SỐ 36 - THÁNG 10 NĂM 2007

 

Thơ

Đêm cuối ở Nha Trang
24
Vũ Hoàng Thư
Chiếc Taco lưu lạc

24 Phạm Hồng Ân
Viễn hoài
24
Tiểu Đỉnh
Khuýp danh

23
Ái Ưu Du
Đọc thư
21Trần Việt Bắc
Tình đã giá băng
18
Huỳnh Kim Khanh
Trang thơ cũ bản đàn xưa
18
Ngọc Trân
Paris quê hương tôi ?
18
Tôn Thất Phú Sĩ
Anh vội để một vầng thơ đâu đó
18Kim Thành
Sa Pa Việt Bắc
18Đỗ Phong Châu
Nỗi nhớ
21
Trần Hoan Trinh


Truyện ngắn, Tâm bút

Vượt trại
14
Phạm Hồng Ân
Sàigòn, Người cũ, Khoảng trống ...
14Nguyên Nhi
Tản mạn phố xưa
14Phan Thái Yên
Duyên khởi
14Cỏ Biển
Hoa tím
13
Xuân Phương
Thư tình tri ngộ
14
Ái Ưu Du
Ở đợ trần gian
15
Võ Thị Đồng Minh
Chợ Mouffetard
8Thi Vũ
Cuối ngày một lần ngồi lại
8Song Thao
Sự cô đơn và khát vọng đợi chờ trong thi phẩm Bến Đợi
8Lê Miên Khương


Văn học, biên khảo

Giao Chỉ và Tượng Quận (3)
4Trần Việt Bắc
Sống thiện chết lành (10)
4Ngô Văn Xuân
Phiếm luận văn chương
4Huỳnh Kim Khanh
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 23
3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài

Giữa hai lằn đạn
1Ái Ưu Du
Vô tình cốc - Kỳ 30
1Huỳnh Kim Khanh


 

Chợ Mouffetard


Con lừa đứng áng giữa đường chợ. Lưng thồ hai giỏ hoa oải hương thảo (lavande), và các loại lá rau gia vị miền Provence. Đôi mắt ngây thơ rộng tới vô biên. Mặc bao lớp người qua lại ồn ào. Cái nhìn, như loài cá trên sông, không còn cơ khép đậy. Một ngọn đèn thắp mãi trong đêm. Cái nhìn suy tưởng hồn nhiên bám víu vào dòng sống, như mùi thơm trong thoáng gió. Hương vị oải hương thảo ngai ngái từ xa, lôi kéo tôi và Tánh. Đứng nhìn trân một lúc, chúng tôi ngồi xổm cạnh chân lừa. Mỗi đứa vào sâu một góc mắt, hay theo những tầng thơm lục soạn lại bao mẫu đời đã biệt tích nơi vùng xa ký ức.

Người chủ bán oải hương thảo và lá rau cũng phần nào xa lạ như con lừa nơi phố chợ Mouffetard. Tạc người thấp, đầu đội bê rê đen, chiếc quần màu xanh thợ, treo bằng nịt quai ngang trên đôi vai vuông vức. Ống quần rộng gần bằng chiều cao khổ người ông. Thượng trên đôi guốc gỗ bọc da cao ngất. Chông chênh dư thừa giữa mặt đường lót đá phẳng phiu. Con người đó chỉ thoải mái khi di động nơi chiều cao lối núi, con lừa đó cũng chỉ bình yên khi gõ nhịp cho mây trên sườn đồi. Bây giờ bọn họ bị vất xuống thị trấn, đứng im buồn bán độ nhật, còn lại gì ngoài mớ hương thoang thoẳng?

Chốc chốc Tánh nhìn tôi cười ngầm, như cùng khám phá một nỗi diệu kỳ nào của đời sống, mà khu chợ búa này đã để sổng đi theo từng bụm hương. Hương lavande trên lưng lừa. Hương của từng núi hoa quả, đào, lê, táo, cà chua ... chất chồng hàng quán dọc hai dãy phố hẹp. Chốc nữa đây, các bà nội trợ tấp nập sẽ mang riêng về nhà mình những bó rau ngọc thạch, những đĩa quả mọng nắng, những cá thịt tươi rói. Họ dọn tất cả lên bàn cơm thịnh soạn. Bàn cơm là nghĩa địa của bao nhiêu hương trời và trái đất, bao nhiêu sinh vật còn nhởn nhơ bơi lội hay chơi đùa hôm trước
Con cá nhởn nhơ trong nước. Con bò nhởn nhơ trên đồng. Rau cỏ nhởn nhơ theo gió đùa .... Người cũng nhởn nhơ nơi thế giới chăng ? Để tới lúc nào đó, bị lùa về chốn chợ trời, như hoa quả rau thịt ở chợ Mouffetard ?
Một dòng thư của người em gái chợt xoạc qua đầu:

"Ồ em tưởng tượng lúc đặt chân lên vùng đất tự do, em sẽ qùy xuống mà hôn lên nó, như đã từng tưởng tượng khi còn điêu đứng ở quê nhà. Nhưng em đã không qùy hôn mảnh đất đầu tiên đón em trên đường ly quốc, bởi em chưa cảm thấy được tự do trong đồn lính Mã Lai. Đàn ông thì bị đá đít và bị bắt hít đất. Đàn bà thì bị rọi đèn pin vô mặt, khiến đêm đầu tiên ấy dài bằng một năm. Rồi năm sáu tháng ở trại tỵ nạn chờ ngày lên đường sang một quốc gia đệ tam. Ôi, tự do phải ăn nóng, để nguội sẽ bớt ngon ... "

Ồ, em! Tự do là một vật thể?  Một vùng đất ư?  Tình yêu chỉ là môi má, và xác thân? Quê hương là một khoảng trống cách lìa?

Nếu chỉ có thế, đời sẽ buồn nhạt và phiền lụy biết bao. Vật thể ta mua được. Má môi có thể chiếm đoạt. Khoảng trống sẽ lấp đầy. Nhưng tự do, tình yêu, và quê hương? Và lòng mình-nơi khởi dựng thế giới?

Khắp mặt đất, dưới bất cứ chính thể nào, đâu đâu cũng còn sót lại rất nhiều những tên lính hay cảnh sát thô bạo. Ta theo hay bỏ, đâu vì một vài tên hạ cấp côn đồ ấy. Những tháng năm dù dài ở Thái, Mã Lai, Nam Dương ... vẫn không là trại giam nơi Cao Nguyên hay Việt Bắc. Em có nhận ra điều đó ? Bởi vì nỗi cơ cầu ở trại tỵ nạn vẫn mầm chứa một niềm hy vọng, đang dần dà sinh nở ra những lần lựa chọn, trao ta cặp cánh để vượt thoát đến những phương trời. Còn nơi quê hương kia, con người cứ bé dần vào cơn tuyệt vọng, nấc thành nỗi chết thảm trong hồn. Que quắt quả cau khô. Những kẻ chiếm đóng nơi quê hương kia chẳng cần "đá đít" hay "rọi đèn pin" vào mặt người, vì ở đó, chúng ta không là người nữa. Chúng ta vật - sở - hữu nô lệ của những ông Quan thuộc Giai Cấp mới chuyên buôn lậu hồn người. Nghĩ lại đi, chưa bao giờ chúng ta được chứng kiến nước Việt Nam giang tay đón tiếp một dân tộc khác đi tìm lẽ sống như ta, nên chưa xác định được đồn lính Mã Lai kia hiền hay dữ. Nơi ta đã phiền lòng hay đau đớn thấy những biểu hiện thất tình mấy kẻ thiếu văn hoá.

Tự do không là vật thể, quà cáp. Cũng không là sự nhởn nhơ. Bấy lâu, ta chỉ sống nhởn nhơ theo ngọn gió phương Tây suốt thời Pháp Thuộc. Rồi nhởn nhơ đi kháng chiến. Nhởn nhơ trở về thành. Nhởn nhơ đi lính Cọng Hoà, đi du học, đi biểu tình hoan hô hay đả đảo một chế độ. Nhởn nhơ đi tu, nhởn nhơ lên chùa, nhởn nhơ làm báo ... Xem nhởn nhơ là sự tự do, và tự do là những điều ưa thích, đam mê phải chiếm hữu. Như con bò nhởn nhơ nhai cỏ. Con cá nhởn nhơ bơi lội. Con chó nhởn nhơ thả mồi bắt bóng. Cứ thế, tới hôm nay đây, vẫn còn có người người lớp lớp nhởn nhơ về thăm "quê hương" theo chương trình du lịch khai thác "thặng dư giá trị" đồng đô la hay phật lăng, tìm lẽ sống còn cho chủ nghĩa vô sản xã hội.

Hay nhởn nhơ vượt biển ra đi.
Không. Nhởn nhơ không là sự tự do. Làm sao em sống được với "nỗi buồn xa xứ" đã dần thành con sâu lao trong buồng phổi ? Rồi đây, cũng "nỗi buồn xa xứ" ấy, dù có trở lại quê nhà, em cũng sẽ cứ nhớ buồn một xứ xa ray rứt khôn cùng. Ở trong nước, ta không chịu để thể chế bất nhân kia chụp đè lên tâm thức ta một giới hạn. Nên ta sử dụng tự-do-ta, bằng hành động chống đối hay chọn lựa ra đi. Nhưng khi đến được nơi mơ ước, ta lai dánh mất khả tính tự-do-ta này, ta chán chường, hết nhất tâm phá vỡ vòng vây của giới hạn đang độc tài vây khốn người ở lại, hay những giới hạn chụp đè mới, manh nha nơi xã hội tiêu thụ, để bảo tồn tự-do-ta. Ta cứ trầm theo nỗi nhớ thương hủy thể, hay những kỷ niệm rụng rời.

Con người ít chịu sống với quê hương trong lòng mình, tình yêu trong lòng mình, tự do trong lòng mình. Con người chạy theo loài qủy ám, rức mình đi xa. Hóa thân ra trăm chục con đồng lắc lư vô định. Người Việt cứ đi hoài về một phương Nam xa khuất. Tựa con lừa kia bước hoài theo giỏ cỏ người xà ích treo trước mỏm, đem miếng ăn dụ nó kéo xe.

Nơi mỗi góc lòng người Việt, vang động hoài bước chân tổ tiên đi. Tổ tiên ta đã rời bỏ dòng sông Dương Tử, rời bỏ Hồ Động Đình, vượt biển xuống phương Nam. Từ đó, chúng ta rầm rập theo hoài những bước chân vô hình ấy. Và nay thì anh em ta, kẻ ở Cali, người ở Úc, người đứng bơ vơ giữa Mouffetard, khu chợ thơ mộng của thành phố Paris.
Mà chúng ta đi về phương Nam, hướng ngọn Lửa văn minh chuyển hoá, do chiếc giỏ cỏ treo trước hàm ngựa dẫn lối ? Hay theo một tinh cầu tự thóat nào ? Tự do chưa là đích, vì tự do là con đường đưa về chân lý, đưa về thực tại tối hậu của đời người trên mặt đất.

Chúng ta là những hoàng tử Oreste trên đường về thành Argos trong vở kịch "Loài Ruồi Nhặng" (Les Mou ches) của Sartre đây chăng ?

Tôi đi từ thành này sang phố khác, xa lạ với mọi người và với cả chính tôi; rồi những thành phố trùng điệp khép lại sau bước chân tôi như một mặt nước yên tĩnh ...(1)
Tôi đã biết là mình bị lưu đày ... Những hương vị và âm thanh, tiếng mưa rơi trên mái ngói, những lẵng nắng đung đưa, tôi đã để mọi thứ đó lướt qua thân thể mình và tràn rơi bốn phía; tôi đã biết là mọi thứ đó bị những kẻ khác chiếm rồi, và chẳng bao giờ còn được cất giữ chúng vào kho tàng kỷ niệm ..."(2)
Tôi gọi mời bao kỷ niệm, tôi xin một miếng đất, một chỗ đứng giữa lòng dân thành Argos. Tôi muốn kéo cả thị trấn bao quanh như cuốn thân vào chăn ấm. Không, tôi sẽ không chịu đi đâu cả (3)

Nói cho hả chí. Ước vọng cho nhiều để giấu che sự bất lực. Người vẫn không cưỡng lại được với hoàn cảnh, mà lỗi là vì mình chẳng chịu chủ định sắp đặt từ trước. Oreste, hay chúng ta, vẫn phải rời bỏ quê hương mà đi. Oreste mất hai mươi ròng, lưu đày.

Đi hay đứng đều chưa phải tự do. Và tự đo không là sự chiếm hữu. Vì tự do là sự sống đã chọn lựa, đã chủ định, nhú ra như cành nụ nói lên tiếng nói chung hoà của lòng đất. Tự do là mốt cái lướt đi, một sự vượt tới. Tự do là tung vỡ giới hạn để hoà nhập nơi trùng trùng, mà chẳng cần lưu dấu.

Như con nhạn liệng giữa thinh không, bóng rơi vào mặt nước lạnh. Nhạn không hề cố ý lưu dấu, nước cũng chẳng muốn giữ bóng nhạn vào lòng:

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhan vô tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
Hương Hải
(thi sĩ Việt Nam, thế kỷ 17)

Lướt đi, lướt tới, vượt qua mọi mối hời hợt, giả trá, tàn độc, đạo đức giả của xã hội. Đừng bám thân vào đôi cánh phù du, vào nỗi đời bọt bèo. Tuôn đi như sông nước, quất tới như sấm chớp. Ta kéo cả thế gian theo nhịp điệu kiêu hùng trên tồn sinh miên viễn. Tất cả cùng ta thảnh thơi tung vỡ giới hạn.

Con cá vì nhởn nhơ mà mắc lưới. Con bò vì nhởn nhơ mà vào lò sát sinh. Vì nhởn nhơ chúng ta thành dân nô lệ. Đã bao đời. Và còn tới mấy đời ?

Đến bao giờ, chúng ta mới thảnh thơi tung vỡ giới hạn. Đến bao giờ, tiếng chân vang vọng của tiền nhân bỏ nguồn sông Dương Tử vượt biển xuôi Nam, của người miền Bắc về phương Nam tìm tự do năm 1954, của người Vượt Biển, từ 1975, xuôi Nam Hải ra chín phương trời thế giới, mới đứng dừng ? Mới thôi theo chiếc giỏ cỏ treo trước hàm ngựa ? Để tự do không chỉ là vật thể, tình yêu không chỉ là môi má, quê hương không chỉ là khoảng cách ?
Phải chăng mỗi chúng ta nên hát ru cho biển ngủ, và quay chân trở về cùng ngọn núi tâm tư ? Hiểm trở tới đâu, vẫn không có đỉnh núi nào cao quá dầu gối người trèo. Rồi Núi sẽ vỗ yên những bước chân trần lụy cứ đòi đi xa mãi tâm người, xa mãi thảnh thơi, xa mất Quê chung.

Thi Vũ
14.7.1984


(trích từ Gọi Thầm Giữa Paris, tạp ghi, Quê Mẹ xuất bản, 1986)

1. "Je vais de ville en veille, étranger aux autres et à moi-même; et les villes se referment derrière moi comme une eau tranquille ..."
2. "Je savais que J'étais exilé... Les odeurs it les sons, le bruit de la pluie sur les toits, les tremblements de la lumière, je les laissais glisser le long de mon corps it tomber autour de moi, je savais qu'ils appartiennent aux autres it que je ne pourrais jamais en faire mes souvenirs..."
3. "Je veux mes souverirs, mon sol, ma place au milieu des hommes d'Argos. Je veux tirer la ville au tour de moi et m'y enrouler comme dans une couverture . Je ne m'en irais pas"