... Nhược bằng bắt mọi người
viết phải viết theo một lối với
mình, thì đến một ngày kia,
hàng trăm thứ hoa cúc đều
phải nở ra cúc vạn thọ hết.
Phan Khôi
1.
Bạn bè thỉnh thoảng gặp nhau bên ly cà phê tách trà, sau khi chuyện
trò về gia đình, con cái, việc làm, họ vẫn thường chung cuộc với
chút chén văn chương rồi ra về với những nghĩ suy có khi đến bận
lòng. Gần đây, trong một cuộc tranh luận, thuật dụng chữ nghĩa của
Hoàng Cầm và Trịnh Công Sơn đã được nhóm bằng hữu mang ra bàn cãi
so sánh. Có lẽ sự ẩn dụ hai mang của ngôn từ và điệp ngữ lửng lơ
trong thơ trong nhạc đã giúp họ trong sáng tác, thành danh, và sự
an thân. Dù sao thì “đàn bò vào thành phố” băng qua lối mòn phản
chiến ngoại ô hay chiếc “lá diêu bông” bên kia sông và người chị
buổi thiếu thời từ cuối một làng quê nào đó đã giúp họ sống-còn
mà đi “qua vườn ổi” xanh ngon hay rộn ràng phân bua về một mùa thu
thành phố đỏ lá bàng.
Tôi đã không nghĩ nhiều về những điều này mà mãi bận
lòng nhớ về những người tuổi trẻ trung thực nhiệt thành, hiên ngang
bước chân qua cổng trước của khu vườn Nhân-Văn Giai-Phẩm để rồi
chịu cheo leo suốt cả quãng đời dài. Tôi nghĩ nhiều về những người
tuổi trẻ “biết ghét biết yêu”, viết văn làm thơ thời “trăm hoa đua
nở”. Tôi muốn được một lần về thăm lại những người giữ vườn tuổi
giữa thanh niên đã một thời dùng máu lệ mình tưới thắm một mùa trăm-hoa
cũ. Những Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Bùi Quang
Đoài, Tạ Hữu Thiện...và bao nỗi ngậm ngùi.
Năm 1956, giữa những ngày Cọng Sản Hà Nội còn đang hăng máu với
cuộc Cải Cách Ruộng Đất “hoàn toàn thắng lợi” thì những sự kiện
sửng sốt, không ngờ, dồn dập xảy đến trong hàng ngũ Cọng Sản quốc
tế và chế độ miền Bắc.
Ở Nga, Hội nghị lần thứ 20 của đảng Cọng Sản Liên Xô vào tháng Hai
1956 là dịp để Krushchev hạ bệ Stalin và sửa đổi lại luận thuyết
bạo động cực tả bằng cách hứa hẹn một chính sách mềm dẻo và dân
chủ hơn. Đợi mãi sốt ruột, các nhà văn Nga, mà người cầm đầu là
Dunkinsev, bắt đầu lên tiếng đòi hỏi sửa sai những bất công của
chế độ.
Ở Tàu, đảng Cọng Sản Trung Quốc tuy đã hoàn thành chiến dịch cải
cách ruộng đất từ mấy năm trước cũng buộc phải tuân theo chỉ thị
của Đệ Tam Quốc Tế nên đành hời hợt lờ mờ tung ra khẩu hiệu “ Bách
hoa tề phóng”, trăm hoa đua nở, mà không thực sự thi hành một chính
sách nới rộng tự do dân chủ nào. Năm 1957, nhóm La-Long-Cơ khởi
sự phong trào chống Đảng.
Ở các nước Cộng Sản Đông Âu, vụ Poznan (Ba Lan) vào tháng Sáu
1956 và kế đến là vụ Budapest (Hung Gia Lợi) vào tháng Mười đã làm
rung chuyển bộ máy thống trị của Đệ Tam Quốc Tế với các phong trào
chống Nga rầm rộ.
Ở Bắc Việt, các lãnh tụ của đảng Cọng Sản Việt Nam đã vất vả hơn
nhiều so với đàn anh phương Bắc của họ. Khi đặc sứ Mikoyan của điện
Kremlin sang Hà Nội giải thích về luận thuyết mới của Krushchev
thì cuộc cách mạng ruộng đất đang ở vào giai đoạn chót và hung hãn
nhất. Hồ Chí Minh đành trì hoãn việc phổ biến quyết định của Hội
Nghị lần thứ 20 của đảng Cọng Sản Liên Sô và tuyên bố “sửa sai”
vào tháng Tám năm 1956.
Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng, và Hồ Viết Thắng, Thứ trưởng phụ
trách Cải cách Ruộng Đất bị “hạ bệ”. Võ Nguyên Giáp phải thay mặt
trung ương Đảng thú nhận sai lầm và hứa hẹn sửa chữa, đồng thời
thả mười hai ngàn đảng viên bị cầm tù vì bị quy lầm là địa chủ.
Tình trạng xung đột, ám hại nhau giữa hai thành phần đảng viên cũ
và mới, bị tố và “tố sai”, lan rộng đến nhiều vùng nông thôn. Dân
ở những làng xóm nhiễu nhương, địa chủ được tha về lẫn bần nông,
tìm mọi cách chạy ra thành phố để mưu sinh và để được yên thân.
Không khí nghi kỵ, căm thù, từ nông thôn lan ra thành phố, từ nông
dân lan qua giới công nhân, học sinh, và trí thức. “Vụ Quỳnh Lưu”,
việc cán bộ, công nhân, học sinh tập kết khởi loạn ở Ngã Tư Sở và
đập phá đồn công an Bờ Hồ (phố Cầu Gỗ, Hà Nội) là kết quả của những
nỗi oan ức chồng chất và lòng căm thù đối với chế độ ngày càng sâu
rộng.
Giới văn thi sĩ trí thức ở miền Bắc trước kia đã chân thành hợp
tác với Cọng Sản trong công cuộc kháng chiến dân tộc chống thực
dân Pháp nay thấy mình bị lợi dụng, bạc đãi, khinh miệt và cuối
cùng là áp bức, khủng bố tới mức độ không thể chịu đựng nổi.
Bài diễn văn hạ bệ Stalin mà Krushchev đọc trong một khóa họp
bí mật vào tháng Hai 1956 bị lọt ra thế giới bên ngoài đã manh nha
phong trào chống lại Đảng dưới hình thức chống tinh thần Stalin.
“Giai Phẩm 1956” ra đời có những bài viết nêu lên thối nát của
chế độ. Trong bài “Cái chổi quét rác rưởi”, Phùng Quán nói rằng
chế độ miền Bắc đầy rác rưởi dơ bẩn và một nhà văn như anh sẽ tình
nguyện làm cái chổi quét cho sạch rác rưởi đó. Bài viết như một
tuyên ngôn khởi đầu cho cuộc khởi nghĩa văn học.
Trong bài “Ông Bình Vôi”, Lê Đạt đã ám chỉ công kích bọn cán bộ
lãnh đạo:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Hữu Loan thì uất ức:
Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ “Dân chủ Cọng hòa”
Những thằng nịnh hót còn thênh thang đất sống...
Trong “Giai Phẩm Mùa Xuân”, thơ Trần Dần tả sự khổ cực, thiếu
thốn, thất nghiệp của vợ chồng tác giả. Họ đi giữa Hà Nội, “không
thấy phố không thấy nhà” mà chỉ thấy “mưa sa trên mầu cờ đỏ”.
Cụ Chương Dân Phan Khôi, một sĩ phu Văn Thân xứ Quảng, người nho
sĩ tiết tháo cuối cùng đại diện cho cả hệ thống Nho Giáo từ hơn
hai nghìn năm trước, đơn thương độc mã đối đầu với ý thức hệ Marxism
và chế độ Cọng Sản với một ý chí đấu tranh tới cùng:
Nắng chiều tuy có đẹp,
Tiếc tài gần chạng vạng.
Mặc dù gần chạng vạng
Nắng được thì cứ nắng (1956)
Trong Giai Phẩm Mùa Thu tập I ra đời ngày 29 tháng 8 năm 1956,
bài viết “Phê bình Lãnh đạo Văn nghệ” của cụ Phan Khôi như quả bom
chấn động cả Hà nội đã gây nên cuộc chiến tranh văn học giữa trí
thức miền Bắc với Đảng.
Từ tháng Tám 1956, Hà Nội như một khu vườn với hàng trăm loài hoa
đua nở. Cụ Phan Khôi cùng Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy xuất bản báo
Nhân Văn. Giới sinh viên thì cho ra đời tờ Đất Mới do Bùi Quang
Đoài làm chủ bút. Các báo phát hành từ trước như tuần báo Trăm Hoa
của Nguyễn Bính, tờ Thời Mới, cũng hưởng ứng phong trào cho đăng
những loạt bài đả kích Đảng. Về phía báo Đảng thì có những tờ Cứu
Quốc, Nhân Dân, Học Tập, báo Văn (sau khi báo Nhân Văn bị đóng cửa).
Bên cạnh những văn thi sĩ trẻ viết văn làm thơ đấu tranh chống Đảng
là những “Con ngựa già của Chúa Trịnh” (truyện Phùng Cung), những
tay cặp-rằng văn nghệ chạy theo Tố Hữu như Hoài Thanh, Xuân Diệu,
Nguyễn Đình Thi... hay tiêu biểu cho một nhóm nhỏ văn nhân xu thời,
xoay xở, lúc nịnh lúc chưởi như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, cốt
sao được ăn trên ngồi trước.
Tố Hữu là ông thợ cả, là “thần tượng” của thi ca Cọng Sản Việt
Nam. Lời thơ sau đây tỏ rõ tinh thần thấp hèn của người viết khi
tán dương lãnh tụ:
Hoan hô Sta-lin
Đời đời cây đại thọ
Rợp bóng mát hòa bình
Đứng đầu sóng ngọn gió! ...
Sta-lin ! Sta-lin !
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin ! ...
Ông Sta-lin ơi ! Ông Sta-lin ơi !
Hỡi ôi Ông mất ! Đất trời có không ?
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương Ông thương mười...
Hay sự tàn bạo trong văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa khi
đề cao cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Sít-Ta-Lin...bất diệt...
Chúng ta thử đọc những câu thơ của một Xuân Diệu tiền chiến lãng
mạng:
Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến...
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân...
Rồi một Xuân Diệu sau khi “trở dạ” làm thơ hiện thực xã hội chủ
nghĩa, làm lao động phục vụ Đảng phục vụ giai cấp vô sản, để nhận
ra rằng con người có lần ru lòng mình theo tiếng Nguyệt Cầm đã thực
sự đánh mất lương tri và tâm hồn thi sĩ :
...Thắng hay thua? Đời sẽ méo hay tròn ?
Trận quyết liệt!
Yên lòng và vững chí!
Ôi êm ái khi tay cầm vũ khí
Chuyên chính của ta là thép cương kiên...
Mỗi lần tranh đấu gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm
Nghe lời Bác dạy khuyên răn,
Chúng con ước muốn theo chân của Người...
Chúng con thề nguyện một lời
Quyết tâm thành khẩn...lột người từ đây...
Anh em ơi! quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù,
Địa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng hôm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi...
2.
Thế mà giữa đám văn nô Marxism lơ láo, trong khu vườn trăm-hoa đã
vụt trỗi lên nhóm nhà văn trẻ tuổi. Họ tiêu biểu cho lớp thanh niên
lớn lên trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống thù chung. Họ
đã hi sinh, chịu đựng gian khổ, tranh đấu giành lại độc lập cho
đất nước để rồi cay đắng hiểu ra rằng tự do, dân chủ, bình đẳng,
ấm no, là lớp bánh vẽ xa vời mà chế độ Cọng Sản chỉ hẹn hò mà không
thực sự mang lại. Họ trở thành tầng lớp “quần chúng văn nghệ” phải
chịu cảnh đời cơ cực bất công trong cuộc sống kinh tế đồng thời
bị áp bức kìm hãm khủng bố trong sáng tác. Văn thơ của họ là tiếng
nói của con người thiên nhiên khác xa với lớp lối biện chứng vô
sản hiện thực thiếu lương tri. Thơ đã thành tiếng gọi của Tự Do.
...cửa ngoài bằng đá tảng
Tiếng hát đẩy được vào
Vì đó là tiếng gọi của trời cao
Của đất rộng... (Hoàng Cầm)
Ngoài những đóng góp điển hình của Minh Hoàng (Vũ Tuyên Hoàng),
Trần Lê Văn (cháu nhà thơ Trần Tế Xương hay Tú Xương), kịch tác
gia Hoàng Tích Linh thơ văn của Trần Dần, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện,
Bùi Quang Đoài, Phùng Cung, là tiếng gọi sang sảng sấm truyền, đã
chân thành nói lên được nghĩ suy tự đáy lòng mình cho dù ai “cầm
dao dọa giết”
Phùng Quán, sinh năm 1932, người trẻ tuổi nhất trong nhóm Nhân
Văn - Giai Phẩm. Là một “nhà văn chân thật trọn đời”, ông làm thơ
để quét sạch những rác rưởi trong xã hội. Thơ ông là lời tuyên thệ
trung thành với tâm hồn của mình, suốt một đời người. Năm 1956 ông
“chống tham ô lãng phí”:
...Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem
Đài xem lễ, họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng thiếu tiền bỏ dở
Mười một triệu đồng dầm mưa dãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.
Những con chó sói quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng !
Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ “Đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước chúng ta không đếm hết người nghèo
Đêm nay thiếu cơm thiếu áo...
Năm 1957 ông nhớ “lời mẹ dặn” làm người chân thật:
...Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô ngã tôi
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
Phần tư thế kỷ sau, thơ Phùng Quán vẫn đam mê chơn chất:
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ đắng cay như ở đây ?
Chín người – mười cuộc đời rạn vỡ
Bị ruồng bỏ và bị lưu đày...
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ đam mê như ở đây ?
Yêu đến phải vào nhà thương điên
Thơ đến phải bị còng tay...
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ yêu thương như ở đây ?
Mỗi tấc đất có một người quỳ gối
Dâng trái tim và nước mắt
Cho nỗi đau của cả loài người...
Có nơi nào trên trái đất này ?...
Có nơi nào trên trái đất này ?...
Trần Dần sinh năm 1924 tại Nam Định. Vào những năm cuối trung học,
chịu ảnh hưởng Baudelaire và Verlaine, ông bắt đầu sáng tác thơ
theo thể lối “tượng trưng”, vận dụng âm điệu để diễn tả những rung
động của tâm hồn.
Chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, ông vào bộ đội tham gia kháng chiến.
Năm 1951, ông về Hà Nội nhận công tác viết báo cho cục Quân Huấn
và phụ trách giảng dạy về văn nghệ nhân dân trong những lớp đào
tạo cán bộ văn công. Bị phê bình giảng dạy sai đường lối của Đảng,
ông xin ra công tác ở mặt trận Điện Biên Phủ. Xúc cảm trước sức
chiến đấu của bộ đội và cái chết thê thảm của bạn đồng hành Tô Ngọc
Vân, Trần Dần sáng tác “Người người lớp lớp”. Nhờ tập sách này ông
được Đảng cho đi Trung Quốc để viết lời dẫn bằng tiếng Việt cho
cuốn phim “Chiến thắng Điện Biên Phủ”.
Trần Dần rất bất mãn vì bị cán bộ chính trị dốt nát về văn chương
đã dùng quyền lực sửa chữa từng chữ từng câu của ông. Về đến Việt
Nam, ông cùng một số văn nghệ sĩ đảng viên khác như Tử Phác, Hoàng
Cầm, Hoàng Tích Linh, Đổ Nhuận, viết kiến nghị yêu cầu hạn chế sự
can thiệp của cán bộ chính trị vào lãnh vực văn nghệ.
Trong thời gian này, Trần Dần tự tiện lấy vợ, bất chấp sự cấm đoán
của Đảng. Người yêu của ông là một thiếu nữ tiểu tư sản, theo đạo
Thiên Chúa. Nàng sống bơ vơ một mình ở phố Sinh Từ vì bố mẹ họ hàng
đã di cư vào Nam.
Đảng vin vào cớ người yêu của Trần Dần sống bằng tiền cho thuê nhà
mà bố mẹ để lại là thuộc vào thành phần bóc lột nên không chịu để
một đảng viên như ông lấy vợ thuộc giai cấp “địch”. Trần Dần tự
ý xin ra khỏi Đảng và khuyên vợ mang nhà cửa giao cho Nhà Nước.
Họ chịu sống trong cơ cực để được yêu thương nhau.
Không lâu sau đó, Tố Hữu, ủy viên trung ương Đảng phụ trách lãnh
đạo văn nghệ, ra lệnh bắt Trần Dần mang nhốt trên một nhà giam ở
Việt Bắc vì ông đã công khai phê bình đả kích cuốn “Thơ Việt Bắc”
của Tố Hữu. Tin Trần Dần bị bắt gây dư luận bất mãn trong giới trí
thức kháng chiến. Đảng bèn phải đưa Trần Dần về mạn xuôi, bắt đi
theo chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất và cho vợ ông một chân may vá
ở mậu dịch Hà nội.
Năm 1956, nhóm văn nghệ sĩ kháng chiến nổi lên đấu tranh chống
Đảng bằng cách cho xuất bản tập Giai Phẩm Mùa Xuân. Hoàng Cầm đến
xin vợ Trần Dần bản thảo bài thơ “Nhất định thắng” ông viết năm
1954 để in trong Giai Phẩm. Số báo này vừa in xong thì bị tịch thu
ngay. Đảng gọi Trần Dần về Hà Nội, mang ra “đấu” giữa một hội nghị
có đông đủ các văn nghệ sĩ, quy Trần Dần tội phản động chống Đảng,
đả kích Hồ Chí Minh vì các câu thơ có chữ “Người” viết hoa.
...Ôi ! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn kinh hoàng trước tương lai...
Bị giam cầm trong nhà pha Hỏa Lò ở Hà Nội, Trần Dần quá uất ức
dùng dao cạo cứa cổ nhưng không chết. Vết sẹo như là một dấu hiệu
của sự áp bức văn nghệ dưới chế độ Cọng Sản.
Tháng Tám năm 1956, Việt Cọng tuân theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc
Tế, phát động phong trào “sửa sai”. Giai Phẩm Mùa Thu và báo Nhân
Văn, đấu tranh mạnh mẽ hơn, cụ Phan Khôi và Hoàng Cầm trong bài
viết “Con người Trần Dần” lên tiếng phản đối việc khủng bố Trần
Dần và vụ tịch thu tờ Giai Phẩm Mùa Xuân. Bị công kích quá mạnh,
Đảng phải thả Trần Dần về. Nhóm Giai Phẩm tái bản tờ Giai Phẩm Mùa
Xuân trong đó có bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần. Bài thơ
dài hơn năm trăm câu, bắt đầu bằng tiếng thở dài.
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui ?
Tổ quốc hôm nay tuy gọi sống hòa bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất...
Bài thơ nói lên sự đói rét và nỗi u buồn trong lòng dân miền Bắc
sau ngày đất nước chia đôi.
...Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tấm tả mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu
rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm ?
A ! Cái lưỡi dao cùn !
Không đứt được – mà đau !
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước ! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hãy nhìn xem: có phải vết dao ?
Không đứt được mà đau !
Lưng Tổ Quốc hôm nay rướm máu...
...Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không
thấy phố
không
thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên
mầu cờ đỏ
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về...
... Em đi
trong
mưa
cúi
đầu
nghiêng
vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Khổ thân em mưa nắng đi về
lủi
thủi
Bóng chúng
đè
lên
số
phận
từng
người
Em cúi đầu đi, mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không
thấy phố
không
thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên
mầu cờ đỏ.
Đất nước khó khăn này
sao
không thấm được vào Thơ ? ...
...Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bổng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng người ầm ả.
Chúng phá hiệp thương
Liệu
có hiệp thương
Liệu có tuyển cử
Liệu tổng hay chắn tổng ?
Liệu đúng kỳ ? hay chậm vài năm ?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng.
Ôi ! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương lai ...
Cuối năm 1957, Trần Dần gửi đăng bài thơ “Hãy đi mãi” trên báo
Văn nói lên ý chí cương quyết đấu tranh đòi tự do đến cùng.
...Hãy đi mãi !
Dù
trên biển cả
sống như người vật vã
khắp
đại dương.
Dù những con tàu
bổng
nhớ bến bình yên,
còi rúc mãi những tiếng kêu rùng rợn.
Hãy đi mãi !
Dù
khi cần thiết
người ta cần đói khát
vượt
bình xa.
Ta bỗng có thể nhịn lâu
hơn
cả lạc đà,
đi
đến
những kinh thành no ấm.
Hãy đi mãi !
Dù
có phen chót ngã
hãy bó đôi chân lầm lỡ
mà
đi ...
... Nếu tôi bị gió sương
đầu
độc,
một hôm nào ngã xuống
giữa
đường đi
tôi sẽ ngã
như
người lính trận
hai bàn tay chết cứng
vẫn
ôm cờ...
...Nếu dĩ vãng đè trên lưng
hiện
tại
nặng nề
hàng
tạ đắng cay,
tôi sẽ nổ tung
ngàn
kho đạn tiếng kêu
tan xác pháo
mọi
cái gì cũ rích...
Tạ Hữu Thiện là một sinh viên viết văn làm thơ
theo phái hiện thực xã hội. Lớn lên với tấm lòng đơn giản nhiệt
thành anh thắp sáng thơ mình đi tìm tình yêu, đi tìm tâm hồn “biết
ghét biết yêu” giản đơn hòa hợp như anh. Giữa xã hội miền Bắc khô
cạn tình người và lối giáo dục cọng sản lọc lừa, lời thơ anh trở
thành tiếng gọi đắng cay, tiếng lòng tự hỏi về một phương trời khác
nơi anh sẽ tìm ra người yêu trong mộng một đời.
… Tôi đã từng yêu từng chán nản
Không bao giờ thấy nguội con tim
Không bao giờ thỏa mãn
Khát khao Em, tôi vẫn gắng công tìm.
Có phải em là người không bao giờ tôi gặp
Mới là người tôi ấp ủ trong tim ?
Nửa đời người tôi đã đi khắp cả
Kiếm tìm Em, sao chửa thấy em đâu ?
Em yêu dấu, sao mà xa lạ
Đến bao giờ thỏa ước hẹn hò nhau ? …
Hỡi tất cả các cô bạn gái
Tôi đã biết hay là tôi chưa quen,
Tôi chả bị cái gì làm lạc hướng
Nhằm áo hồng, phụ áo vá vai
Trong các bạn có chăng người yêu dấu
Mà bấy lâu tôi vẫn gắng công tìm ?
Đó chính là người tôi chửa gặp
Mới là người tôi ấp ủ trong tim.
Trên tất cả thành phần lý lịch
Trên cao sang, trên sắc đẹp diễm kiều.
Em, trọn cuộc đời tôi kiếm gặp
Chỉ là người biết ghét biết yêu.
Bùi Quang Đoài là sinh viên Văn Khoa sau ngày
Cọng Sản tiếp thu Hà Nội. Anh làm chủ bút tờ báo vắn số Đất Mới,
cơ quan tranh đấu chống Đảng của sinh viên. Truyện ngắn “Lịch sử
một câu chuyện tình” của Bùi Quang Đoài đăng trong số báo đầu tiên
và cũng là cuối cùng là nguyên nhân anh bị đuổi khỏi trường và đưa
đi kiểm thảo, học tập. Trong truyện ngắn này có câu văn lãng mạng
“Em hãy đếm những vì sao trên trời được bao nhiêu thì anh yêu em
còn hơn thế nữa” sau này đã được nhiều người trích dẫn trong thơ
truyện của mình.
“Đường trăng mà không sáng ! Bóng mây đã che mờ hẳn trăng đêm.
Ánh đèn trong những gian phòng khu học xá chiếu hắt ra như những
vì sao thứ tự” Đoạn văn trau chuốt mang hơi hưởng Tự Lực Văn Đoàn
là dòng khơi từ cho truyện ngắn tả lại không khí sinh hoạt trong
khu Học xá ở Hà Nội dưới sự kiểm soát của Đảng. Truyện kể lại
một vụ cán bộ Đảng dùng uy quyền chính trị chiếm đoạt tình yêu của
một nữ sinh Hà Nội thuộc thành phần gia đình tiểu tư sản.
Đồng chia cảnh ngộ với các văn thi sĩ trẻ khác trong nhóm Nhân
văn – Giai Phẩm, Phùng Cung đã phải sống-trong-cảnh-chết
rất nhiều năm. Sau ngày “Con ngựa già của Chúa Trịnh”, ông đã phải
sống trong tận cùng nỗi thấm đau phẩm giá con người của bần cùng,
sợ hãi, di lụy, kinh hoàng.
Tôi rạp đầu
Bạc tóc rạp đầu
Lạy hạt gạo thiêng !...
Trệu trạo trái sim
Ruột tím cơ hàn
Mắt trước, mắt sau
Kinh hoàng, di lụy
Quỳ gối chống tay,
Vẫn còn sợ ngã
Đăng trên báo Nhân Văn số 4, truyện ngắn “Con ngựa già của Chúa
Trịnh” có ngụ ý đả kích văn thi sĩ thành danh trước kia như Xuân
Diệu, Hoài Thanh, Cù Huy Cận, chỉ vì ham được vinh thân thăng tiến
trong hệ thống Đảng mà cam tâm tôi đòi cho chế độ. Đời sống tôi
mọi đã làm thất thoát khả năng văn nghệ cũng như tâm hồn và lương
tri của người cầm viết.
Truyện viết về con Kim Bông là một quý mã “tướng phách hoàn
mỹ, có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thể cao đầu phóng vĩ của
nòi ngựa chiến”. Thuở ấy chúa Trịnh đang cần tuyển mộ một đoàn
kỵ binh để bình định đất nước. Kim Bông được chủ là Lão Nông thuận
cho rời Phương Lộ, một thôn làng hẻo lánh phía Nam chân núi Tản,
về chốn kinh thành mà theo Trịnh Chúa Công xông pha chiến trận.
“Kim Bông phi như gió, giả lại đàng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn
độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long”.
Trong ngày hội đua tuyển mã, con Kim Bông đã làm kinh hồn táng đởm
hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về. “Chỉ trong chớp mắt, con
Kim Bông đã vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm
lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không
hề chạm đất”. Sau cuộc đua, con Kim Bông được tặng danh hiệu
“Bạch long Thiên lý mã” và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả
đoàn ngựa chiến của triều đình. Từ đó “nó cùng bầy ngựa chiến
xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sinh ra tử”. Cho đến
một ngày con “Thiên lý” được Chúa Trịnh chọn cho làm mã lệnh và
được vào ở trong phủ Chúa. Trong mã đài, ngày ngày chỉ ăn và tắm
hoặc đứng yên cho mã phu cắt tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc
lông đuôi. Lúc đầu, nó cảm thấy bận bịu tù cẳng, lòng mơ ước cảnh
sống khi còn ở ngoài cung cấm, nhưng dần rồi con Thiên lý cũng quen
với gấm điều kim tuyến trên lưng và xa giá sơn son thếp vàng nó
kéo đến đâu cũng vang rền lời tiền hô hậu ủng. Những lúc như vậy,
nó cảm thấy mình quan trọng hẳn lên và đẹp rực rỡ như phượng hoàng.
Có lần được lệnh kéo chúa Trịnh đi duyệt một đoàn quân kỵ mã,
con Thiên lý nhìn hàng quân kỵ oai dũng, chợt nhớ thuở tung hoành
xưa, nó ngẩng đầu cất cao tiếng hí.
Bầy ngựa chiến òa lên cười chế nhạo. “Thôi bác ạ ! Đừng khoe
tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa
! Rời ra thì thóc kia trộn mật ai ăn ?”
“Con Thiên lý uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra
ngoài để tỉ sức, nhưng trên xe lại giật cương” nên đành phải
cắm đầu đi, lòng vẫn còn tin mình còn đủ sức phi lên hàng đầu.
Một ngày kia, Chúa Trịnh vì phải thân chinh đi dẹp loạn nên truyền
đem mã lệnh ra đua trường ôn dượt trước khi ra trận. Viên tướng
kỵ binh cúi đầu tâu. “Muôn tâu Chúa công, hiện nay trong triều
đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vượt hàng nghìn dặm, và đã từng
dự trên dưới một trăm trận. Xin Chúa công để tiểu tướng được chọn
dâng một con chiến mã có sức khỏe vào bậc nhất. Còn như con mã lệnh,
cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì nhiều
lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước” . Vẫn
còn tin ở tài con mã lệnh, Chúa bèn hạ lệnh cho mang con Thiên Lý
ra tỉ sức cùng các chiến mã khác để tiện bề kén chọn.
“Con Thiên lý được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cái
lá đa đã được cất đi. Nó bàng hoàng nhìn giời, nhìn đất, mắt nó
hoa hoa, đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây
như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố
dóng hai tai bóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng
tiếng hí của nó vừa hé ra thì cụt lủn như có vật gì nút lấy mõm.
Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí
làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên,
tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ vạch rượt theo. Tiếng trống
liên hồi, con Thiên ly càng cắm đầu cắm cổ chạy. Nó đã tưởng mình
thắng cuộc, nó đắc chí ngoảy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát
đàng sau. Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng
lồng lên. Bổng nó thấy nhói một cái ở trong ngang bụng như bị một
nhát gươm chém mạnh, nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của
đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng
mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng: Tiếng tăm lừng lẫy
như ta chỉ có thể chết ở chiến trường. Nhưng, than ôi ! Bãi cỏ này
cũng là bãi chiến trường, chết thế này cũng là chết vì giang sơn,
vì Chúa ! “
Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co
co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như cố để giữ
lấy cái thế “cao đầu phong vĩ”…
Gần nửa thế kỷ đã trôi qua từ sau mùa trăm-hoa Nhân Văn - Giai
Phẩm.
Những con người tuổi trẻ muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
đã hiện thực giấc mơ được làm người-tự-do trong tư tưởng. Họ chắt
chiu lấy giấc mơ mình như niềm hạnh phúc lẫn bi thương đã hiện hữu
cùng với sự lựa chọn được làm người-chân-thật. Họ đã trả đắt giá
cho sự lựa chọn cao quí của mình để làm “người biết ghét biết yêu”
nhiều khi trong giam cầm, đói khát, hãi hùng.
Sau nhiều năm quá trễ, tập đoàn Cọng Sản qua những tay cặp-rằng
văn nghệ miền Bắc có làm vài bản “tự kiểm”, “xét lại” nửa vời, kẻ
cả, và xem ra thỏa mãn với hành vi “sửa sai” tiến bộ của mình. Thực
tế thì hai mươi năm sau ngày đấu tố ruộng đất, cuộc đấu tố văn học
lại tái diễn vào những năm sau 1975, như Tần Thủy Hoàng đã thẳng
tay “đốt sách chôn học trò” hằng ngàn năm trước ở Trung Hoa.
Những năm hòa bình ngắn ngủi ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ
Đệ Nhất Cọng Hòa vừa giúp manh nha những hoạt động văn học có kích
thước thì ngọn lửa chiến tranh dấy động bởi Cọng Sản miền Bắc dưới
chiêu bài giải phóng đã đốt cháy tất cả vốn liếng vừa gom.
Chúng ta hiểu tại sao những nguồn tư tưởng triết học vĩ đại của
Trung Hoa rực sáng tiên phong suốt thời Đông Chu Liệt Quốc chỉ để
rồi trì trệ thụ động suốt hai ngàn năm sau đó.
Chúng ta hiểu tại sao, hơn nửa thế kỷ qua và có thể còn lâu trong
tương lai,Việt Nam vẫn chờ đợi một nhà thơ lớn, một nhà văn lớn,
một tác phẩm lớn.
Phan thái Yên
10/2004
(Viết theo tài liệu từ Đặc San “Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc”, Tủ
Sách Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa Sài Gòn, 1959)
|