơ vụng dại ba mươi năm về trước...
Cái thời mình giã từ ghế trường trung học, tập tễnh bước lên ngạch
cửa trường đại học là một trong những chuỗi ngày vàng son của thời
tuổi trẻ. Nhưng đa số chúng ta đâu có được cái diễm phúc đó, cái
diễm phúc được sống yên bình thừa hưởng hạnh phúc thơ ngây. Cuộc
chiến từ âm ỉ đến nổ bùng bắt đầu ảnh hưởng sâu đậm cho mọi tầng
lớp trong dân gian. Khuôn mặt của hành phố SàiGòn và những thành
phố khác của miền Nam Việt Nam đã bắt đầu thay đổi. Những căn cứ
quân sự hoặc những outpost của các cơ quan Mỹ đã bắt đầu xuất hiện
đó dây. Những chiếc xe jeep chở cố vấn Mỹ trên các đường phố thị
thành trở nên thường trực và quen thuộc hơn. Nhũng ưu tư của đời
sinh viên giữa hoàn cảnh bấp bênh của Việt Nam giữa chính trường
quốc tế ảnh hưởng mạnh mẽ sự học của chúng ta thời đó. Vừa học mà
vừa phải lo âu về tuổi động viên. Có những người vì may mắn hoặc
vì có liên hệ mạnh mẽ của gia đình, được sống thoải mái và tiếp
tục con đường học vấn và sự nghiệp. Đa số chúng ta, những con dân
"trung bình" hoặc "bình thường ỏ sẽ phải đối diện
với cuộc chiến trước khi có dịp kết thúc chương trình đại học. Tôi
là một trong những trường hợp "bình thường" đó. Rời trường
Chu Văn An năm 1966, tôi ghi danh đại học SàiGòn, ngành Toán, Lý
Hóa. Thi vào đại học Y Khoa SàiGòn bị rớt vì "thiếu kiến thức
tổng quát". Những cuộc thi nhập học vào trường Y Khoa Sài Gòn
thời đó dựa trên kiến thức tổng quát và sự hiểu bén nhạy về Toán
học. Giảng đường MPC ( Toán, Lý hóa vá Hóa học- Maths, Physics,
Chemistry) rộng và to như một khán đường của một rạp hát lớn. Giảng
sư dùng máy vi âm và một tấm bảng đen đồ sộ với bề ngang kéo dài
gần hết sân khấu. Sinh viền thì ngồi trên ba dãy bàn ghế dài, mỗi
bàn có thể chứa từ mười đến mười hai học sinh. Đó là chưa kể những
tên hay di trễ phải đứng chầu chực hai bên sâu khấu gần khán đài.
Năm đó, tôi không dự thi chung kết, vào thư viện Sài Gòn học hỏi
thêm kiến thức tổng quát, quyết định thi vào cho được ngành Y Khoa.
Năm sau, tôi thi dẫu vào trường Y Khao Sài Gòn. Lúc bầy giò ở Sài
Gòn bắt đầu xảy ra những vụ khủng bố lớn nhỏ. Nhũng cuộc biểu tình
của sinh viên Sài gòn chống chiến tranh trở nên rầm rộ hơn. Một
vài lãnh tụ sinh viên Khoa Học bị bắt cầm tù. Huỳnh Tấn Mẫm là một
trong số đó. Theo sự đồn đại thì một số sinh viên dã bỏ học "vô
bưng". Cuộc chiến trở nên rầm rộ hơn. Đường phố Sài Gòn tuy
nhộn nhịp với những tà áo dài phơi phới của những nữ sình viên học
sinh Gia Long, Trưng Vương, trường Văn Khoa, trường Luật nhưng bên
dưới là một nỗi lo âu, thao thức. Đường phố Sài Gòn lúc nào cũng
nhộn nhịp hềnh bồng với những quân nhân trẻ, dìu người yêu trên
những đường phố vắng hoặc tấp nập Sài Gòn, quên di những giây phút
kinh hoàng đầy cô dơn chỉ có mình với mình dối diện sự chết khi
người yêu đang biền biệt phương trời. Cái thời 60 ở Sài Gòn cũng
đầy dẫy những mưu đồ chính trị. Dân Sài Gòn sống trong sự phập phồng,
lo âu của thời chinh chiến. Những đồn đại hằng ngày trở thành một
trong những ảnh hưởng lớn quyết định tư tưởng và hành dộng chính
trị của đa số chúng ta thời đó. Chỉ một thiểu số trong quần chúng
đọc báo chí quốc tế viết bằng tiếng Anh hoặc tiếng Tây, đa số dân
Sài Gòn chỉ đọc báo Việt Nam. Báo chí Việt Nam thời đó mọc lên như
nấm. Một số theo chính quyền, một số thân công, và một số khác theo
thời thượng, dịch thoát những bài báo của Mỹ mà không bao giờ cho
biết nguồn gốc. Nếu bạn muốn biết ai là ai trong giới báo chí, cứ
đến ngồi quán Givral ở trung tâm thành phố thì sẽ gặp được đa số
phóng viên. Khi chiến tranh trở nên khốc liệt hơn, đa số dân trí
thức Sài Gòn dựa vào những đài phát thanh VOA hoặc BBC để theo dõi
tin tức. Họ nào ngờ rằng mỗi đài này cũng là công cụ truyền thông
cho chính phủ của họ. Trở lại tình cảnh người sinh viên trong thời
chiến, trừ phi bạn là người rất xuất sắc và may mắn hoặc có bề thế
và connection, đạt được bằng cử nhân và khỏi phải đi lính là chuyện
cực kỳ khó khăn. Tôi cũng nằm trong nhiều sinh viên thời đó, giằng
co giữa bằng đại học và giấy động viên. Tuy đậu vào chương trình
Y Khoa năm 1967, những biến cố và hoàn cảnh sau đó từ cái chết bí
mật của một sinh viên y khoa bị ném từ nóc trường đến vụ bom nổ
làm tử thương Thứ trưởng Y Khoa thời đó đã đưa tôi vào quân ngũ.
Ngày trình diên K3/69TD đến trước ngày kết quả thi tuyển vào K20NT.
Gần hai tuần sau khi trình diện Quang Trung tôi mới khám phá ra
rằng mình đã được nhân vô hải quân. Đào nhiệm qua hải quân rồi được
sắp xếp học Anh ngữ để đi Mỹ làm tôi bận rộn những ngày tháng sau
đó. Những mối tình lính đầu đời bắt đầu từ đó. Qua mục tìm bạn bốn
phương khi còn ở Quang Trung tôi gặp Th. Sau đó đến hai chị em Ph
và D. Hồi ở OCS, tôi là một trong những OC nhận được thư của đào
từ Sài Gòn nhiều nhất. Những mối tình đầu đem lại niềm thương nhè
nhẹ vấn vương của thời tuổi trẻ. Khi tôi ra trường, Ph biết em mình
đã yêu tôi thắm thiết nên nàng nhường cho cô em và bắt đầu đi chơi
với một SQ không quân. Ngày nhận lệnh đi hành quận Kampuchia, tôi
đến thăm D lần cuối. Buổi xế chiếu hôm đó chỉ có tôi và nàng đứng
bên thành cửa từ trong nhà ở cư xá Lữ Gia. Bên ngoài thành cửa là
một đống gạch ống chất ngay ngắn chờ thợ bắt đầu canh trang cư xá
trong những ngày tới. Tôi viết một câu ngắn vào miếng giấy nhỏ rồi
giấu trong một lỗ nhỏ trong một phiến gạch ống và thách D tìm ra.
Trong đó tôi viết vỏn vẹn hai chữ "Chờ anh". D tìm ra
mảnh giấy. Nàng đọc xong cất giữ vào túi áo. Thế là tôi đã gián
tiếp tỏ tình với D. Còn Th. thì gia đình thấy tôi cứ im lặng về
việc cưới hỏi nên ép gã náng cho một địa phương quân ở tận dưới
quê. Vụ Hoàng Sa, Trường Sa bùng nổ, Th. có đến nhà bà dì ở DaKao
tìm tôi. Cũng trong thời gian này một bạn gái thi chung trong kỳ
thi tuyển vào Y Khoa cũng đến tìm tôi nhưng lúc bấy giờ tôi dã đi
công tác tại các đơn vị. Cô này có ánh mắt màu nâu buồn u ẩn của
một cô gái Bắc. Tuy hai bên chưa hề tỏ tình nhưng nàng thường gửi
tôi những lá thư dài ra rít chia xẻ nhiều tâm sự và những nỗi cô
đơn trong cuộc đời tình ái của nàng. Tôi có đến thăm nàng nhiều
lần tại nhà nằm trên đường về Phú Lâm. Tình bạn tuy thấm thiết nhưng
hãy còn mờ ảo, mông lung giữa tình yêu và tình tri kỷ. Đời hải quân
rày đây mai đó. Những mối tình lẻ tẻ cũng đến rồi đi. Trong số náy
có L, người con gái ngây thơ vừa mới hai mươi, cha Bắc, mẹ Huế.
Nàng chỉ mơ mượt cuộc sống căn bản, thuần túy. Mối tình giữa tôi
với nàng trong sáng, thanh cao. Vì áp lực gia đình, những mối tình
trái ngang cũng không ngã ngũ ra sao thì mất nước. Tôi ra đi vào
buổi chiều 30 tháng tư năm 1975, để lại Việt Nam những mối tình
không đoạn kết và vợ con. Nếu bạn hỏi tôi sự khác biệt giữa người
tình và người vợ thì tôi trả lời rằng bạn nên tự hỏi chính mình.
Ai trong chúng ta, không nhiều thì ít cũng trải qua những tình cảnh
này mà ít chịu nói ra hoặc tự thú nhận. Hồi đi Thủy Bộ, tôi thường
trao đổi nhật ký với D, người tình Gia Long. Mỗi đứa trong chúng
tôi sẽ viết nhật ký cho nhau trong những ngày xa vắng nhau rồi khi
nào tôi về phép, chúng tôi lại trao đổi để đọc tư tưởng và ý nghĩ
của nhau. Quái ác thay tôi có bà chị rất ư là protective vì tôi
là con trai một. Chị ấy chẳng những lén đọc tập nhật ký dầy cộm
khoản 300 trang của tôi, trong đó dĩ nhiên có bút ký của D, mà lại
còn comment ngay trong quyển nhật ký thân yêu và rất riêng tư của
hai đứa tôi. Thế là từ đó bà chị và gia đình làm đủ mọi cách để
block mối tình thầm kín riêng tư này. Sau bao năm nhìn lại tôi mới
thấm thía câu thơ:
Tinh chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề
D thường viết trong những lá thư và những dòng nhật ký là tình
yêu bàng bạc trong thơ tôi. Thơ đây là những bài thơ tôi viết riêng
tặng cho nàng từ hồi còn ở Mỹ trong trường OCS. Trong đời tôi, có
lẽ D là một trong ba người đàn bà hiểu và thưởng thức được thơ văn
của tôi. Kh. cùng thi Y Khoa với tôi, ngồi gần vì tên cùng vần K,và
M, người bạn tuổi thơ thời tiểu học là hai người kia. Đối với tôi,
tình yêu và thi ca là một. Tôi không thể nào làm thơ mà không ca
tụng tình yêu. Mặc dù đó là thứ tình riêng tư, ích kỷ, nhưng đó
cũng là nguồn cảm hứng duy nhất để tôi làm thơ. Tôi ra đi để lại
Việt Nam những trái tim khắc khoải và đau khổ cho những mối tình
không trọn vẹn. Tôi ra đi mang theo niềm nhung nhớ vô biên, khó
tả, tự hỏi sao cuộc đời nghiệt ngã đã tạo cho nhau nhiều nỗi thương
đau. Th. đã có một đứa con gái và đã bỏ chồng trước khi tôi rời
xứ. D đã ra trường và đi dạy học ở một tỉnh nhỏ gần Sài Gòn. Còn
L thì tôi nghĩ nàng sẽ lấy chồng sau đó. Nhưng phải đến ba mươi
năm sau tôi mới khám phá ra đoạn kết của đời L....
Chiều 30 tháng tư năm 75 là một trong những buổi chiều buồn bã
nhất đời tôi. Chúng tôi có 18 người chất lên một chiếc LCM8 rời
Long An theo dòng sông Vàm Cỏ Tây tiến ra cửa Soài Rạp buổi trưa
hôm ấy khi Sài Gòn thất thủ. Ra đến Soài Rạp, tụi tôi đón Nghiêm
văn Phú đang ở trên 1 PCF neo ngoài của sông. Không lâu sau đó,
một chiếc tàu vận tải, chiếc 402 tà tà đi ra cửa biển. Lúc bấy giờ
chiều đã xuống. Màn đêm đã buông dần trên vùng sông lạch miền Nam
nằm phía Tây Nam Sài Gòn. Trong bờ lửa hỏa châu và flare bắn lên
từ các đồn Địa Phương Quân dọc theo bờ làm chúng tôi bối rối không
ít. Tâm tư mọi người lúc đó giống nhau: bối rối hoang mang, nghi
kỵ, buồn bã vì hàng ngũ đã rã tan, vận nước đã đến hồi khánh tận.
Chiếc 402 chở dân đầy ấp. Trong lúc hỗn loạn, ông Phú bị mất chiếc
cặp Samonite đựng giấy tờ và tiền bạc. Ông nằm trên võng, buồn thiu.
Tàu tiếp tục ra khơi đi về phía Côn Sơn. Sáng hôm sau khi bình minh
ló dạng, chúng tôi nhìn ra biển thì thấy cả hạm đội HQVN tập họp
ngoài đảo Côn Sơn chờ chỉ thị. Sau đó chúng tôi rời Việt Nam dưới
sự hộ tống của Hạm Đội 7 của Hoa Kỳ. Biển Thái Bình Dương những
ngày đó yên bình và phẳng như tờ giấy. Chiếc PCF của tướng Phú cũng
lẽo đẽo đi theo đoàn tàu rời Việt Nam. Đi đến hơn một ngày thì vì
chiếc 402 có một máy không theo kịp mọi người, sáng ngày hôm sau,
mọi người dân di tản trên 402 được thuyên chuyển sang chiếc WHEC
6. Sau đó người nhái đặt chất nổ rồi mở valve cho nước vào trước
khi trở vế tàu lớn. Một trong những pháo hạm Hoa Kỳ nả trọng pháo
bắn chìm chiếc 402 giữa Thái Bình Dương. Trên chiếc WHEC 6, tôi
chứng kiến một thảm kịch khác của những ngày cuối cùng bi thảm của
Việt Nam. Ông hạm trưởng chiếc tàu này đã hẹn gia đình di tản ra
hòn Poulo Dama trước đó trước ngày mất nước. Ông định vào đảo đón
gia đình thì bị thủy thủ đoàn chống đối kịch liệt vì tất cả mọi
người đều có gia đình bị kẹt lại, không lý do gì chỉ có gia đình
Hạm trưởng được ưu tiên đoàn tụ. Thế là ông Hạm trưởng đành ra khơi
bỏ lại gia đình ông bị kẹt ở Hòn Giáng Tiên. Ông có vẻ cay cú và
hằn học thấy rõ. Đêm hôm đó, sau khi sang tàu mới, bọn lính lại
định làm loạn. Kho vũ khí bị khóa lại. Chỉ những người trong giới
SQ mới biết chuyện xảy ra, đa số dân tị nạn đều không hay biết.
Đêm qua đi không biến cố nào diễn ra. Đoàn tàu tiếp tục đi vài ba
hôm nữa trước khi tới Subic base. Trước khi nhập cảng, cờ Việt Nam
Cộng Hòa được hạ xuống, cờ Mỹ trương lên. Chiếc PCF duy nhất vượt
Thái Bình Dương cũng nằm trong số các chiến hạm và chiến đĩnh Việt
Nam hoàn trả lại cho Hoa Kỳ ở Subic base. Chúng tôi như những người
tị nạn khác lên bờ, tắm rửa, thay quần áo dân sự do HQ Mỹ cấp phát,
xong ăn uống chờ chuyển sang tàu dân sự, một loại tàu hàng viễn
dương tiếp tục hành trình đến đảo Guam, nơi mà Hoa Kỳ đã chuẩn bị
những lếu tị nạn từ nhiều tháng trước. Trên đảo Guam, tôi được gặp
lại nhiều người quen biết trước trong hải quân cũng như một vài
người dân sự thời sinh viên. Thực tế phũ phàng của cuộc chiến dần
dần hiện rõ trên từng khuôn mặt. Những SQ hải quân vẫn mặc quân
phục với cấp bậc cũ nhưng không còn quyền chức cũng đứng sắp hàng
với quần chúng dân sự để lãnh phần ăn. Tuy không nói ra nhưng tôi
chắc rằng ai cũng mang một nỗi buồn chán giống nhau. Chúng tôi bỗng
trở nên những du khách bất đắc dĩ trên một đảo nhỏ xa lạ nằm giữa
Thái Bình Dương. Ban ngày thì trời nắng chói chan. Nhiều người trong
chúng tôi giết thì giờ bằng cách lang thang ngoài bãi tắm. Bãi thì
nhỏ và nhiều sỏi đá, không được bằng phẳng như những bãi tắm tôi
từng biết ở Việt Nam. Ban đêm thì mọi người về lều nằm vật vã, lăn
lộn với đêm dài khó ngủ khi máy phóng thanh không ngớt tuyên bố
danh sách những người sắp được lên máy bay sang các tiểu bang Mỹ
để định cư hoặc đoàn tụ với gia đình. Những người đi chung trên
chuyến tàu cuối cùng với tôi và một TT cùng đơn vị ở BTL/TT ở chung
một lều. Tôi tình cờ gặp lại một người bạn của thằng em vợ tôi đã
cùng nhau rời SàiGòn và vừa rời Guam đi Canada nơi di trứ của ông
anh vợ tôi chưa hề gặp mặt. Từ địa chỉ ông này, tôi nộp đơn xin
đi Canada ở một chiếc lều mới thành lập của phái đoàn Gia Nã Đại
đón tiếp nạn nhân chiến cuộc Việt Nam. Tôi rời Guam trong quân phục
HQVN và một xách tay thường được mang theo những lúc đi công tác
ở VN. Trong đó có cả một chiếc mùng nylon mua ở chợ trời Sài Gòn.
Chiếc súng Colt45 thì đã bị ném xuống biển trước khi vào Subic base.
Còn thì là những mảnh quần áo và khăn khíu do Mỹ cấp phát ở Subic.
Sang Canada không một xu dính túi. Tiền VN nguyên một tháng lương
cuối cùng, tôi đả trao những thằng đàn em muốn ở lại sau cuộc hành
quân Long An. Tôi chỉ giữ lại ba tớ giấy 1000 làm kỷ niệm. Ở tá
túc nhà ông anh vợ được ba tháng thì tôi đã tìm được việc và ra
riêng. Đi làm ở một bệnh viện ở Montreal, tôi ghi danh đại học,
ngành điện toán. Năm năm sau, đoàn tụ gia đình với vợ và đứa con
gái, lúc bấy giờ đã bảy tuổi. Hai năm sau đó, cuộc sống rất là chật
vật. Rồi tôi được việc mới ở một hang xe lửa của Canada, ngành điện
toán. Sau đó mua nhà và tiếp tục gầy dựng cuộc đới mới.
Năm năm trước khi được đoàn tụ vói vợ con, cuộc đời tôi chồng chất
những nỗi cô đơn của người xa xứ, lăn lộn với thực tế mới, cố quên
đi dĩ vãng đau buồn. Có những lúc cô đơn nằm một mình trên gác trọ,
tôi để nước mắt tuôn trào một cách tự nhiên không gượng ép, thương
cho phận mình lâm vào cảnh trái ngang. Sự đoàn tụ với gia đình và
vợ con lúc đó chỉ là một mộng ước phù du chưa chắc sẽ thành tựu.
Tôi sống cuộc đời cô đơn của một kẻ xa nhà, xa quê hương yêu dấu.
Trong những lúc cô đơn đó, tôi được gặp những người tình địa phương
với những sự khác biệt về văn hóa, xã hội, nhưng tựu trung, họ là
những người tình trong cuộc đời tôi. Bắt đâu bằng cuộc tình với
Felicia, một cô gái Ý đã định cư với mẹ và anh em từ nhiếu năm trước.
Cha nàng là một nghệ sĩ từng sống ở Florence, mẹ nàng là một bà
mẹ quê thuần túy từ Sicily. Tôi gặp F trong một lớp Anh văn ở McGill,
một đại học Anh nổi tiếng ở Montreal. Lúc bấy giờ, trước khi được
nhân vào đại học, những người kiều dân từ tứ xứ đều phải thi đậu
bằng Anh ngữ composition.
Tôi được xếp vào bậc thứ ba. Bài thi vấn đáp khóa đó, tôi thuyết
trình đề tài "Trương Chi, Mỵ Nương". Bà giáo sư gốc người
Tân Tây Lan cho tôi điểm cao nhất và đề nghị tôi lên lớp cao đảng,
bậc thứ năm. Felicia đã để ý tôi từ những buổi học đó. Nàng mời
tôi về nhà để gặp gia đình nàng. Một trong những buổi hội ngộ đó,
tôi ngồi cạnh nàng trên chiếc sofa bảo nàng có một tấm lòng tốt,
"You have a good heart". Nhưng không hiểu sao, nàng nghĩ
rằng tôi đang tỏ tình. Với sự ngạc nhiên cùng cực của tôi, nàng
ôm tôi hôn đắm đuối. Cô chị Colomba và bà mẹ nhìn ngạc nhiên. Cuộc
tình kéo dài được vài tháng thì gia đình nàng phải về Ý để trang
trải vài việc liên quan đến nhà cửa. Năm đó, đời tình ái của tôi
cứ như cơn lốc cuốn. Tôi gặp Emma ở nơi làm trong bệnh viện. Rồi
đến Louise, ở lớp Anh ngữ tại Concordia, một đại học tôi định ghi
danh chương trình điện toán. Tuy lúc bấy giờ, trình độ tiếng Pháp
của tôi chỉ giới hạn, cuộc tình với Emma cũng diễn tiến bình thường.
Tôi gặp Louise, cũng trong một tình cờ ngẫu nhiên. Không hiểu sao
nàng để ý đến tôi trong lớp, và tự nguyện giúp tôi trong việc đánh
máy những bài nộp. Buổi tối đầu tiên gặp nhau riêng ở apartment
nhỏ bé của tôi nàng ở lại đến gần ba giờ sáng mới ra về. Chiếu hôm
đó, sau vài ly Cognac, hai đứa để mặc hai thân thể tìm nhau trong
cơn mê tình ái. Nhưng chúng tôi chỉ đùa cợt với thể xác tới một
giới hạn của foreplay. Nàng không muốn có con bất đắc dĩ. Chỉ khoảng
hai tháng sau đó, khi nàng đã cắt óng dẫn trứng xong, tụi tôi mới
thực sự làm tình. Tôi nói rõ hoàn cảnh gia đình mình cho nàng biết
và cả hai giao hẹn, khi tôi đoàn tụ vợ con thì cuộc tình của chúng
tôi cũng sẽ chấm dứt. Cuộc tình kéo dài đúng 5 năm. Emma đến rồi
đi như cơn mưa mùa hạ khi Felicia và gia đình phải về Ý để trang
trải vấn đề nhà cửa. Felicia trở thành người bạn thân thiết sau
gần ba mươi năm tuy rằng chúng tôi ít khi gặp nhau. Louise thì đã
phiêu lưu theo những mối tình mới từ lâu và đã mất liên lạc. Còn
lại những người tình bị kẹt lại ở Việt Nam. Tôi ra đi không mang
theo địa chỉ rõ rệt của những người tình Sài Gòn. Trong lúc bối
rối, tôi lại quên hỏi một người bạn cùng đơn vị địa chỉ của L. Còn
D và Th. cũng vậy. Sự hoang mang trong ngày mất nước và những bỡ
ngỡ trên bước đường phiêu bạt làm tôi quên bẵng đi nhiều thứ. Một
mình trên đất khách, cái việc đầu tiên là phải kiếm sống. Tôi quyết
định bắt đầu cuộc đời bằng con số không. Chưa đầy ba tuần sau khi
đến Canada, tôi đã bắt đầu làm việc ở một bệnh viện Anh ở Montreal.
Hai tháng sau khi có việc, tôi ra riêng, ở trong một cái apartment
một rưởi cách sở làm chừng hai mươi phút đi bộ. Cũng ở đây, tôi
chứng kiến ba mối tình với những người con gái ngoại quốc, mỗi người
mang lại cho tôi những niềm vui khác nhau. Felicia mang đến tôi
một tâm hồn cao quí, trung thực với đầy nỗi chân thành hiếm có.
Emma ngây thơ, trẻ trung và vụng dại nhưng chỉ mang đến tôi nhu
cầu vật chất. Tâm hồn nàng đơn sơ mộc mạc, không đủ chia xẻ những
ẩn khuất cô đơn sâu kín của tôi thời đó. Louise là người đàn bà
tìm đến tôi để thỏa mãn nhu cầu vật chất. Thời đó tụi tôi gặp nhau
ba đến năm ngày mỗi tuần. Lần nào cũng làm tình từ ba đến bảy lần.
Tôi có cái ý tưởng lạ là ghi chú số lần làm tình trong những lần
gặp gỡ vào một quyển sổ nhỏ. Tổng kết, tụi tôi làm tình 500 đến
700 lần mội năm. Đôi khi tôi hẹn ở nhà nàng, nhưng đa phần là nơi
tôi ở. Chúng tôi làm tình ngoài công viên, trên xe, trên cầu thang,
trong nhà bếp và bất cứ nơi nào. Đàn bà Việt Nam thì kín đáo hơn,
ngoại trừ những trường hợp ngoại lệ. Còn đằm thì everything goes.
Đàn bà ngoại quốc thì upfront hơn, còn đàn bà Việt Nam thì phức
tạp hơn trong nhiều khía cạnh. Vì thế, không bên nào hoàn hảo hơn
bên nào. Cũng như khi chúng ta bàn về sự khác biệt giữa người tình
và người vợ. Có thể người vợ hiện thời của bạn đã có một thời đóng
vai người tình trong đời bạn, nhưng nếu bạn chịu khó phản tĩnh lại
bạn sẽ thấy sự khác biệt giữa người vợ bây giờ và người tình năm
xưa. Đa số chúng ta không lấy được người tình yêu dấu nhất trong
đời, hoặc ước muốn rằng người vợ của mình đóng được vai trò người
tình mãi mãi. Theo tôi, sai lầm thông thường của những người đàn
bà khi đã trở nên vợ, là họ quên đi vai trò quan trọng của một người
bạn và nhất là vai trò của một người tình. Tình yêu chân thật không
có sự ích kỷ, muốn chiếm đoạt mà là một thứ tình cho ra nhiều hơn
đón nhận. Mình hạnh phúc khi người yêu mình hạnh phúc. Mình xót
xa khi người yêu mình buồn khổ. Tôi không muốn nói tới thứ tình
yêu một chiều, vì thứ tình này trước sau gì cũng sẽ chết đi theo
thời gian và hoàn cảnh. Chính sự khác biệt giữa đàn bà Việt Nam
và đàn bà ngoại quốc địa phương đã khiến tôi rất dè dặt khi muốn
liên hệ đến gái Việt Nam ở Canada. Tôi luôn luôn giữ một khoảng
cách khi giao du với ít nhất hai cô bạn cùng học đại học. Vì tôi
biết nếu đi sâu vào thì sẽ khổ cho người ta và sẽ bẽ bàng với vợ
con sau này. Giữa tôi với những người đàn bà địa phương có một hợp
đồng thầm lặng, công bình cho cả hai bên. Do đó, ba mươi năm nhìn
lại, tôi không thấy gì ân hận trong vấn đề này. Và tôi chắc rằng
những người đàn bà này cũng chẳng có gì hận cho những phiêu lưu
tình cảm mấy mươi năm về trước. Felicia vẫn là người bạn thân tình
sau ba mươi năm. Emma và Louise thì đã mất liên lạc từ lâu. Còn
những người tình đang ở lại Việt Nam thì sao? Tôi chắc đa số họ
cũng đã có cuộc đời riêng rẽ. Cho đến bây giờ, tôi cũng không hiểu
sao khi rời Việt Nam ba mươi năm trước, tôi không mang theo một
dấu vết, một địa chỉ củ những người tình này. Cũng chính vì thế,
tôi hoàn toàn mất liên lạc với họ. Tôi chắc Th. đã có cuộc đời mới.
Còn D thì tôi nghĩ, sau nhiều năm độc thân, nàng cũng phải lập gia
đình, mang theo một mối hận tình, một tình yêu không trọn vẹn, một
nỗi xót xa thầm kín cũng như tôi nơi phương trời xa lạ, thương cho
một mối tình đổ vỡ, tự trách cho mình, tự trách cho định mệnh éo
le. Khoảng năm năm sau khi đến Montreal, tôi tình cờ gặp lại A,
người anh của D và cũng là bạn học Y Khoa của tôi thời trước. Anh
chàng này có máu nghệ sĩ, thích theo đuổi ngành kịch nghệ và nhạc
cổ truyền Việt Nam. A không hề nhắc tới chuyện cũ. Sau đó bạn tôi
về Mỹ, tiểu bang Washington thì phải. Từ đó tôi mất liên lạc luôn.
Còn L, người tình nhỏ ngây thơ trong trắng, người tình tôi chỉ gặp
trong một thoáng phù du với mái tóc đen dài như dòng suối, với làn
môi dầy nũng nịu và làn má mịn màng như một cánh hoa lan. Cuộc sống
vội vã nơi xứ người làm tôi quên đi những mối tình dĩ vãng. Năm
năm sau khi tới Canada, gia đình tôi đoàn tụ. Khoảng cách không
gian và thời gian trong năm năm cũng tạo nhiều khó khăn buổi đầu
khi chúng tôi hàn gắn lại tình vợ chồng. Nhưng với sự chịu đựng,
nhẫn nại, chúng tôi vượt qua những khó khăn này. Nhiều thằng bạn
HQ của tôi sang đây lập gia đình mới, bỏ vợ con ở nhà. Có thằng
quên luôn đời sồng gia đình quá khứ, có thằng thu xếp đem được vợ
cũ và con sang và phải đối diện những ngang trái, khó khăn trong
cuộc sống. Còn tôi, vấn đề gia đình cũng tạm yên. Khoảng sáu năm
sau ngày rời VN tức một năm sau khi đoàn tụ vợ con, tôi mua chiếc
nhà đầu tiên và bắt đầu gầy dựng tương lai. Tình yêu cũ vẫn nằm
trong tiềm thức. Có những lúc đêm dài khó ngủ, tôi cũng nhớ về những
bóng dáng của những người tình trẻ xa xưa, tự hỏi bây giờ cuộc đời
họ ra sao. Tôi chắc những người tình của tôi cũng nằm trong cảnh
huống đó. Mọi người trong chúng ta ai cũng sống trong hai thế giới,
một thế giới mộng tưởng và một thế giới thực tế. Tình cảm con người
thật phức tạp. Có những điều mình không dám nói ra, thế không có
nghĩa là mình giả dối, mà là mình muốn giữ một ranh giới giữa mộng
và thực, để khỏi phải làm đau lòng những người thân cận. Mặc dù
nhiều người quan niệm người vợ phải đóng vai trò người tình, người
bạn cùng một lúc. Nhưng thực tế phũ phàng cho thấy đó là điều không
thể xảy ra. Lấy một ví dụ: Bạn có thể chỉ trích một người bạn thân
nhưng bạn không bao giờ có thể chỉ trích vợ. Không tin thì cứ thử.
Đa số chúng ta, đàn bà cũng như đàn ông, khi lấy nhau rồi thường
quên đi vai trò người tình mà mình thường đóng trong cái thuở hẹn
hò nhiều năm trước. Mình tưởng khi lấy nhau rồi là mình tự động
chiếm hữu người kia. Đó chính là những sai lầm có thể làm đổ vỡ
hạnh phúc lứa đôi.
Ba mươi năm lặng lờ trôi qua. Cuộc đời tôi tương đối bình thản
ít biến cô. Sáu năm sau khi làm ở nhà thương, chương trình điện
toán chỉ còn khoảng hai mươi phần trăm là kết thúc, tôi tìm được
việc ở một hãng xe lửa, ngành điện toán. Một năm sau đó, gia đình
tôi dọn qua nhà mới. Khi mình đã có công việc vững vàng, khi ra
đường, lòng thấy tự tin hơn. Nhưng dù sao đi nữa tôi nhận thấy dân
mình cũng phải chịu những sự kỳ thị, không nhiều thì ít. Dù mình
cố gắng hội nhập với xã hội địa phương nhưng mình vẫn là người ngoại
quốc đối với họ. Mình vẫn có những phong tục, tập quán khác biệt,
và dĩ nhiên nói một ngôn ngữ khác biệt. Tôi có một người bạn học
ở cùng đại học, cùng chương trình. Anh chàng này cũng thích làm
thơ, viết lách. Anh có một cô đào người địa phương đẹp thùy mị.
Cuộc tình kéo dài khoảng 5 năm. Sau năm năm dan díu, chàng nhận
ra rằng sẽ không bao giờ có một sự cảm thông hoàn hảo giữa chàng
và người tình da trắng. Có những điểm trong ngôn ngữ Việt Nam không
thể diễn dịch sang tiếng ngoại quốc, dù là Anh hay Pháp hoặc một
ngôn ngữ nào khác. Kinh nghiệm của tôi cũng tương tự. Những ngày
đầu gặp nhau, tôi thường viết những bài thơ bằng tiếng Pháp cho
Felicia. Lý do dễ hiểu: tôi chưa bao học học tiếng Ý còn Felicia
thì chỉ quen dung tiếng Pháp khì tiếp xúc người ngoài. Tuy sự cảm
thông giữa hai bên cũng không tệ lắm, tôi vẫn nghĩ rằng một phần
những gì muốn nói dã bay theo mây khói. Thường thì mọi người trong
chúng ta cố tìm một ngôn ngữ chung để hai bên đều có thể hiểu nhau.
Và hai bên phải chấp nhận sự thiếu sót của môi trường chung. Nói
về tình yêu, đôi khi người ta không cần diễn tả bằng lời nói mà
chỉ thể hiện qua hành động. The act of love không thể diễn tả bằng
lời nói. Chỉ cần hai ánh mắt nhìn nhau, hai tâm hồn hội ngộ, hai
cơ thể quấn quít vào nhau chia cùng nhịp điệu yêu đương. Tôi không
hiểu sao hôm nay tôi muốn viết về vấn đề này. Tôi không hiểu sao
càng viết tôi càng cảm thấy mình bất lực. Tình yêu, cuộc đời, nỗi
buồn xa xứ, tất cả quyện vào tâm tưởng như cơn lốc vô tình thổi
qua khoảng đời trống vắng. Trống vắng là vì sau bao nhiêu năm biệt
xứ, lòng tôi vẫn nhớ về Việt Nam như một cánh chim đã lìa đàn, tuy
đã tìm được một chiếc tổ an bình nhưng vẫn luôn luôn nhớ về quê
mẹ, nhớ về những ngày thơ thân ái, nhớ về những cuộc tình xa xưa
không bao giờ hàn gắn lại, nhớ về khoảng mịt mù quá khứ để quên
đi nỗi đau buồn của một kẻ tha hương. Ba mươi năm sau ngày rời xứ
sở, tôi được biết rằng L đã ra đi tìm tôi vài tháng sau khi mất
nước. Và nàng đã bỏ mình trong cuộc vượt biển này. Tôi không biết
được chi tiết vì sao nàng mất mạng, Nhưng tôi cầu mong nàng chết
vì sóng cả mà không chết vi tay những tên hải tặc bạo tàn. L ơi,
được tin em đã nằm xuống lòng anh se thắt. Tình anh với em tuy không
trọn vẹn, nhưng anh bao giờ cũng cũng giữ cho em sự trinh trắng
ban sơ của người con gái. Mình gặp nhau và yêu nhau trong hoàn cảnh
éo le của thời chinh chiến. Anh xin nguyện cầu hồn em siêu thoát
về cõi vô biên. Nếu trong một cõi đời nào đó mình tình cờ gặp lại
nhau, anh nguyện sẽ yêu em trọn vẹn. Em là một cánh lan nở trong
vùng núi thâm u, nhả mùi hương dìu dịu đưa anh vào cõi mơ mộng thần
tiên.
Anh đã underestimate tình em, và gián tiếp anh đã mang tội đã đưa
em vào cõi chết. Khoảng năm 1978, tôi liên lạc được với M, người
bạn nối khố từ thuở tiểu học. Một trong những bức thư trao đổi nàng
giải thích vì sao, sau bao năm xa cách, sau nhiều cuộc thăng trầm
trong bể yêu đương, M vẫn yêu tôi dù chúng tôi chưa bao giờ đổi
trao nhục thể. Biến cố nàng chẳng bao giờ quên là một đêm hè oi
bức trên gác trọ ở đường Lê Văn Duyệt Sài Gòn thời 1960, tôi và
M cùng một người khác cũng là bạn nối khố lúc bấy giờ đã thành tình
nhân của M, nằm chung trên sàn gác, trong chiếc màng chống muỗi.
Đêm đó M nằm giữa, còn tôi và anh chàng kia nằm hai bên, ngược đầu
với M. M thú nhận với tôi rằng nếu đêm đó tôi có tái mái định tấn
công nàng, có lẽ nàng sẽ khứng chịu và sẵn sàng dâng hiến. Nhưng
tôi không làm thế, dù cảm thấy mình rạo rực suốt đêm. Hơn hai mươi
năm sau, M thú nhận nàng yêu tôi hơn từ đó, vì tôi đã giữ tư cánh
của một trượng phu. Sau đó, có đến ba lần, chúng tôi đã từng nằm
bên nhau, đôi khi trong vòng tay nhau trong khách sạn, tậm sự, kể
cho nhau những kỷ niệm êm đềm thời tuổi nhỏ, nhưng chúng tôi vẫn
giữ được điều giao kết thầm lặng là không bao giờ vượt biên giới
để làm ô uế cái tình cao quí của hai tâm hồn bạn đã hiểu nhau từ
thời tuổi nhỏ, vì cả hai đều có tình cảnh hiện tại khó vượt qua
và không muốn làm khổ nhiều người khác. Đối với những người tình
ở Việt Nam, tôi cũng đối xử như vậy. Tôi luôn luôn tôn trọng sự
trinh trắng của người yêu. Đối với D chẳng hạn, tôi có nhiều môi
trường để tiến tới, và nàng sẵn sàng dâng hiến, nhưng không hiểu
sao tôi chưa bao giờ vượt qua biên giới vô hình. Bạn có thể hỏi
tại sao đối với những người đàn bà địa phương tôi lại xử sự khác.
Tôi nghĩ đó chẳng qua là sự khác biệt về văn hóa, phong tục. Thế
giới ngày nay và xã hội Bắc Mỹ có lẽ đã làm nhạt nhòa sự khác biệt
này giữa xã hội Việt Nam và xã hội Tây phương, giũa người đàn bà
Việt Nam và người đàn bà Tây phương. Đồng ý hay không về điểm đó
tùy sự phán xét của từng cá nhân.
Ba mươi năm trôi qua, nhiều người trong chúng ta vẫn làm kẻ tha
hương nơi bốn góc trời xa lạ. Có nhiều bạn về Việt Nam chơi hoặc
giải quyết những chuyện riêng tư, còn tôi thì không có lòng dạ nào
về nhìn Việt Nam trong hoàn cảnh chính trị hiện tại. Mặc dù chính
trị Việt Nam bây giờ chỉ còn là một ý niệm, nhưng mỗi lần nghĩ đến
hoàn cảnh Việt Nam lòng vẫn không vui. Những mối tình xa xưa vẫn
còn ẩn hiện mơ hồ trong khung trời dĩ vãng. Cuộc sống hiện tại với
những trách nhiệm mới, với những nổi ưu tư mới. Dòng đời vẫn trôi
qua vô tình như nước chảy dưới cầu, chuyện quá khứ thì cũng như
bóng mây lang thang trong khoảng trời cao vô tận. Nhiều người trong
chúng ta đề mơ một ngày về.
|